Trang

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN VỚI VẤN ĐỀ SÁNG TẠO



 Ngày nay, khoa học kỹ thuật cực kỳ tân tiến hiện đại, nó cuốn hút con người vào dòng xoáy chủ nghĩa thực dụng, rất hiệu nghiệm, rõ ràng, tiện lợi, sắc nét và chắc chắn. Cho nên, nó làm cho người tín hữu dễ dàng khước từ đức tin chân chính của mình, nhất là khi đặt lại vấn đề sáng tạo vũ trụ và con người. Có phải Thiên Chúa thật sự là nguồn gốc phát sinh vũ trụ vật chất và con người? Phải chăng Ngài là Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật, hay chúng được tạo thành do sự tiến hoá? Như vậy, đức tin và khoa học mâu thuẫn nhau? Muốn biết, chúng ta chỉ có thể hỏi loài người bằng chứng cứ khoa học và hỏi Thiên Chúa bằng chứng cứ đức tin.
1. Nguồn gốc vũ trụ vật chất
a. Chứng cứ khoa học 

Khoa học muốn khám phá vũ trụ vật chất phải nhờ qua thời gian, không gian. Họ ghi chú một vài sự kiện, tìm tòi, nghiên cứu các nguyên nhân vật chất, rồi nhận xét đưa ra định luật(1). Nhờ khoa học  chúng ta biết được chiều sâu rộng về độ tuổi và các chiều kích vũ trụ, về sự tiến hoá của các dạng sống, sự xuất hiện của loài người(2). Thế nhưng khoa học chỉ dừng lại ở chỗ nghiên cứu các sự kiện, định luật, nguyên nhân… thuộc phạm vi lý hoá; còn những gì ngoài vòng vũ trụ vật chất đều không thuộc phạm vi khảo cứu của khoa học. Điều đó có nghĩa rằng khoa học  không bàn về sự hiện hữu hay không hiện hữu của siêu vật chất, Thiên Chúa ở ngoài nhãn giới khoa học nên cũng ngoài khả năng của nó. Cho nên, khoa học  không thể minh chứng vũ trụ vĩnh cửu trong quá khứ, vì dù có nghiên cứu liên tiếp mãi trong thời gian, khoa học cũng không bao giờ khảo cứu tường tận được chuỗi các nguyên nhân tạm coi là vô hạn trong thời gian(3). Vậy, “ở trong phòng thí nghiệm, không có tôn giáo, không có triết học, không có vô thần, không có duy vật, cũng không có duy linh. Khảo cứu về nguyên nhân tuyệt đối không thuộc phạm vi của khoa học. khoa học chỉ nhận thức điều gì mình có thể chứng minh: các sự kiện, hiện tượng và nguyên nhân tuỳ thuộc của nó mà thôi”(4).
b, Chứng cứ đức tin
Giáo Hội dạy chỉ có một nguyên nhân siêu vật chất cho mọi sự vật gọi là: Thiên Chúa (5). Về điểm này không có một sự mâu giữa khoa học và đức tin. Khởi đầu Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trời đất (St 1,1) và “từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời là Thiên Chúa… nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành” (Ga 1,1-3). Như thế, Thiên Chúa vĩnh cửu đặt một khởi điểm cho tất cả những gì hiện hữu bên ngoài Ngài, vũ trụ không vĩnh cửu trong quá khứ. Công Đồng Vaticanô II tuyên bố: “Thiên Chúa đã sáng tạo vạn vật trong thời gian”(6), có nghĩa rằng tạo vật không vĩnh viễn và chúng được Thiên Chúa tạo thành trong thời gian. Thánh kinh dạy Thiên Chúa sáng tạo vạn vật trong sáu ngày theo một chương trình nhất định (St 1,1 - 2,4a). Xét về mặt khoa học, Thánh kinh có cái gì đó không ổn vì mãi đến ngày thứ tư, Thiên Chúa mới dựng nên mặt trời, mặt trăng thì làm gì có thể tính được ba ngày ba đêm trước khi có hai tinh tú này. Cây cối làm sao sống được ở ngày thứ ba khi chưa có mặt trời… Nhưng, “Thánh kinh không phải là một bộ sách khoa học, nó là một bộ sách tôn giáo. Bộ sách đem lại cho chúng ta sứ điệp mạc khải của Thiên Chúa”(7). Qủa thế, Thánh kinh không dạy chúng ta khoa học, chỉ dạy giáo lý mà thôi. Cho nên, qua trình thuật sáng tạo, Tác giả muốn dạy rằng Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ vạn vật, loài người là công trình yêu thương đặc biệt của Thiên Chúa. Tác giả được viết ra dưới sự linh hứng của Thiên Chúa và viết vào một khoảng thời gian xác định của lịch sử, trong một não trạng phần nào theo khuôn khổ của nền khoa học thời đó. Bởi thế, Thánh Augustinô nói: “Tác giả chép Thánh kinh không có ý dạy nhân loại những chân lý liên can đến sự cấu tạo, bản tính các vật hữu hình, vì chúng không giúp ích gì chi việc cứu rỗi con người”(8).    
2. Nguồn gốc sự sống
a, Chứng cứ khoa học   
Ngày nay khoa học đã tạo ra được tế bào sống. Không vì thế mà khoa học mâu thuẫn đức tin, vì họ thành công trong việc qui tụ những điều kiện sống để cho sự sống xuất hiện. Chẳng hạn, phương pháp thụ tinh nhân tạo: cho trứng thụ tinh vào trong ống nghiệm thành phôi và sau đó đặt phôi vào tử cung của người muốn mang thai. Tinh trùng có thể là của người chồng hay người khác. Hay phương pháp nhân bản vô tính trên vi sinh vật, thực vật, động vật: cấy ghép từ mô(9). Vậy, khoa học đâu tạo ra được sự sống?     
b, Bằng chứng đức tin
Giáo lý Hội thánh Công Giáo dạy rằng Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự (Lc 1,37) và có uy quyền trên vạn vật vì Người sáng tạo ra chúng (Ga 1,1; Ga 1,3); Người sắp đặt công trình theo ý Người (Gr 27,5), Người thiết lập trật tự cho chúng và trật tự đó luôn quy phục Người, đặc biệt Người làm cho mọi sinh vật có sự sống (St 1,30)(10). Vậy, khoa học không tạo ra sự sống mà chỉ khám phá ra quyền năng của Thiên Chúa ban sự sống: một vật bất động nếu có điều kiện nhất định, thời tiết thuận lợi, nó sẽ trở thành một tế bào sống và phát triển. Thế nhưng, chúng vẫn cần có sự can thiệp của Thiên Chúa dù xa xôi, vì chính Thiên Chúa đã ban cho vật chất có những năng lực cần thiết, điều kiện nhất định… để nó trở thành sinh vật(11). Vì vậy, “trong tất cả các điều ấy, phải nhìn nhận các phương pháp của mỗi khoa học  và kỹ thuật. Bởi vậy, việc khảo sát có phương pháp trong mọi ngành nếu tiến hành một cách khoa học thực sự và theo các tiêu chuẩn luân lý sẽ không bao giờ trái nghịch với đức tin, vì các thực tại trần thế và thực tại đức tin đều do Thiên Chúa mà ra”(12).
3. Nguồn gốc các sinh vật ngoài nhân loại
a, Chứng cứ khoa học 
Thuyết tiến hoá hay thuyết biến hoá cho rằng các sinh vật phát sinh từ loại này sang loại khác bằng lối sinh sản theo những định luật phức tạp mà họ chưa tìm thấy nguyên nhân dẫu cho tới nay khoa học cũng chưa có dịp nhìn thấy loài này sinh ra loài kia, nhưng khoa học nhìn nhận có một nguồn gốc chung và một dòng họ giữa các loại sinh vật và bây giờ khoa học đang tra cứu(13).
b, Bằng chứng đức tin
Đức tin dạy rằng “vạn vật hiện hữu bên ngoài Thiên Chúa đều được Người rút ra từ hư không tất cả bản thể của chúng”(14). Theo Thánh kinh, Thiên Chúa sáng tạo mọi loài sinh vật và chúc phúc cho chúng sinh sôi nảy nở cho nhiều (St 1,20-24). Thiên Chúa cũng đã dùng phương pháp môi giới trong việc di truyền sự sống, Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên bầu trời, dưới vòm đất” (St 1,20); “đất phải sinh ra các vật tuỳ theo giống loài: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại” (St 1,24). Thật rõ ràng sự sáng tạo và tiến hoá không còn là hai ý niệm mâu thuẫn nhau! Sự tiến hoá là sự biến đổi của một vật đã có trước được sáng tạo nên. Cho nên, “từ nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã sáng tạo ra muôn vật cùng một lúc, có vật được sáng tạo ngay, có vật chỉ mới được sáng tạo trong nguyên lý của chúng mà thôi. Ta biết trong một hạt giống có tiềm tàng tất cả những cái mà rồi đây qua thời gian, sẽ nẩy nở thành cây, thì chúng ta cũng phải biết rằng thoạt khi Thiên Chúa dựng nên mọi sự, thế giới lúc ấy đã có đủ mọi vật mà ngày nay trái đất phát minh ra do những nguyên nhân tiềm tàng từ trước khi các vật ấy nẩy nở trong thời gian như chúng ta thấy”(15).
4. Nguồn gốc con người
a, Chứng cứ khoa học 
Theo thuyết tiến hoá, khoa học cho rằng con người và khỉ cùng một dòng họ; sự xuất hiện của con người không phải là một hiện tượng có thể quan sát trực tiếp. Khoa học kết luận như vậy vì khoa học suy luận từ những sự kiện quan sát thấy nơi động vật với con người có một mối liên hệ chủng loại với nhau: sinh vật sống(16). Thế nhưng, giống người hiện nay bắt nguồn từ đơn tổ hay đa tổ? Con người không phải chỉ là hữu thể khả giác mà hơn thế nữa, con người là linh ư vạn vật, siêu vật chất, có linh hồn và “thua kém thần linh là mấy” (Tv 8,6). Khoa học chưa tìm câu giải quyết.
b, Chứng cứ đức tin
Thánh kinh dạy tất cả nhân loại ngày nay do cùng một gia đình nhân loại duy nhất phát sinh ra; con người được cấu tạo bởi thân xác vật chất và linh hồn (tinh thần); linh hồn không do biến hoá vật chất mà do Thiên Chúa trực tiếp sáng tao nên (St 1,26; 2,7). Thân xác con người được Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra (St 2,7). Như vậy, Thiên Chúa không sáng tạo con người từ hư không nhưng dùng một vật chất đã có trước là đất, chúng ta cũng không rõ bản chất của đất là gì?(17). Bởi đó, Thánh kinh mở rộng cửa đón giả thuyết tiến hoá vào, cho nên nhiều nhà Thần học hiện đại công nhận giả thuyết khoa học này, cụ thể Cha Teilhard de Chardin, Cha Breuil. Vậy, khoa học cứ tiếp tục nghiên cứu nếu họ đi đến những nhận xét chắc chắn về các hiện tượng, khoa học cứ vững tâm, đừng lo có những mâu thuẫn giữa điều họ công bố và chân lý đức tin Công giáo đã coi như được mạc khải. Vì khoa học chân chính khám phá ra những định luật mà Thiên Chúa đã ấn định cho vạn vật; đức tin chân chính góp phần vào những chân lý mà Thiên Chúa đã truyền thông cho loài người. Vì vậy, “con người nhờ lý trí đạt tới chân lý, vì được soi sáng bởi đức tin, con người khám phá ra ý nghĩa sâu sắc của mọi vật, nhất là của cuộc sống nhân sinh”(18).
Xin khẩn định một lần nữa khoa học và đức tin không có xung khắc nhau. Vì, thứ nhất khoa học khảo cứu trong thiên nhiên định luật của Chúa; còn đức tin thông truyền những chân lý Chúa đã trực tiếp mạc khải (19). Vì vậy, “nhờ đức tin, con người chấp nhận chứng tá của Thiên Chúa. Có nghĩa rằng con người thừa nhận một cách đầy đủ và trọn vẹn những chân lý của những điều mạc khải, vì chính Thiên Chúa bảo đảm cho những chân lý ấy”(20). Thứ hai, chúng ta nhận biết rằng muôn vật do Thiên Chúa dựng nên bằng nhiều cách hoặc bởi khoa học chân chính hoặc do đức tin chân thật vì Thiên Chúa là nguồn mạch của tất cả mọi sự trên trời dưới đất (Tv 94,3-5). Cuối cùng, vì “những phát minh khoa học kỳ lạ mà Giáo Hội vừa ủng hộ vừa thúc đẩy, làm nổi bật một cách mãnh liệt và chắc chắn hơn bao giờ hết sức mạnh đời đời của Thiên Chúa”(21).


(1). F.Lelotte S.J, Giải Quyết Những Vấn Đề Nhân Sinh, Bản dịc của Hoạt Động Văn Hoá, 101.
(2). Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 183.
(3). F.Lelotte S.J, Giải Quyết Những Vấn Đề Nhân Sinh, Bản dịc của Hoạt Động Văn Hoá, 102.
(4) M. Boyleau, Đời sống Pasteur, tr 45.
(5). Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 284.
(6). Gaudium et Spes, số 36.
(7). Một Số Tác Giả, “Hay Là Huyền Thoại”, Giang Trung Kiên dịch, Giáo Hoàng Học Viện Piô X, Nhà xuất bản Đà Lạt, 1973, tr 94.
(8). Lm Antôn, Nguyễn Văn Tuyến, Tân Đạo Đức Sinh Học Kitô, ĐCV Huế 2003, tr 296.
(9). Lm Antôn Nguyễn Văn Tuyến, Tân Đạo Đức Sinh Học Kitô, ĐCV Huế 2003, tr 296-316.
(10). Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 269.
(11). F.Lelotte S.J, Giải Quyết Những Vấn Đề Nhân Sinh, Bản dịc của Hoạt Động Văn Hoá, 114.
(12) Công đồng Vaticano II, Gaudium Et Spes, số 36.
(13). F.Lelotte S.J, Giải Quyết Những Vấn Đề Nhân Sinh, Bản dịc của Hoạt Động Văn Hoá, 116.
(14). Ludwig OTT, Lm Nguyễn Văn Trinh dịch, Tín Lý, tập I, tr 176.
(15). Augustin, De Genisi ad Litteram.
(16) Lm Antôn Trần Minh Hiển, Thiên Chúa Sáng Tạo, ĐCV Huế, 2002, tr 204.
(17). Ludwig OTT, Lm Nguyễn Văn Trinh dịch, Tín Lý, tập I, tr 206.
(18). ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Chân Lý và Đức Tin, số 20.
(19). F.Lelotte S.J, Giải Quyết Những Vấn Đề Nhân Sinh, Bản dịc của Hoạt Động Văn Hoá, 374.
(20). ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Chân Lý và Đức Tin, số 13.
(21). ĐGH Piô X, Diễn Văn ngày 22/1/1974.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét