1. Lịch sử
Thời xa xưa, cứ vào ngày đầu tháng Năm, người cựu
La-mã thường cung nghinh thánh tượng Đức Mẹ với danh xưng, "Nữ Vương các
loài hoa". Họ vừa đi vừa hát và nhảy múa quanh kiệu hoa của Đức Mẹ. Tập
tục tốt đẹp và rất có ý nghĩa nầy, lần hồi lan rộng khắp Âu Châu và cả Anh Quốc
trong suốt thời trung cổ. Vào thế kỷ thứ 16, việc tổ chức cung nghinh Đức Mẹ
một cách long trọng nầy, còn có thánh Philip Neri (1515-95) góp phần nữa. Ngài
có sáng kiến trang hoàng thánh tượng Đức Mẹ bằng các loại hoa.
Trong công trình thăng tiến ‘Tháng Đức Mẹ’, phải ghi nhận sự góp
công của dòng Tên nói chung, và nói riêng của cha Jacobet, xuất bản cuốn ‘Mensis
Marianus’ (Tháng Đức Maria) tại Dillingen năm 1724; cha Dionisi, xuất bản
cuốn ‘mese di Maria’ tại Roma năm 1725; và cha Lalomia, xuất bản cuốn ‘mese
di Maria assia il mese di maggio’ (Tháng Đức Mẹ và Tháng Năm), tại Palerme
năm 1758. Sau các ngài, là cuốn ‘mese di Maria’ của cha Alphonse
Muzzarelli xuất bản tại Ferrare năm 1785. Trong vòng một thế kỷ cuốn này được
tái bản hơn 150 lần, và được dịch ra các tiếng Pháp, tiếng Anh, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha và A-rập. Đối với cha Muzzarelli, vấn đề không còn là suy niệm đơn
thuần về cuộc đời, nhân đức và đặc ân của Đức Mẹ, nhưng còn noi gương Mẹ để
thánh hóa đời mình bằng các tập luyện mỗi ngày một nhân đức. Như vậy, mỗi ngày
trong tháng Năm, các tín hữu suy niệm về một chân lý trong đời sống Kitô hữu từ
đó đề ra một công việc thực hành, rồi cầu khẩn và hát một bài thánh ca dâng lên
Đức Mẹ.
Đầu thế kỷ thứ XVIII, nhà thờ Thánh Clara của dòng Phanxicô tại
Naples tổ chức mỗi ngày trong tháng 5 một giờ sùng kính Đức Mẹ tiếp theo là
chầu phép lành. Năm 1701, dòng Đa Minh quyết định sùng kính Đức Mẹ mọi ngày
trong suốt tháng 5, rồi dần dần lan đến các giáo xứ: Grezzana (1734), Gênes
(1747) và Vérone (1774).
Đầu thế kỷ XIX, việc dùng trọn tháng Năm để tôn kính
Đức Mẹ mới được khắp nơi trên thế giới hưởng ứng nhiệt liệt. Trước tiên, vào
năm 1809, Đức Thánh Cha Pius thứ VII bị Nã-phá-luân bắt giữ tại Pháp. Ngài bị
giam hảm tại đó cho đến ngày 24 tháng 5, năm 1814 mới được phép trở về lại
La-mã. Sau năm năm trời bị giam giữ, ngài trở về và được toàn thể tín hữu tiếp
đón thật vô cùng trọng thể. Sau khi được an vị, cũng nhằm trong tháng Năm, Đức
Thánh Cha liền cổ võ tạ ơn Đức Mẹ thật long trọng với danh nghĩa, "Đức Mẹ
phù hộ các giáo hữu". Bởi vì, Ngài quả quyết rằng việc ngài trở về lại
La-mã là nhờ ơn Đức Mẹ. Thế rồi, từ năm 1854 cho đến thời điểm Công Đồng
Vatican II, 1965, học thuyết Mariology được phát triển mạnh mẽ nhất để củng cố
đức tin, qua nhiệm thể Đức Kito, đồng thời tái xác nhận hai công đồng Nicea
(324) và Chaleedon (451) đã công bố về Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.
2. CÙNG VỚI MẸ GIA ĐÌNH GIÁO XỨ YÊU MẾN THÁNH THỂ
Lời Chúa
“Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở
gần Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát. Trở về nhà,
các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an,
Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con
ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê. Tất cả
các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ,
với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su” (Cv
1,12-14).
Suy niệm
Có thể nói tất
cả cuộc đời Đức Maria là một cuộc đời tôn thờ và yêu mến Thánh Thể một cách
trọn hảo. Trước hết, ở Bê-lem, Đức Maria là người đầu tiên thờ lạy Thánh Thể
Chúa nằm trong máng cỏ (Lc 2,6-7). Cho nên, Đức Mẹ là đầu tiên đốt lên trong lòng mọi người
ngọn lửa mến yêu Thánh Thể và ngọn lửa ấy đã lan ra khắp thế giới cho tới ngày
hôm nay. Rồi, Đức Maria tiếp tục tôn thờ và yêu mến Thánh Thể Chúa Giêsu trong
cuộc sống ẩn dật tại Nazareth; trong cuộc đời công khai; trên đồi Can-vê (Ga 19,25-27) và cuối cùng là
Nhà Tiệc Ly.
Trong Nhà Tiệc Ly có Mẹ
Maria đồng tâm cầu nguyện cùng với các Tông Đồ. Mẹ có mặt tại nhà Tiệc Ly nói
lên hành vi yêu thương và thờ lạy không ngừng của Mẹ đối với Chúa Giêsu Thánh
Thể phục sinh. Mẹ Maria đã sống tại nhà Tiệc Ly nhiều năm sau đó trong sự kết
hợp với phép Bí tích Cực Thánh, nên tất cả các nhân đức của Mẹ đều được mang
dấu ấn Thánh Thể. Các nhân đức ấy được nuôi dưỡng bởi những lần Hiệp Lễ, bởi
việc tôn thờ, và bởi sự kết hợp không ngừng với Chúa Giêsu Thánh Thể. Các nhân
đức của Mẹ Maria suốt thời gian Mẹ lưu ngụ tại nhà Tiệc Ly đã đạt tới một sự
hoàn hảo nhất đó là hiệp thông trong tư tưởng và đời sống với Thánh Thể Chúa. Bởi thế hơn ai hết, Mẹ chiếm
một vị trí rất quan trọng trong mầu nhiệm tình yêu Thánh Thể. Mẹ có một sự
tương quan, một sự gắn bó mật thiết với Thánh Thể. Cho nên, qua Mẹ, đến với
Thánh Thể là con đường ngắn nhất, dễ nhất cho mỗi người chúng ta; chính Mẹ đã trở
thành mô phạm của Giáo Hội, hướng dẫn chúng ta đến với Bí Tích Thánh Thể. Vì vậy,
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong thông điệp “Ecclessia de Eucharistia, Hội Thánh Từ Thánh Thể” đã gọi Mẹ với
tước hiệu “Người Nữ của Thánh Thể”.
Trong
thư chung của Hội Đồng giám Mục Việt Nam trong Năm Phúc Âm Hóa Giáo xứ viết
rằng: “Giáo xứ phải là cộng đoàn “siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng”, nghĩa là
tham dự Thánh Lễ và cử hành phụng vụ” (Số 2). Cho nên, ơn gọi mọi thành phần trong Giáo xứ
phải gắn liền cách đặc biệt với việc phục vụ Thánh Thể Chúa, có nghĩa rằng phải
yêu mến và tôn Thờ Thánh Thể như Đức Mẹ. Vậy, cùng với Mẹ Maria mỗi thành viên
trong Giáo xứ từ nay hãy thờ lạy và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể luôn trong phụng
vụ Thánh Thể, hay mọi hoàn cảnh, mọi biến cố của cuộc đời như Đức Thánh Trinh
Nữ Maria đã làm. Vì chưng, “Phụng vụ là chóp đỉnh mà mọi hoạt động của Hội thánh
đều hướng tới, đồng thời là nguồn mạch phát sinh mọi năng lực của đời sống Hội
thánh. Qua Phụng vụ, Ðức Kitô tiếp tục công trình cứu chuộc chúng ta trong Hội
thánh, với Hội thánh và nhờ Hội thánh của Người” (GLHTCG, số 1074). Hơn nữa, Thánh Thể canh
tân tình yêu và ân sủng cho chúng ta. Và như Đức Maria, chúng ta phải năng tôn
thờ và yêu mến Thánh Thể, bằng cách năng chiêm Chúa Giêsu Thánh Thể trong tất
cả các hành động của Ngài, bằng việc thờ lạy và kết hợp với Ngài trong tất cả
các cung cách sống của đời sống. Tóm lại, Thánh Thể có năng lực hấp dẫn đối với
Đức Mẹ Maria đến nỗi Mẹ không thể sống tách lìa khỏi Thánh Thể. Mẹ sống trong
Thánh Thể và bởi Thánh Thể.
Vì vậy, cũng như Mẹ Maria đã
sống và đã làm, mỗi người tín hữu trong Giáo xứ cũng được mời gọi sống mầu
nhiệm Thánh Thể với sự tận tụy lắng nghe và suy ngắm Lời Chúa, để cho Lời Chúa
thật sự là lương thực tinh thần hằng ngày, và hãy năng kết hiệp với Chúa Giêsu
Thánh Thể như lương thực vì đó là nguồn
lực thánh hóa bản thân, trở nên đồng hình, đồng tư tưởng, lời nói
và việc làm với Chúa Giêsu Thánh Thể hầu đem tinh thần Phúc Âm vào môi trường sống trong
Giáo hội
cũng như ngoài xã hội mỗi ngày một yêu thương, hạnh phúc và bình
an hơn.
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria! Xin dạy chúng con biết yêu mến và tôn thờ
Thánh Thể Chúa như Mẹ đã làm với tất cả các mầu nhiệm và tất cả các ân sủng của
phép Thánh Thể. Lạy Đức Mẹ Thánh Thể, xin hãy nhớ Mẹ là Mẹ của tất cả những
người tôn thờ phép Thánh Thể, xin cầu cho giáo xứ chúng con. Ôi Mẹ Maria, Mẹ
được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Chúa Giêsu Thánh Thể, quả phúc của
lòng Mẹ đầy phúc đức! Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét