Trang

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

TRƯỞNG THÀNH NHÂN CÁCH KITÔ GIÁO - CON ĐƯỜNG THỨ SÁU

CON ĐƯỜNG CÔNG CHÍNH
 
     Bạn thân mến, 
        Công chính là một trong những đức tính luân lý căn bản của Kitô Giáo: khôn ngoan, công bình, can đảm và tiết độ. Công bình thể hiện qua việc quyết tâm trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa và trả cho tha nhân tất cả những gì của tha nhân. Trong xã hội, công bình là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và sống hài hòa bằng cách đối xử công bình với mọi người và thực thi công ích cho nhau.
      Theo Thánh Kinh, người công chính luôn sống ngay thẳng trong tư tưởng, lời nói và cư xử chính trực với tha nhân, đặc biệt biết sống phù hợp với lề luật của Thiên Chúa, như một lời đáp trả tiếng mời gọi yêu thương của Thiên Chúa trong tinh thần vâng phục, thậm chí sẵn sàng hy sinh tính mạng. “Các ngươi không được làm điều bất chính khi xét xử; không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng xét xử công minh cho người đồng loại” (Lv 19,15); “Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với người nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng chỉ có một Chủ trên trời (Cl 4,1), nhất là “hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công chính, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho góa bụa” (Is 1,17).

      Đức Giêsu Kitô quả thật là người công chính (Lc 23, 47), Vì sao? Trước mặt Thiên Chúa Người có tất cả những gì mà Thiên Chúa mong đợi; Người là Tôi tớ, Người Con yêu dấu của Thiên Chúa và làm cho Chúa Cha hài lòng (Mt 3,17); Người đã thực hiện trọn vẹn mọi điều công chính (Mt 3,15) và đã chết để cứu chuộc chúng ta, ngõ hầu Thiên Chúa được vinh danh (Ga 17,4). Chính trong cái chết của một kẻ bị coi là ruồng bỏ (Mt 27,43-46), Đức Giêsu đã được Thiên Chúa công chính hóa và tuyên nhận giá trị công trình Người đã hoàn tất (Ga 16,10). Thế nhưng, vì tình thương bao la hải hà của mình, Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu sống lại để chúng ta cũng được nên công chính (Rm 4,25).
Tưởng cũng nên nhắc lại rằng Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu Kitô lập công để chúng ta được công chính, không phải chỉ muốn nói rằng Ngài yêu quí Con mình nên Ngài bằng lòng cư xử với chúng ta như những người công chính; mà hơn thế nữa, trong Đức Giêsu Kitô, Ngài đã làm cho chúng ta có đủ tư cách mà Ngài chờ đợi nơi chúng ta, và giúp chúng ta cư xử với Ngài một cách xứng hợp đúng theo mức độ công chính mà Ngài đòi hỏi.
       Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta là Kitô hữu phải có đức công chính. Để nên công chính, thứ nhất chúng phải từ bỏ tính vị kỷ và tham danh vọng (Ga 7,18), nếu không chúng ta cũng giống như những kinh sư thời Chúa Giêsu “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của những bà góa… những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc” (Mc 12,38-40). Vì vậy, để trưởng thành nhân cách như  Chúa Giêsu, chúng ta “phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Từ bỏ chính mình tức là gạt bỏ đi cái tôi tự cao tự đại, bỏ đi thói hư tật xấu, lòng tham sân si và dục vọng… để rồi sống hết mình cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và buông mình cho Chúa Thánh Thần ngõ hầu sống khiêm nhường hy sinh, yêu thương, phục vụ và cầu nguyện cho tha nhân. Vì chưng, tha nhân là anh em với chúng ta nhờ mối dây liên kết là Đức Giêsu Kitô, Đấng liên kết chúng ta trong thân phận tội lỗi; nhờ đó chúng ta được chia sẻ sự sống với Người (Rm 6,3-11).  Cho nên, Đức Giáo Hoàng Piô XII nói rằng “Trong suốt chiều dài lịch sử của Giáo Hội, tình liên đới ấy đã thúc bách biết bao nhiêu Kitô hữu hy sinh tất cả, hiến dâng cuộc đời nhằm mang lại cho nhân loại cuộc sống tốt đẹp hơn, con người hơn”.
        Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, noi gương Chúa Giêsu, chúng ta nỗ lực thể hiện tình liên đới trong sự hiệp thông đức tin: cầu nguyện, chia sẻ của cải vật chất, cũng như tinh thần, đối xử công bình, chăm sóc và phục vụ những người cô thế cô thân trong xã hội… họ là hiện thân của Chúa Giêsu (Mt 25,40); nhất là “chiến đấu chống lại mọi ích kỷ, hãy chống lại, đừng tự buông thả theo các bản năng hung bạo và hận thù, là mầm mống gây nên chiến tranh và biết bao điều khốc liệt khác. Xin hãy đại độ, bao dung, trong sạch, kính cẩn và chân thành. Xin hãy đem nhiệt huyết ra xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn” (Sứ điệp của Vatican II gửi cho toàn  thể nhân loại nhân dịp bế mạc 1965, số 30).
Để nên công chính, thứ hai, chúng ta phải sống phù hợp và thực thi thánh ý của Thiên Chúa trong mọi lúc, mọi nơi, và mọi thời dù có lúc trái ý mình. Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian để thi hành ý Cha (Ga 7,29). Người là Chúa, nhưng không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Chúa Cha, nhưng mặc lấy xác phàm, sống như chúng ta mọi đàng trừ tội lỗi (Pl 2,6-7). Người đi khắp nơi loan báo Tin Mừng cho “kẻ nghèo hèn, cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19); rồi Ngài chịu đau khổ, chịu chết trên cây thập giá, sống lại vinh hiển để làm chứng Thiên Chúa Tình Yêu chân thật; và ai tin vào Người sẽ được sống đời đời (Ga 3,32-36).
      Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn nói với chúng ta rằng: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy, lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Vậy, đâu là ý muốn của Thiên Chúa? Ý muốn của Chúa là chúng ta tin vào Chúa Giêsu và tuân giữ những điều Người dạy sẽ được Nước Trời làm gia nghiệp(Ga 14,2-7). Vậy một khi đã “tin trong lòng, thì mới được nên công chính, có tuyên xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10); đồng thời, đức tin ấy phải đi đôi với hành động cụ thể; và hành động đó làm cho đức tin nên hoàn hảo, con người trở nên công chính (Gc 2,14-24).
Cuối cùng, người công chính phải biết kính sợ Thiên Chúa. Lòng kính sợ Thiên Chúa và yêu mến Người trên hết mọi sự là bằng chứng đức tin đích thực, đồng thời là động lực mạnh nhất giúp chúng ta thi hành Lời Chúa trong cuộc sống. “Ai kính sợ Thiên Chúa thì tuân lệnh Người, ai yêu mến Người tuân giữ đường lối Người. Ai kính sợ Chúa sẽ tìm cách làm cho Người ưng thuận, ai yêu mến Người sẽ no say lề luật. Ai kính sợ Chúa sẽ chuẩn bị lòng mình và đặt mình khiêm tốn trước mặt Người” (Hc 2,15-17). Qủa thế, chúng ta phải cúi đầu tỏ lòng thần phục suy tôn và yêu mến Người, vì tất cả mọi sự chúng ta có đều là do Chúa (Tv 8,6-7). Kính sợ Thiên Chúa không phải theo kiểu Á Đông “kính nhi viễn chi”, nhưng đến với Người để dâng cho Người mọi ân huệ ta nhận được: con người và sự nghiệp của ta trong kinh nguyện cũng như Thánh lễ hằng ngày. Vì vậy, Thánh Tôma Aquinô dạy rằng "Một khi chúng ta lấy một phần của Chúa ban dâng lên Thiên Chúa với lòng thờ kính tri ân mà đáp lại; rồi Thiên Chúa lại ban cho dồi dào hơn" (G.B. Nguyễn Văn Đán, Thần Học Bí Tích, tập II, Bí Tích Chuyên Biệt, ĐCV Huế 2007, tr 130). Nếu ta từ chối dâng cho Người, thì chắc chắn lời nói và hành động của mình “toàn là xảo quyệt dối gian, hết lẽ khôn ngoan, hết điều lương thiện” (Tv 35,4).
      Tóm lại, càng tin Chúa, chúng ta càng kính sợ và yêu mến Người ngõ hầu sống là hành động theo Lời Người chỉ bảo, thì được nên công chính (Gc 2,14); “Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5,6). 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét