Trang

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2016

GIÁO LÝ VỀ KINH TIN KÍNH- Tuần XIX

Mục 8
“Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần”

          Kính thưa OBACE,
          Trước hết chúng ta hiểu Đức Chúa Thánh Thần là ai? Bởi đâu mà ra? Ai dạy cho ta biết Đức Chúa Thánh Thần? Thưa, chính Chúa Giêsu dạy cho ta biết Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng bản tính và một quyền năng như Chúa Cha và Chúa Con.
          Thứ đến, Chúa Thánh Thần làm gì cho ta? Chúng ta lãnh nhận Đức Chúa Thánh Thần khi nào? Đức Chúa Thánh Thần làm cho nên con cái Chúa và ban nhiều ơn cần thiết giúp ta sống xứng đáng là môn đệ Chúa Kitô, những ơn đó là bảy ơn Đức Chúa Thánh Thần: ơn khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, suy biết, đạo đức và kính sợ Chúa. Và chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh thần khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và đầy đủ khi chịu Bí Tích Thêm Sức.

          Như vậy, danh xưng, các danh hiệu và các biểu tượng của Chúa Thánh thần như thế nào. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng “Chúa Thánh Thần” là danh xưng riêng của Đấng chúng ta phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Còn từ “Thần Khí” xuất phát từ chữ Ruah trong tiếng Do thái và có nghĩa đầu tiên là hơi thở, không khí, gió. Chúa Giêsu dùng đúng hình ảnh khả giác “gió” để gợi ý cho ông Nicôđêmô hiểu sự mới mẻ siêu việt của Đấng, theo Ngôi Vị, là Hơi Thở của Thiên Chúa, là Thần Khí. Đàng khác, “Thánh” và “Thần” là những thuộc tính thần linh chung cho Ba Ngôi Vị thần linh. Nhưng Thánh Kinh, phụng vụ và ngôn ngữ thần học, khi kết hợp hai từ đó lại với nhau, muốn nói cách riêng đến Ngôi Vị khôn tả của Chúa Thánh Thần, không thể nào lẫn lộn với những cách sử dụng khác của các từ “thánh” và “thần” (số 691).
Danh hiệu của Chúa Thánh Thần: (1)“Đấng Bào Chữa” (Ga 14,16) cũng thường được dịch là “Đấng An ủi”; (2) “Thần chân lý” (Ga 16,13); (3) Thần Khí của lời hứa (Ep 1,13); (4) Thần Khí nghĩa tử (Rm 8,15), (5) Thần Khí của Đức Kitô (Rm 8,9); (6) Thần Khí của Chúa (2 Cr 3,17), (7) Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8,9); (8) Thần Khí của vinh quang (1 Pr 4,14) (Sđd, số 692-693)
Những biểu tượng chỉ Chúa Thánh Thần:
Thứ nhất là Nước. Trong bí tích Rửa Tội, nước là một biểu tượng nói lên tác động của Chúa Thánh Thần. Nước Rửa Tội thật sự nói lên rằng việc chúng ta được sinh vào đời sống thần linh được ban trong Chúa Thánh Thần. Nhưng, “chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí”, “và tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12,13): Vì vậy đích thân Thần Khí cũng là Nước hằng sống, chảy ra từ Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá như từ nguồn mạch của mình, và vọt ra thành sự sống vĩnh cửu trong chúng ta.
Thứ hai là sự xức dầu cũng là một biểu tượng nói về Chúa Thánh Thần, đến độ từ này trở thành đồng nghĩa với Chúa Thánh Thần. Trong nghi thức khai tâm Kitô giáo, việc xức dầu là dấu chỉ bí tích của phép Thêm Sức, mà các Giáo Hội Đông phương gọi cách chính xác là “Sự Xức dầu thánh”. Cuộc xức dầu đầu tiên bởi Chúa Thánh Thần là cuộc xức dầu cho Chúa Kitô. “Kitô” (tiếng Do thái là Messia) có nghĩa là “người được xức dầu” bằng Thần Khí Thiên Chúa (Sđd, số 695).
Thứ ba là Lửa. Trong khi nước là biểu tượng của việc sinh sản và sinh sôi nảy nở của sự sống được ban trong Chúa Thánh Thần, thì lửa là biểu tượng của sức mạnh có sức biến đổi của các hoạt động của Chúa Thánh Thần. Tiên tri Êlia, người “xuất hiện… chẳng khác nào ngọn lửa, lời của ông tựa đuốc cháy bừng bừng” (Hc 48,1), bằng lời cầu nguyện, ông kéo lửa từ trời xuống thiêu cháy hy lễ trên núi Carmel, lửa này như hình ảnh của ngọn lửa là Chúa Thánh Thần, làm biến đổi những gì lửa đó chạm tới. Ông Gioan Tẩy Giả, người đi trước Chúa “đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia” (Lc 1,17), đã loan báo Đức Kitô là Đấng “sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3,16), trong Đấng là Thần Khí mà Chúa Giêsu sẽ nói về Ngài: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49). Dưới hình ảnh những cái lưỡi “như bằng lửa”, Chúa Thánh Thần ngự trên các môn đệ vào sáng ngày lễ Ngũ Tuần và xuống đầy lòng các ông. Truyền thống linh đạo sẽ giữ lại biểu tượng ngọn lửa như biểu tượng diễn cảm nhất của hành động của Chúa Thánh Thần: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx 5,19) (Sđd, số 696).
Thứ tư là Áng mây và ánh sáng. Hai biểu tượng này không thể tách biệt trong các cuộc tỏ hiện của Chúa Thánh Thần. Trong các cuộc thần hiện thời Cựu Ước, áng mây khi mờ tối, khi chói sáng, vừa mạc khải Thiên Chúa hằng sống và cứu độ, vừa che khuất sự siêu việt của vinh quang Ngài; với ông Môisen trên núi Sinai (Xh 24,15-18), trong Lều Hội Ngộ (Xh 33,9-10) và suốt cuộc hành trình trong hoang địa (Xh 40,36-38); với vua Salômôn dịp cung hiến Đền Thờ (1V 8,10-12). Rồi những hình ảnh này được Đức Kitô hoàn thành trong Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần ngự đến Đức Trinh Nữ Maria và “phủ bóng” trên Bà, để Bà thụ thai và hạ sinh Chúa Giêsu (Lc 1,35). Trên núi Hiển Dung, chính Chúa Thánh Thần đến trong đám mây bao phủ Chúa Giêsu, ông Môisen và ông Êlia, cùng với các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, và “từ đám mây có tiếng phán rằng: ‘Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người’” (Lc 9,35). Cuối cùng, cũng chính đám mây này “quyện lấy Chúa Giêsu khuất mắt” các môn đệ trong ngày Thăng Thiên và sẽ mạc khải Con Người trong vinh quang của Người vào ngày Người ngự đến (Sđd, số 697).
Thứ năm là Dấu ấn là một biểu tượng rất gần với biểu tượng xức dầu. Thật vậy, Đức Kitô là Đấng “Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (Ga 6,27), và trong Người, Chúa Cha cũng ghi dấu xác nhận chúng ta (2Cr 1,22). Hình ảnh “dấu ấn”, bởi vì nói lên hiệu quả không thể xoá nhoà của việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần trong các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, Truyền Chức Thánh, nên đã được dùng trong một số truyền thống thần học để diễn tả “ấn tín” không thể xoá được, được ghi dấu bởi ba bí tích không thể được tái ban đó là là Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh (Sđd, số 698).
Thứ sáu là Bàn tay. Chúa Giêsu đặt tay để chữa lành cho các bệnh nhân và chúc lành cho các trẻ em. Các Tông Đồ cũng làm như vậy nhân danh Người. Hơn nữa, chính qua việc đặt tay của các Tông Đồ mà Chúa
Thánh Thần được ban. Hội Thánh đã giữ lại dấu chỉ này của việc tuôn đổ tràn đầy Thánh Thần trong các kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần trong các bí tích (Sđd, số 699).
Thứ bảy là Ngón tay. Chúa Giêsu “dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ” (Lc 11,20). Nếu Lề luật của Thiên Chúa được ghi trên các bia đá “do chính tay Thiên Chúa viết” (Xh 31,18), thì “lá thư của Đức Kitô”, được trao cho các tông đồ chăm sóc, “đã được viết… bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người” (2Cr 3,3) (Sđd, số 700).
Thứ tám là Chim bồ câu. Vào cuối trận lụt đại hồng thủy (đây là một biểu tượng chỉ bí tích Rửa Tội), chim bồ câu được ông Nôê thả ra đã trở về, ngậm một nhánh ô liu xanh tươi, báo cho biết mặt đất đã có thể cư ngụ được. Khi Chúa Giêsu tiến lên từ dòng nước phép rửa của Người, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đáp xuống và ngự trên Người. Chúa Thánh Thần đáp xuống trái tim đã được thanh tẩy của những người lãnh bí tích Rửa Tội và nghỉ ngơi ở đó (Sđd, số 701).
Tóm lại, Hội Thánh, sự hiệp thông sống động trong đức tin của các Tông Đồ do chính Hội Thánh lưu truyền, là môi trường để chúng ta nhận biết Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa hoạt động chúng ta:
– trong Thánh Kinh do Ngài linh hứng;
– trong Thánh Truyền, mà các Giáo phụ là những chứng nhân luôn hiện đại;
– trong Huấn quyền của Hội Thánh, được Ngài trợ lực;
– trong phụng vụ bí tích, qua các lời nói và các biểu tượng của bí tích, trong đó Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được hiệp thông với Đức Kitô;
– trong kinh nguyện, chính Ngài chuyển cầu cho chúng ta;
– trong các đặc sủng và các thừa tác vụ, nhờ đó Hội Thánh được xây dựng;
– trong các dấu chỉ của đời sống tông đồ và thừa sai;

– trong chứng từ của các Thánh, qua đó Ngài biểu lộ sự thánh thiện của Ngài và tiếp tục công trình cứu độ (Sđd, số 688).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét