TÓM TẮC TÔNG SẮC MISERICORDIAE VULTUS
– DUNG NHAN LÒNG THƯƠNG XÓT
(Dựa theo bảng dịch của Lm Đa-Minh
Thiệu CS)
Tông Sắc “Misericordiae vultus - Dung Nhan Lòng Thương
Xót gồm 25 số gồm gồm 4 phần:
Phần I: Ý niệm về Lòng Thương Xót (số 1-13).
Phần II: Làm thế nào để sống Năm Thánh hiệu
quả nhất (số 14-18).
Phần III: Lời kêu gọi cho từng thành phần cụ
thể (số 19-23).
Phần kết: Mẹ Maria “Thân Mẫu của Lòng Thương
Xót (số 24-25).
Phần
thứ I: Ý niệm Lòng Thương xót
Mở đầu Tông Sắc Đức Thánh Cha
khẳng định rằng Chúa Giê-su Ki-tô là Dung Nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
Cha vì chưng, trong
Chúa Giê-su Kitô, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha trở nên sống động và rõ
ràng và thấy tột đỉnh điểm của nó. Vì vậy ai thấy Ngài là thấy
Cha (x. Ga 14,9) mà Chúa Cha là “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận,
giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6) và "giàu lòng thương xót" (Ep 2,4) (số 1).
Đức Thánh Cha giải thích rằng cụm
từ "Lòng Thương Xót" diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi, bản chất của Thiên
Chúa và tương quan giữa Thiên Chúa với con người. Lòng Thương Xót chính
là con đường mà nó gắn kết Thiên Chúa và con người lại với nhau, vì chưng, Lòng
Thương Xót mở con tim ra cho niềm hy vọng trước việc chúng ta được yêu thương
mãi mãi bất chấp sự giới hạn vì tội lỗi của chúng ta (số 2).
Lý do mở Năm thánh Lòng Thương Xót là để mọi
người tin, làm chứng mạnh mẽ và hiệu năng hơn về Lòng Thương Xót của Chúa Cha trong
xã hội hôm nay (số 3§1).
Đức Thánh Cha đưa ra hai lý do tại
sao khai mạc vào ngày 8-12. Thứ nhất, 8-12 là ngày lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên
tội vì Mẹ Maria giữ vai trò khởi đầu lịch sử cứu độ, khởi đầu cho ơn tha thứ
của Thiên Chúa. Việc mở Cửa Thánh giống như mở Cửa Lòng Thương Xót để ai bước
qua thì sẽ được "được an ủi, được tha thứ và ban tặng niềm hy vọng"
(số 3§2). Lý do thứ hai, 8-12 nhắc đến ngày kết thúc Công Đồng Va-ti-ca-nô II
tròn 50 năm. Đây là lúc loan báo Tin mừng theo cách thức mới trong đó Giáo Hội
trở nên dấu chỉ sống động cho Tình Yêu của Thiên Chúa Cha và mọi Kitô hữu phải
làm chứng mạnh mẽ về đức tin với niềm hăng hái và đầy sức thuyết phục (số 4§1).
Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng, tất
cả các Cửa Thánh của những nhà thờ Chính Toà từ Rô-ma đến Giáo Hội địa phương được
ban phép mở để người hành hương đón nhận ân sủng đồng thời canh tân đời sống
thiêng liêng. Đức Thánh Cha cho phép Đức Giám Mục Giáo Phận có thể mở một Cửa
Thánh tại các trung tâm hành hương. Năm Thánh không chỉ được cử hành tại Rôma
mà cả ở các Giáo Hội địa như dấu chỉ rõ rệt nhất về sự hiệp thông của toàn Giáo
Hội (số 3§3).
Trong lời khai mạc Công Đồng
Va-ti-ca-nô II, Thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII nhắc đến cụm từ "Lòng Thương
Xót", Ngài ví nó như phương dược chữa lành hơn là những khí giới của sự
nghiêm khắc. Đến lượt Chân phước Giáo Hoàng Phao-lô VI, dù không có cụm từ trên
nhưng Ngài cũng nói đến Đức Ái đối với tha nhân, nó phương dược chữa trị tất cả
những bệnh tật và mọi nhu cầu của họ (số 4§2).
Với tinh thần biết ơn đối với
điều mà Giáo Hội đã lãnh nhận, Năm Thánh này được mở ra để Dân Chúa chiêm
ngưỡng Dung Nhan Lòng Thương Xót. Đức Thánh Cha cầu xin Chúa Thánh Thần giúp
Giáo Hội và mọi kitô hữu cộng tác vào công cuộc cứu độ của Đức Ki-tô (số 4§3).
Năm Thánh kết thúc ngày 20 thánh 11 năm 2016, Chúa Nhật lễ Chúa
Ki-tô, Vua Vũ trụ. Đức Thánh Cha mong muốn chúng ta trước hết phải biết ơn đối với Thiên
Chúa Ba Ngôi Chí Thánh vì Cổng Thánh đã trao tặng chúng ta một thời gian ân
sủng đặc biệt. Thứ đến, phải trao phó đời sống của Giáo hội, toàn thể nhân loại
và vũ trụ mênh mông cho quyền thống trị của Chúa Ki-tô. Cuối cùng, tất cả mọi
người đều có thể trải nghiệm về dầu thơm Lòng Thương Xót, như là dấu chỉ của
Triều Đại Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng ta (số 5).
Đức Thánh Cha trích dẫn lời của
thánh Tô-ma A-qui-nô và tổng nguyện cổ của Chúa Nhật XXVI Thường niên để chỉ ra sức mạnh của Lòng Thương Xót Chúa luôn hiện diện trong
lịch sử nhân loại không
phải là một dấu chỉ của sự yếu nhược, nhưng là một nét đặc trưng nơi quyền năng
của Ngài (số 6§1). Đức Thánh Cha dẫn chúng ta trở về Cựu Ước để chỉ cho
thấy bản tính của Thiên Chúa được mô tả là “nhẫn nại và thương xót”. Lòng
Thương Xót của Thiên Chúa được diễn tả bằng những hành vi cụ thể: kiên nhẫn, công
mình, trìu yêu mến, khoan hậu, tha thứ, cảm thông, nâng đỡ… (số 6§2).
Đức Thánh Cha giải thích câu
Thánh vịnh 136: “Muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” để chỉ ra rằng ánh mắt nhân hậu
và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không chỉ tồn tại trong lịch sử cứu độ mà còn
trải rộng cho đến vĩnh cửu (số 7§1). Từ đó, Đức Thánh Cha nối kết giữa Cựu Ước với
Tân Ước qua cử chỉ hát Thánh vịnh của Chúa Kitô vào ngày lễ Vượt qua, ngày trước
khi Ngài chịu chết để mạc khải cho nhân loại thấy ánh sáng Lòng Thương Xót: Chúa Giê-su đã sống, chịu khổ hình, chết trên thập giá và
phục sinh, đó là mầu nhiệm vĩ đại của Tình Yêu. Vì thế, mọi kitô hữu chúng ta phải cầu nguyện hằng ngày bằng điệp
khúc "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn
tình thương" (số 7§2).
Đức Thánh Cha nói rằng nhìn vào
Chúa Giêsu và dung nhan nhân hậu của Ngài, chúng ta thấy được Tình Yêu của Thiên
Chúa Ba Ngôi, là tình yêu tự hiến, viên mãn, hữu hình và chạm tới được bởi vì
chính Ngôi Con làm người đã hoàn tất mọi hành vi bằng tình yêu, trong tình yêu
và qua tình yêu. Vì thế, "trong Ngài, tất cả đều nói về Lòng Thương
Xót" (số 8§1). Đức Thánh Cha lược lại những cử chỉ tình yêu thương xót của
Chúa Giêsu trong Tin Mừng nhất lãm: chạnh lòng thương, chữa bệnh, trừ quỉ, cho
ăn, phục sinh kẻ chết, chọn các tông đồ... Đức Thánh Cha nhắc lại bài chú giải
của thánh Bê-đa đáng kính về việc Chúa Giêsu nhìn Mát-thêu với tình yêu thương
xót, từ đó Đức Thánh Cha đã chọn khẩu hiệu cho đời Giám mục và Giáo hoàng của
mình: “Chạnh lòng thương và tuyển chọn” (số 8§2).
Tiếp đó, với ba dụ ngôn gây ấn
tượng về Lòng Thương Xót: con chiên lạc, đồng bạc bị mất và người
cha với hai con trai (x. Lc 15, 1-32), Đức Thánh Cha nói trong
bản tính cha, Thiên Chúa luôn tha thứ, cảm thông và thương xót. Đó là cốt lõi
của Tin Mừng và Đức Tin. Lòng Thương Xót tỏ ra sức mạnh vượt thắng tất cả, tỏ ra
niềm an ủi khi tha thứ (số 9§1). Đức Thánh Cha nhắc đến hai dụ ngôn: tha
thứ mấy lần? (x. Mt 18, 21-22) và tên mắc nợ không biết thương xót (x. Mt 18, 23-33) để nhấn mạnh về tha thứ của con người. Hãy
tha thứ cho tha nhân vô hạn như Chúa tha cho ta, nếu không Cha trên trời cũng sẽ
đối xử với ta như vậy (x. Mt 18, 35) (số 9§2). Để tỏ ra là những người con
đích thực của Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, chúng ta cũng phải sống Lòng
Thương Xót trong Năm Thánh này bằng việc tha thứ để có được bình an và hạnh
phúc vì vậy, "Chớ để mặt trời lặn mà
cơn giận vẫn còn" (Ep 4, 26) và "Phúc thay ai thương xót, vì họ sẽ được xót thương" (Mt 5,7) (số
9§3). Dựa vào Kinh Thánh, Đức Thánh Cha khẳng định Lòng Thương Xót là trách
nhiệm của Thiên Chúa, luôn là hành động, là thái độ thường ngày, cụ thể và rõ
ràng. Từ đó, con cái Thiên Chúa cũng nhận thấy trách nhiệm của mình mà thương
xót nhau, như "nằm trên một cùng bước sóng" với Lòng Thương Xót của
Thiên Chúa vậy (số 9§4).
Như cột trụ hỗ trợ Giáo Hội,
Lòng Thương Xót phải được trao cho nhân loại vì ngày nay con người sống với
nhau chỉ bằng công bằng, ít tha thứ. Cho nên, đã đến lúc Giáo Hội phải công bố
một cách vui vẻ về Lòng Thương Xót và sự tha thứ. Vì tha thứ là một "sức mạnh làm cho tái sinh để trở thành một
cuộc sống mới". Đây là thời gian Giáo Hội trở về với những gì căn bản
và chính yếu của mình để đón nhận, gánh lấy những người yếu đuối và những người
đang gặp khó khăn nhất (số 10§1).
Đức Thánh Cha trích lại số 2
của Thông Điệp, “Thiên Chúa Giàu Lòng
Thương Xót” của Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II để cho thấy rằng những
lời này sau 35 năm vẫn còn nguyên vẹn: thực tại xã hội và con người không thay
đổi, vẫn thờ ơ với Lòng Thương Xót Chúa. Do đó, Giáo Hội và mọi người hôm nay phải
cảm thức về Đức Tin, hướng về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa để có thể tuyên
xưng, công bố và sống một cách hồn nhiên và tự phát (số 11§1). Đức Thánh Cha trích
tiếp số 15 Thông điệp trên để tiếp nối lời cầu xin Lòng Thương Xót của vị tiền
nhiệm đáng kính, nhưng bằng cách thức mở Năm Thánh Lòng Thương Xót ngõ hầu gây
tiếng vang lớn, đáp ứng sứ mệnh và bản chất của Giáo Hội "vừa là người cho
và là người nhận Lòng Thương Xót” (số 11§2).
Trong thời đại mới này, Đức
Thánh Cha muốn Hiền Thê của Chúa Kitô biến hành động của Con Thiên Chúa thành
hành động của mình và phải đến với tất cả mọi người, rập theo tinh thần của
Chàng Rể là Đức Kitô. Giáo Hội cần tỏ ra sự mới mẻ trong công cuộc tái loan báo
Tin Mừng và công việc mục vụ. Vì thế, Giáo Hội cần phải nhiệt tâm, dùng ngôn
ngữ và cử chỉ của Lòng Thương Xót để đưa mọi người về với Thiên Chúa Cha (số
12§1). Với vai trò nữ tỳ Tình Yêu Chúa Kitô, Giáo Hội luôn tha thứ và tự hiến. Do
đó, ở đâu có Giáo Hội, có kitô hữu, ở đó có Lòng Thương Xót của Chúa Cha ( số
12§2).
Trong Năm Thánh, Đức Thánh Cha muốn
chúng ta sống “Thương Xót như Chúa Cha”. Để làm được điều này, chúng ta phải
thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa, để chiêm ngắm Lòng Thương Xót Chúa và để Lòng
Thương Xót trở nên cách sống của mình (số 13).
Phần
II: Làm thế nào để sống Năm Thánh hiệu quả nhất (số 14-18)
Thứ nhất, hãy hành hương qua Cửa Thánh.
Qua Cửa Thánh tức mời gọi hoán cải để Lòng Thương Xót Chúa bao bọc và để chúng
ta cũng có lòng thương xót đối với người khác như Chúa Cha đối xử với chúng ta
(số 14§1).
Thứ hai, hãy sống những giai đoạn của hành hương bằng những hành
vi cụ thể: không phán xét, không kết án, không nói xấu nhau, tha thứ và trao
hiến chính thân mình hầu trở nên khí cụ của sự tha thứ. Phán xét và kết án sẽ
gây cho người ta đau khổ và tội kiêu căng. Cho nên, Đức Thánh Cha khuyên chúng
ta phải tránh xa hai nết xấu này, cộng với tinh thần tha thứ và cho đi thì Lòng
Thương Xót mới được đầy đủ (số 14§2). Đức Thánh Cha đưa ra khẩu hiệu của Năm
Thánh là: “Thương Xót như Chúa Cha”. Bản chất Lòng Thương Xót của Thiên
Chúa là
trao hiến toàn thân mình một cách vĩnh viễn, như một quà tặng nhưng không.
Thiên Chúa sẽ đến giúp chúng ta khi chúng ta cầu xin. Ngài đến để cứu chúng ta
ra khỏi sự yếu hèn của chúng ta. Vì vậy, được gây xúc động bởi Lòng Thương Xót
của Thiên Chúa, hằng ngày chúng ta trở nên nhân từ đối với tha nhân (số 14§3).
Thứ ba, hãy mở mắt và mở cõi
lòng mình ra cho tất cả những ai đang sống tại những vùng rìa khác nhau của
kiếp hiện sinh, những người nghèo khổ, những người bị cướp đi phẩm giá của họ
và các bệnh nhân. Trong Năm Toàn Xá này, Giáo hội được mời gọi chữa trị những
vết thương ấy, hầu xoa dịu những vết thương ấy bằng dầu ủi an, băng bó những
vết thương ấy bằng Lòng Thương Xót, và chữa lành những vết thương ấy bằng tình
liên đới và sự kính trọng (số 15§1).
Thứ tư, hãy làm việc bác ái đối
với tha nhân cả thể xác và tinh thần theo theo lời dạy của Chúa Giê-su: cho kẻ
đói ăn, cho kẻ khát uống, khuyên bảo, dạy dỗ, an ủi... (x. Mt 25,
31-45) (số 15§2). Và Đức Thánh Cha quả quyết họ là hiện thân của Chúa
Giê-su, vì thế chúng ta phải nhận ra, đụng chạm và giúp đỡ họ một cách chu đáo
(số 15§3).
Thứ năm, hãy công bố và thực
thi sứ mạng của Chúa Giêsu được mô tả trong Tin mừng Lu-ca: “Thần khí của Đức
Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi
đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố
lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một
năm hồng ân của Đức Chúa” (Lc 4,18-19). Đức Thánh Cha ước
mong câu Thánh Kinh này được thấy rõ ràng qua chứng tá đời sống mà các các kitô
hữu kêu gọi để trao đi. "Ai thực thi Lòng Thương Xót thì hãy thực thi việc
ấy cách vui vẻ" (Rm 12, 8) (số 16).
Thứ sáu, trong Mùa Chay của
Năm Thánh, cần phải suy niệm các trang Thánh Kinh về Lòng Thương Xót của Chúa
Cha để kinh nghiệm và khám phá dung nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa (số 17§1).
Đức Thánh Cha nhấn mạnh đây là mùa cầu nguyện, mùa thực thi Đức ái đối với tha
nhân (số 17§2).
Thứ bảy, các Giáo phận cử hành
"24 giờ cho Chúa" vào các ngày thứ sáu và thứ bảy trước Chúa Nhật thứ
tư Mùa Chay. Mọi tín hữu phải siêng năng lãnh nhận Bí tích Hòa Giải, nhất là
người trẻ trở về với Chúa, tìm lại ý nghĩa cuộc sống, hưởng ơn bình an đích
thực, đó là Lòng Thương Xót lớn lao của Thiên Chúa (số 17§3).
Tiếp đó, Đức Thánh Cha khuyên
các Cha giải tội rằng các Cha phải là dấu chỉ thực sự đối với Lòng Thương
Xót của Cha, nhưng trước tiên các Cha cũng phải sám hối. Các Cha giải tội phải
là tôi tớ trung tín của ơn tha thứ. Các Cha cần phải đi tìm những "người
con hoang đàng" ở xa và bất hạnh đồng thời đón nhận trong vòng tay yêu
thương. Vì thế, khắp nơi và ở mọi hoàn cảnh, các Cha giải tội luôn là dấu chỉ riêng
của Lòng Thương Xót (số 17§4).
Cũng trong Mùa Chay Năm Thánh,
Đức Thánh Cha gửi đi các nhà truyền giáo của Lòng Thương Xót. Đức Thánh
Cha sẽ trao cho các ngài toàn quyền trong việc giải trừ các tội lỗi, mà cứ sự
thường việc tha thứ những tội ấy chỉ thuộc thẩm quyền của Tòa Thánh. Vì thế, các
ngài phải là:
-
Dấu
chỉ sống động cho sự sẵn sàng của Chúa Cha chào đón những ai tìm kiếm sự tha
thứ của Ngài.
-
Tác nhân cho tất cả, không loại trừ một ai,
trong một cuộc gặp gỡ nhân bản thực sự, là nguồn của sự giải thoát, đầy tinh
thần trách nhiệm trong việc khắc phục những trở ngại và hướng (hối
nhân) đến với cuộc sống mới trong Phép
Rửa một lần nữa.
-
Được
dẫn dắt bằng Lời Chúa: “Quả thế, Thiên
Chúa đã giam hãm mọi người trong tội bất tuân, để thương xót mọi người” (Rm
11,32).
-
Nhà
giảng thuyết đầy cảm hứng của Lòng Thương Xót Chúa.
-
Là
sứ giả của niềm vui tha thứ (số 18§1).
Sau khi kêu gọi Đức Giám Mục đón
tiếp họ, Đức Thánh Cha mong các Giáo phận có những sáng kiến tổ chức
các cuộc “truyền giáo mang tính quần chúng” để các nhà truyền giáo này trở
thành những người công bố niềm vui và ân sủng thông qua sự tha thứ trong Năm
Thánh, đặc biệt trong Mùa Chay (số 18§2).
Phần
III: Lời kêu gọi cho từng thành phần cụ thể (số 19-23)
Đức Thánh Cha ước mong hết mọi
người được tha thứ, cách riêng thứ nhất những
thành phần thuộc những tổ chức tội phạm.
Đức Thánh Cha kêu gọi họ: hãy sám hối và thay đổi cuộc
sống của mình. Ngài cho biết mối nguy hại của tiền bạc và bạo lực. Ngài kết
luận trước
hay sau gì đi nữa, thế nào cũng có lúc cuộc phán xét của Thiên Chúa sẽ đến với
tất cả, không người nào có thể trốn khỏi cuộc phán xét ấy (số 19§1).
Thứ đến là những người bảo trợ
và đồng lõa với sự tham ô: hãy loại trừ tai ương
tham ô này ra khỏi cuộc sống riêng tư cũng như cuộc sống công cộng. Tội này cám dỗ hết mọi người. Ngài phân tích về tác hại của tham
nhũng và khuyên mọi người biết hãy cảnh giác sự cám dỗ này (số 19§2).
Cuối cùng, với nhiều tội khác
nữa, Đức Thánh Cha nói đây là lúc mọi người cần thay đổi đời sống, đồng thời là
lúc phải lắng nghe những người vô tội cầu cứu. Thiên Chúa luôn lắng nghe, bản
thân Ngài, các Giám mục và Linh mục cũng đang lắng nghe (số 19§3).
Đức Thánh Cha nêu lên mối tương
quan giữa đức công bình và Lòng Thương Xót. Chúng không mâu
thuẫn nhưng là hai mặt của một thực tại duy nhất đạt đến Tình Yêu viên mãn. Đức
Thánh Cha giải thích về công bình pháp lý và công bình của Thiên Chúa. Ngài kết
luận: trong Thánh Kinh, đức công chính chủ yếu được hiểu như là một sự phó thác
hoàn toàn và đầy tín tưởng vào Thánh ý Thiên Chúa (số 20§1). Tiếp đến, Đức
Thánh Cha giải thích đức công chính, lề luật, đức tin và Lòng Thương Xót theo
quan điểm của Chúa Giêsu. Chúa Giê-su đề cao đức tin và Lòng Thương Xót,
tức là đề cao việc tìm kiếm tội nhân và phẩm giá con người (số 20§2). Chúa
Giêsu vượt ra khỏi lề luật và chọn Lòng Thương Xót như là "chiều
kích nền tảng nơi sứ vụ của Ngài” để chia sẻ với những ai coi họ là tội nhân
đối với lề luật, giúp chúng ta hiểu về Lòng Thương Xót hơn (số 20§3). Đức Thánh
Cha nêu ra tấm gương của Phao-lô: theo Thánh nhân, không phải tuân thủ lề luật
mà cứu độ nhưng tin vào Chúa Giêsu Kitô. Cho nên, Thánh nhân nói rằng đức công chính
là tin Đức Ki-tô chứ không phải là giữ luật (x.Gl 2,16). Đức tin được ban cho chúng
ta, Lòng Thương Xót làm cho ta nên công chính qua sự chết và sự phục sinh của
Chúa Giêsu. Vậy, đức công chính của Thiên Chúa là giải phóng những
người đang nô lệ của tội lỗi và hậu quả của tội. Đức công chính của Thiên Chúa
là sự tha thứ của Ngài (x. Tv 50,11-16) (số 20§4).
Lòng Thương Xót không đi ngược
với đức công chính, nhưng chứng tỏ thái độ của Thiên Chúa với tội nhân. Đức
Thánh Cha kể lại kinh nghiệm của thời ngôn sứ Hô-sê, thời bi đát nhất của dân
Do thái, Thiên Chúa không bỏ rơi họ. Thiên Chúa giận chỉ một chút nhưng Lòng
Thương Xót thì đời đời (số 21§1). Thiên Chúa vượt trên đức công bình bằng
Lòng Thương Xót và tha thứ, nhưng Thiên Chúa không loại trừ công bình. Dựa vào
thư Rô-ma 10,3-4, Đức Thánh Cha kết luận: đức công bình của Thiên
Chúa là Lòng Thương Xót và ân sủng nhờ cái chết và phục sinh của Đức Giêsu
(số 21§2).
Năm Toàn xá này đặc biệt quan
trọng đối với chúng ta vì chưng tội của chúng ta được tha nhưng cuộc sống của
chúng ta vẫn còn bị ghi đậm dấu vết của những phản kháng và mâu thuẫn trong
thái độ và suy nghĩ của chúng ta. Lòng Thương Xót mạnh hơn tội lỗi, Lòng Thương Xót trở thành ơn
xá giải, Ngài sẽ giải thoát tội nhân khỏi những hậu quả của tội, giúp họ sống
bác ái, lớn lên trong tình yêu thay vì tái phạm tội lỗi (số 22§1). Qua Bí tích
Thánh Thể và trong Giáo Hội, sự hiệp thông các Thánh giúp các tín hữu nên thánh
nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của các Ngài. Đồng thời, ân xá mà Giáo Hội ban
cho nhờ cuộc khổ nạn và tình yêu của Chúa Kitô cũng là để tha thứ đến tột cùng
hậu quả của tội. Do đó, Đức Thánh Cha kêu gọi sống ơn xá giải của Năm Thánh là tín
thác và Lòng Thương Xót và để ơn tha thứ của Ngài tác động trên toàn bộ đời
sống chúng ta (số 22§2).
Giá trị của Lòng Thương Xót
cũng đặt Giáo Hội trong tương quan với Do thái giáo và Hồi giáo, bởi vì
hai Tôn giáo này cũng coi Lòng Thương Xót là một trong những đặc tính giá trị
nhất của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha nhắc đến Do thái giáo trong thời Cựu ước với
các trang Thánh Kinh mô tả họ sống Lòng Thương Xót. Còn Hồi giáo thường ca ngợi
Thiên Chúa Thương Xót và Khoan Dung vì họ luôn biết mình được hành động và được
nâng đỡ bởi Lòng Thương Xót trong sự yếu đuối của cuộc sống hằng ngày (số
23§1). Đức Thánh Cha ước mong Năm Thánh có thể tạo điện điều thuận lợi cho cuộc
gặp gỡ các tôn giáo và truyền thống tôn
giáo đáng kính trọng khác; đối thoại để biết và hiểu nhau hơn; tránh khép kín
và khinh chê; loại trừ bạo lực và kỳ thị (số 23§2).
Phần kết: Mẹ Maria “Thân Mẫu của Lòng Thương
Xót (số 24-25)
Nếu như Năm Thánh khai mạc vào
lễ Mẹ Vô Nhiễm thì kết thúc Tông sắc, Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hướng về
Mẹ Maria, Thân Mẫu của Lòng Thương Xót. Ngài xin Mẹ dịu dàng dõi nhìn chúng ta
trong Năm Thánh, giúp mọi người tái khám phá niềm vui đến từ sự trìu mến của
Thiên Chúa (số 24§1). Đức Thánh Cha gọi Đức Maria là "Khám Giao
Ước" giữa Thiên Chúa và con người vì Mẹ Maria chứng thực rằng lòng thương xót của Con Thiên Chúa không có
giới hạn và đi tới mỗi người không trừ một ai. Khi nhắc
đến bài ca tạ ơn của Mẹ tại ngưỡng cửa nhà chị họ Ê-li-sa-bét, Đức Thánh Cha
cũng nói với chúng ta sống tâm tình này khi qua Cửa Thánh để hưởng hoa trái của
Lòng Thương Xót (số 24§2). Nếu Mẹ được nhắc đến sau biến cố truyền tin, thì
đây, giờ phút cuối cùng của Con, Mẹ là nhân chứng của Lòng Thương Xót vô biên,
qua lời tha thứ của Con Mẹ để liên kết hết mọi người lại. Đức Thánh Cha mời
gọi hãy cầu xin với Mẹ bằng kinh Lạy Nữ Vương để Mẹ nhìn chúng ta với
Lòng Thương Xót và giúp chúng ta chiêm ngưỡng Lòng Thương Xót, Chúa Giê-u, Con
Mẹ (số 24§3). Sau Mẹ Maria, Đức Thánh Cha nhắc chúng ta phải hướng đến các
Thánh và Chân phước, đặc biệt là thánh Faus-ti-na Ko-wals-ka, tông đồ của Lòng
Thương Xót, họ là những người đã biến Lòng Thương Xót thành sứ mệnh của đời họ
(số 24§4).
Kết thúc Tông Sắc, Đức Thánh
Cha bày tỏ ước mong Lời Chúa vang lên cách mạnh mẽ và đầy thuyết phục
bằng lời nói và cử chỉ tha thứ, đỡ nâng, trợ giúp và yêu thương. Ngài ước muốn
Giáo Hội không bao giờ mật mỏi trong việc trao ban Lòng Thương Xót, luôn kiên
nhẫn, an ủi và tha thứ. Ước mong Giáo Hội nói thay cho mọi người với niềm tin
tưởng: "Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa
nặng với ân sâu, Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời" (Tv 25,6)
(số 25§2).
Lm.Giuse Nguyễn Quốc Quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét