Mục 8
“Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần”
Kính thưa
OBACE,
Trước hết
chúng ta hiểu Đức Chúa Thánh Thần là ai?
Bởi đâu mà ra? Ai dạy cho ta biết Đức Chúa Thánh Thần? Thưa, chính Chúa
Giêsu dạy cho ta biết Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba
Thiên Chúa, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng bản tính và một quyền năng như
Chúa Cha và Chúa Con.
Thứ đến, Chúa Thánh Thần làm gì cho ta? Chúng ta
lãnh nhận Đức Chúa Thánh Thần khi nào? Đức Chúa Thánh Thần làm cho nên con
cái Chúa và ban nhiều ơn cần thiết giúp ta sống xứng đáng là môn đệ Chúa Kitô, những
ơn đó là bảy ơn Đức Chúa Thánh Thần: ơn khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh,
suy biết, đạo đức và kính sợ Chúa. Và chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh thần khi
lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và đầy đủ khi chịu Bí Tích Thêm Sức.
Như vậy, danh xưng, các danh hiệu và các biểu tượng
của Chúa Thánh thần như thế nào. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng
“Chúa Thánh Thần” là danh xưng riêng của Đấng chúng ta phụng thờ và tôn vinh
cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Còn từ “Thần Khí” xuất phát từ chữ Ruah trong tiếng
Do thái và có nghĩa đầu tiên là hơi thở, không khí, gió. Chúa Giêsu dùng đúng
hình ảnh khả giác “gió” để gợi ý cho ông Nicôđêmô hiểu sự mới mẻ siêu việt của
Đấng, theo Ngôi Vị, là Hơi Thở của Thiên Chúa, là Thần Khí. Đàng khác, “Thánh”
và “Thần” là những thuộc tính thần linh chung cho Ba Ngôi Vị thần linh. Nhưng
Thánh Kinh, phụng vụ và ngôn ngữ thần học, khi kết hợp hai từ đó lại với nhau,
muốn nói cách riêng đến Ngôi Vị khôn tả của Chúa Thánh Thần, không thể nào lẫn
lộn với những cách sử dụng khác của các từ “thánh” và “thần” (số 691).
Danh hiệu của Chúa Thánh Thần: (1)“Đấng Bào Chữa” (Ga 14,16) cũng
thường được dịch là “Đấng An ủi”; (2) “Thần chân lý” (Ga 16,13); (3) Thần Khí của
lời hứa (Ep 1,13); (4) Thần Khí nghĩa tử (Rm 8,15), (5) Thần Khí của Đức Kitô
(Rm 8,9); (6) Thần Khí của Chúa (2 Cr 3,17), (7) Thần Khí của Thiên Chúa (Rm
8,9); (8) Thần Khí của vinh quang (1 Pr 4,14) (Sđd, số 692-693)
Những biểu tượng chỉ Chúa Thánh Thần:
Thứ nhất là Nước. Trong bí tích Rửa
Tội, nước là một biểu tượng nói lên tác động của Chúa Thánh Thần. Nước Rửa Tội
thật sự nói lên rằng việc chúng ta được sinh vào đời sống thần linh được ban
trong Chúa Thánh Thần. Nhưng, “chúng ta đều
đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí”, “và tất cả chúng ta đã được đầy tràn
một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12,13): Vì vậy đích thân Thần Khí cũng là Nước
hằng sống, chảy ra từ Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá như từ nguồn mạch của
mình, và vọt ra thành sự sống vĩnh cửu trong chúng ta.
Thứ hai là sự xức dầu cũng là một
biểu tượng nói về Chúa Thánh Thần, đến độ từ này trở thành đồng nghĩa với Chúa
Thánh Thần. Trong nghi thức khai tâm Kitô giáo, việc xức dầu là dấu chỉ bí tích
của phép Thêm Sức, mà các Giáo Hội Đông phương gọi cách chính xác là “Sự Xức dầu
thánh”. Cuộc xức dầu đầu tiên bởi Chúa Thánh Thần là cuộc xức dầu cho Chúa
Kitô. “Kitô” (tiếng Do thái là Messia) có nghĩa là “người được xức dầu” bằng Thần
Khí Thiên Chúa (Sđd, số 695).
Thứ ba là Lửa. Trong khi nước là
biểu tượng của việc sinh sản và sinh sôi nảy nở của sự sống được ban trong Chúa
Thánh Thần, thì lửa là biểu tượng của sức mạnh có sức biến đổi của các hoạt động
của Chúa Thánh Thần. Tiên tri Êlia, người “xuất hiện… chẳng khác nào ngọn lửa,
lời của ông tựa đuốc cháy bừng bừng” (Hc 48,1), bằng lời cầu nguyện, ông kéo lửa
từ trời xuống thiêu cháy hy lễ trên núi Carmel, lửa này như hình ảnh của ngọn lửa
là Chúa Thánh Thần, làm biến đổi những gì lửa đó chạm tới. Ông Gioan Tẩy Giả,
người đi trước Chúa “đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia” (Lc 1,17), đã
loan báo Đức Kitô là Đấng “sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”
(Lc 3,16), trong Đấng là Thần Khí mà Chúa Giêsu sẽ nói về Ngài: “Thầy đã đến
ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc
12,49). Dưới hình ảnh những cái lưỡi “như bằng lửa”, Chúa Thánh Thần ngự trên
các môn đệ vào sáng ngày lễ Ngũ Tuần và xuống đầy lòng các ông. Truyền thống linh
đạo sẽ giữ lại biểu tượng ngọn lửa như biểu tượng diễn cảm nhất của hành động của
Chúa Thánh Thần: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx 5,19) (Sđd, số 696).
Thứ tư là Áng mây và ánh sáng.
Hai biểu tượng này không thể tách biệt trong các cuộc tỏ hiện của Chúa Thánh Thần.
Trong các cuộc thần hiện thời Cựu Ước, áng mây khi mờ tối, khi chói sáng, vừa mạc
khải Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vừa che khuất sự siêu việt của vinh quang Ngài;
với ông Môisen trên núi Sinai (Xh 24,15-18), trong Lều Hội Ngộ (Xh 33,9-10) và
suốt cuộc hành trình trong hoang địa (Xh 40,36-38); với vua Salômôn dịp cung hiến
Đền Thờ (1V 8,10-12). Rồi những hình ảnh này được Đức Kitô hoàn thành trong
Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần ngự đến Đức Trinh Nữ Maria và “phủ bóng”
trên Bà, để Bà thụ thai và hạ sinh Chúa Giêsu (Lc 1,35). Trên núi Hiển Dung,
chính Chúa Thánh Thần đến trong đám mây bao phủ Chúa Giêsu, ông Môisen và ông
Êlia, cùng với các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, và “từ đám mây có tiếng phán rằng:
‘Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người’” (Lc
9,35). Cuối cùng, cũng chính đám mây này “quyện lấy Chúa Giêsu khuất mắt” các
môn đệ trong ngày Thăng Thiên và sẽ mạc khải Con Người trong vinh quang của Người
vào ngày Người ngự đến (Sđd, số 697).
Thứ năm là Dấu ấn là một biểu tượng
rất gần với biểu tượng xức dầu. Thật vậy, Đức Kitô là Đấng “Chúa Cha đã ghi dấu
xác nhận” (Ga 6,27), và trong Người, Chúa Cha cũng ghi dấu xác nhận chúng ta
(2Cr 1,22). Hình ảnh “dấu ấn”, bởi vì nói lên hiệu quả không thể xoá nhoà của
việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần trong các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, Truyền
Chức Thánh, nên đã được dùng trong một số truyền thống thần học để diễn tả “ấn
tín” không thể xoá được, được ghi dấu bởi ba bí tích không thể được tái ban đó
là là Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh (Sđd, số 698).
Thứ sáu là Bàn tay. Chúa Giêsu đặt
tay để chữa lành cho các bệnh nhân và chúc lành cho các trẻ em. Các Tông Đồ
cũng làm như vậy nhân danh Người. Hơn nữa, chính qua việc đặt tay của các Tông
Đồ mà Chúa
Thánh Thần được ban. Hội Thánh đã giữ lại dấu chỉ này của việc
tuôn đổ tràn đầy Thánh Thần trong các kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần trong các
bí tích (Sđd, số 699).
Thứ bảy là Ngón tay. Chúa Giêsu
“dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ” (Lc 11,20). Nếu Lề luật của Thiên Chúa được
ghi trên các bia đá “do chính tay Thiên Chúa viết” (Xh 31,18), thì “lá thư của
Đức Kitô”, được trao cho các tông đồ chăm sóc, “đã được viết… bằng Thần Khí của
Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những
tấm bia bằng thịt, tức là lòng người” (2Cr 3,3) (Sđd, số 700).
Thứ tám là Chim bồ câu. Vào cuối
trận lụt đại hồng thủy (đây là một biểu tượng chỉ bí tích Rửa Tội), chim bồ câu
được ông Nôê thả ra đã trở về, ngậm một nhánh ô liu xanh tươi, báo cho biết mặt
đất đã có thể cư ngụ được. Khi Chúa Giêsu tiến lên từ dòng nước phép rửa của
Người, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đáp xuống và ngự trên Người. Chúa Thánh
Thần đáp xuống trái tim đã được thanh tẩy của những người lãnh bí tích Rửa Tội
và nghỉ ngơi ở đó (Sđd, số 701).
Tóm lại, Hội Thánh, sự hiệp thông
sống động trong đức tin của các Tông Đồ do chính Hội Thánh lưu truyền, là môi
trường để chúng ta nhận biết Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa hoạt động
chúng ta:
– trong Thánh Kinh do Ngài linh hứng;
– trong Thánh Truyền, mà các Giáo phụ là những chứng nhân luôn
hiện đại;
– trong Huấn quyền của Hội Thánh, được Ngài trợ lực;
– trong phụng vụ bí tích, qua các lời nói và các biểu tượng
của bí tích, trong đó Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được hiệp thông với Đức
Kitô;
– trong kinh nguyện, chính Ngài chuyển cầu cho chúng ta;
– trong các đặc sủng và các thừa tác vụ, nhờ đó Hội Thánh được
xây dựng;
– trong các dấu chỉ của đời sống tông đồ và thừa sai;
– trong chứng từ của các Thánh, qua đó Ngài biểu lộ sự thánh
thiện của Ngài và tiếp tục công trình cứu độ (Sđd, số 688).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét