CÁM DỖ ĐỜI TU THỜI KỸ THUẬT SỐ
Có một
lần một người lương dân hỏi tôi: “Xin Cha cho con biết đi tu giữa các Sơ và Nicô
giống nhau hay khác? Con thấy ở ngoài đời bây giờ các Sơ cầu nguyện rồi đi làm
bác ái, các Nicô cũng tụng niệm rồi đi làm từ thiện, người ta nói hai Đạo này
sao giống nhau quá!. Con không biết giải thích sao? Xin Cha giải thích cho?”.
Tôi mới nói, đi tu của các Sơ khác hoàn toàn với các Nicô, mà cái khác căn bản
nhất là chính nguồn sống của mỗi Đạo: Đạo Phật là xuất thế, tức là ra khỏi thế
gian, còn Đạo Công Giáo là nhập thế, tức ở giữa thế gian. Cho nên, cái từ bi
của Phật dạy thương người chỉ dừng lại ở thương người mà thôi, còn Chúa Giêsu
dạy thương người không chỉ là thương người mà người có còn là hoạ ảnh Thiên Chúa
cho nên tôi thương người không chỉ là thương người mà còn thương hình ảnh Chúa
tôi đang sống nữa cho nên trước hết người nữ tu cần phải có đời sống cầu
nguyện, kết hiệp với Chúa liên lỉ sau đó mới thi hành công việc Tông đồ.
Vì vậy, đời
sống Thánh hiến được định nghĩa là một cuộc nhập thế giữa lòng đời. Tu sĩ là
những con người không thuộc về thế gian, nhưng sống trong thế gian và chịu ảnh
hưởng của thế gian. Thế gian là tất cả những gì đang diễn ra trong thế giới hôm
nay - một thế giới đang chứng kiến những đổi thay đến chóng mặt trên tất cả các
lãnh vực của đời sống xã hội. Những thay đổi ấy đang từng ngày từng giờ tác
động một cách mạnh mẽ vào đời sống tu trì, nhất là trong lãnh vực đời sống
thiêng liêng. Nó vừa mang đến cho đời thánh hiến một làn gió mới, nhưng đồng
thời cũng vừa là một thách đố lớn lao đối với người tu sĩ. Vì thế, Đức nguyên giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nói tới “Ba
cái không” mà người tu sĩ phải lo thực hiện trong đời sống thánh hiến của mình:
Không rơi vào mức sống tầm thường, không sống trưởng giả và không sống theo tâm
thức hưởng thụ. Nếu người tu sĩ rơi vào “Ba cái có” trên, chúng làm lu mờ vai
trò chứng tá, làm cho người thời nay không nhận ra được hình ảnh Thiên Chúa,
của Đức Giêsu và của người tu sĩ. Cho nên, nhân dịp tĩnh tâm này, chúng ta cùng
nhau cầu nguyện, xin Chúa soi dẫn và ban ơn Chúa Thánh Thần để nhìn ra nhưng
cảm dỗ đời tu và cách chữa trị vừa để thăng tiến đời tu vừa đạt được ba không
trên.
I. Lời Chúa: Rm 13,8.10.11-14
Lời Chúa trong thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi tín
hữu Rôma,
Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân
tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật Đã yêu thương thì không làm
hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy. Phải như thế, vì anh
em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì
hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới
tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen
tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn
như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm
đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa
Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.
II. Diễn giải
Chúng
ta biết rằng đời sống thiêng liêng là linh hồn của đời tu trì, và cầu nguyện là
hơi thở của đời sống tâm linh. Vì thế, nếu thiếu vắng cầu nguyện, đời tu sẽ mất
hết giá trị và trở nên vô nghĩa. Khi ấy, người sống đời tu không thể trở nên
ánh sáng cho trần gian, không thể nên muối ướp mặn cuộc đời và cũng không thể
là men trong bột. Do đó, cầu nguyện là chìa khóa vạn năng giúp mở ra chân trời
hạnh phúc và khóa lại những điều bất hạnh. Chính vì cầu nguyện quan trọng nên
ma quỉ luôn tìm cách len lỏi vào những vị trí trọng yếu nhất, hòng phá đổ đời
tu dưới mọi hình thức. Cho nên, Thánh Phaolô nói: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy
loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”
(Rm 13,12). Vũ khí của sự sáng đây là cái gì? Thưa, chính là Lời Chúa, mà làm
sao để có Lời Chúa và sống Lời Chúa triệt để? Thưa là chỉ có trong cầu nguyện
vì chưng Lời Chúa nói: “Anh em hãy vui mừng
luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy
làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Tx 5,16).
Cho nên, trong đời sống tu trì nếu chênh mảng trong cầu nguyện, chúng ta rơi
vào những cám dỗ sau:
CÁC CÁM DỖ
1.
Công việc làm ăn hay Tông đồ
Công việc
tông đồ hay làm kinh tế cho Hội Dòng hay cộng đoàn là một cám dỗ dai dẳng và
ngọt ngào nhất đối với đời sống thiêng liêng của người Thánh hiến. Giữa một cuộc
sống phóng túng và tha hóa hôm nay, người tu dường như để cho dòng đời cuốn
trôi, biến họ trở nên những cỗ máy của công việc công và tư. Đi tu là chọn Chúa
làm gia nghiệp, nhưng thay vì chọn Chúa, họ lại chọn công việc của Chúa. Vì
chọn sai nên nhiều Tu sĩ lâm vào cuộc khủng hoảng Ơn gọi, đặc biệt trong thời
gian thi hành sứ mạng Tông đồ. Đó đây không thiếu những Tu sĩ vì ham thành công
trong công việc hay tông đồ đã bỏ bê cầu nguyện, ơ hờ khi tham dự Thánh lễ,
Kinh Nhật tụng, cũng chẳng mấy thiết tha với việc nguyện ngắm, xét mình, lần
chuỗi Mân Côi, đọc sách thiêng liêng, viếng Thánh Thể hay lãnh nhận các Bí
tích… Cho nên, Thánh Augustinô nói: “Chúng
ta hãy luôn khao khát cuộc sống hạnh phúc đến từ Thiên Chúa là Chúa, và chúng
ta hãy cầu nguyện luôn. Vì thế, khi dứt bỏ các mối bận tâm và công việc khác có thể làm cho chính
lòng khao khát ra nguội lạnh, chúng ta chú tâm đến việc cầu nguyện vào những
giờ ấn định. Những lời cầu nguyện nhắc nhở cho chúng ta mục đích mình khao khát
hướng tới, kẻo lòng khao khát bắt đầu ra nguội lạnh, sẽ nguội lạnh hẳn và tắt
lịm đi, trừ phi được nung nấu thường xuyên hơn”.
Bên cạnh
cầu nguyện, người tu sĩ phải cảm nghiệm của đời sống thiêng
liêng qua việc đọc Thánh Kinh, thiết lập mối tương quan trực tiếp với Chúa.
Nguyện gẫm là lúc chúng ta mở lòng ra với Chúa, biết Chúa là Đấng mình luôn
khao khát, mong chờ, nhận ra ân huệ Ngài thương ban cho ta. Một khi người tu sĩ
nhận biết ơn huệ của Chúa, thì họ không thể chỉ giữ riêng cho mình nhưng là để
thông chia cho người khác. Vì vậy, trong Tông huấn về Đời sống Thánh hiến,
Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nói rằng người tu sĩ phải có sứ vụ phải nên một với Chúa Giêsu (VC
72), sứ vụ làm người
môn đệ (VC 36), sứ
vụ cộng đoàn sống theo hình ảnh cộng đoàn tông đồ (VC
42,45), sứ vụ làm chứng
cho hiệp thông (VC 51), sứ vụ là Phục vụ Thiên Chúa và con người (VC
73-74).
Người tu trì thường rao truyền cho thiên hạ về
đời sống cầu nguyện, nhưng thực chất chính chúng ta lại chưa sống cầu nguyện.
Nhiều Tu sĩ mới chỉ cầu nguyện trong những giờ nhất định mà bỏ quên tinh thần
cầu nguyện liên lỉ suốt ngày. Cơn cám dỗ công việc thúc đẩy chúng ta viện cớ
này, cớ kia để tự chước chuẩn cho mình những bổn phận thiêng liêng; hoặc chúng
ta cầu nguyện một cách nhanh gọn; hoặc dồn tất cả việc thiêng liêng vào những
giây phút cuối ngày sau khi thân xác đã mệt mỏi rã rời… Từ đó, những xác tín về
đời sống thiêng liêng mờ nhạt dần, rồi chủ nghĩa dửng dưng thắng thế, người tu
dễ dàng quên đi sự hiện diện của Thiên Chúa, để rồi còn lại sau đó là sự lạnh
nhạt, hững hờ.
2. Thế giới kỹ thuật và thế giới
ảo
Đi đôi
với cơn cám dỗ của công việc, ta còn phải kể đến những thách đố của thế giới kỹ
thuật và thế giới ảo. Đây cũng là một vật cản không nhỏ giăng bẫy đời sống tâm
linh của mỗi người tu sĩ. Thật thế, ngày nay khoa học kỹ thuật số và thông tin
mạng truyền thông phát triển như vũ bão. Một mặt, nó giúp người tu mở rộng tầm
mắt ra thế giới xung quanh với nhiều thông tin một cách nhanh chóng, giúp con
người “biết” và “gần gũi” nhau hơn, cung cấp nhiều thông tin đa dạng và phong
phú, đầy đủ các chức năng để giải trí, học hành hay học nghề mang tính hiện đại…
Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển này là làm cho chúng ta dễ dàng rơi vào
cơn cám dỗ triền miên của thái độ sống hưởng thụ, sống ảo và tự kỷ. Người tu
mải mê với thế công nghệ và giới ảo mà không còn thiết tha với việc cầu nguyện,
không tìm được hứng thú và niềm vui khi gặp gỡ Thiên Chúa và ra đi tìm đến và
gặp gỡ tha nhân. Cho nên, người tu sĩ có thể bỏ nhiều giờ trên vi tính và trên
thế giới ảo nhưng dành ít thời gian viếng Chúa, cầu nguyện, đọc kinh… rồi chúng
ta sẵn sàng tỏ bày tâm tư, tình cảm, vui buồn sướng khổ của ta cho những người
trên thế giới ảo trong khi đó với Chúa và bề trên thì ta không dám thổ lộ, bày
tỏ hay cầu xin… Thay vào đó, chúng ta lặng lẽ đi vào vòng xoáy của hưởng thụ và
thú vui nhằm thỏa mãn những đam mê trần tục của mình, cứ lãng du trên thế giới
bảo mà không chịu rời máy ra khỏi phòng đến thăm viếng an ủi tha nhân. Vì vậy, trong bài phát biểu tại buổi cử hành Ngày Thế
giới truyền thông xã hội tại TGP.TPHCM, linh mục Fx. Nguyễn Minh Thiệu Salêdiêng Don Bosco nói
rằng: “Đang khi phải đối diện với
những mặt trái của thực tại ảo đặt ra cho con người khi phải đảm bảo tính chân
thật trong thông tin và trong mối tương quan của con người thì người tu sĩ lại
được mời gọi để dấn thân loan báo Lời Chân Lý trong một môi trường được gọi là
xã hội ảo đang tập trung cả tỉ người. Thế nên, ngày nay người tu sĩ một đàng cần
biết sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại thế nào để chu toàn sứ mạng
truyền giảng Tin Mừng, đàng khác còn phải làm sao để giữ được bản chất của người
tu sĩ khi sử dụng các phương tiện truyền thông này”.
3. Đời sống cộng đoàn
Cảm
dỗ cuối cùng đó là những đụng chạm chị em em với nhau trong đời sống chung,
cũng là một cám dỗ cho sự thăng tiến đời sống tu trì. Chúng ta biết rằng đời
sống chung chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của đời sống tâm linh.
Thực tế cho thấy trong Cộng đoàn có những trường hợp sống bên nhau, cùng ăn,
cùng uống, cùng sinh hoạt với nhau nhưng lại không có được những tương giao thân
thiện và chân tình. Trong Cộng đoàn, một cám dỗ rất lớn là muốn loại trừ những
khác biệt, muốn nắn đúc người khác theo hình ảnh của mình, muốn cho mình là
khuôn mẫu để người khác phải sống theo. Các thành viên trong Cộng đoàn chưa
biết nghe, biết nói, biết hiểu và biết đón nhận vấn đề của nhau, nên những xung
khắc, bất hòa, chia rẽ vẫn còn ngự trị. Khi tâm hồn chúng ta bất an, chúng ta
khó có thể cầu nguyện sốt sắng được chăng, chúng ta sống hết tình cho tình tỉ
muội trong cộng đoàn được chăng! Do đó, những bất hòa trong Cộng đoàn chính là
một thách đố lớn lao trong hành trình tâm linh của người tu trì.
Kính thưa
quý Soeur,
Tất cả
những cám dỗ nêu trên cũng chỉ là những tác nhân bên ngoài, trở ngại lớn lao và
quan trọng hơn cả chính nội tâm và ý chí mỗi người. Cho nên, nguyên nhân làm
cho việc giữ lời khấn của chúng ta trở nên sa sút khởi đi từ chính cá nhân mỗi
người và dễ dẫn đến một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về căn tính đời tu. Mà Căn
tính đời sống thánh hiến là bước theo Chúa Kitô, chọn Chúa là gia nghiệp và Lời
Chúa là lẽ sống cho đời tu suốt đời: khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời. Vì vậy,
trong nghi thức tuyên khấn, người nữ tu được từ tay Đức Cha: phù hiệu,
khăn lúp và Hiến chương của Hội Dòng. Đây là biểu tượng cho một đời sống dấn
thân chết đi cho con người mình, để sống Tin Mừng Phục Sinh trong Đức Kitô. Vâng, Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là
một. Đời tu hôm qua, hôm nay và muôn thế hệ vẫn là bước theo Chúa Kitô nói như
lời Thánh Phaolô là mặc lấy Chúa Kitô, mặc lấy Chúa Kitô là mặc lấy tâm tư tình
cảm, lời nói, việc làm của Ngài trong cung cách phục vụ Chúa và tha nhân. Đây là
tiêu chuẩn tối hậu của đời Thánh hiến. Thế nhưng, người tu chúng ta nhiều khi
lại chưa ý thức rõ ràng căn tính đích thực của mình, chưa thực sự dâng hiến
trọn vẹn tâm hồn và thân xác cho Thiên Chúa. Nhiều khi chúng ta bị cuốn hút
theo dòng đời mà không quên mất lý tưởng của mình đang theo đuổi? Mình đang
theo ai? Đang sống thế nào? Và phải làm gì để thăng tiến đời sống ấy?
Vì vậy,
trong buổi tĩnh tâm này, chúng ta cùng với Chúa và Lời Ngài giúp chúng ta nhìn
lại bản thân qua đó biết thăng tiến trong đời sống tu trì qua việc tập luyện
cho mình thái độ kiên trì trong đời sống cầu nguyện riêng và với cộng đoàn. Bởi
lẽ, Thiên Chúa không bao giờ phán bảo điều gì ở nơi huyên náo, nhưng chỉ trong
thinh lặng, chúng ta mới có thể lắng nghe tiếng Ngài mà thôi. Do đó, mỗi người
hãy năng đến gặp gỡ Chúa trong Thánh Thể, kéo dài các giờ cầu nguyện cá nhân,
chuyên cần suy niệm Lời Chúa mỗi ngày, và dành giờ kiểm điểm đời sống. Ông Nguyễn Bá Học nói: “Đường đi khó không khó vì
ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Còn lời Chúa nói: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được
biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9), vì vậy, là để
trưởng thành đời sống tu trì, chúng ta hãy cố gắng rèn luyện bản thân, hãy kiên
trì và bắt đầu lại mỗi ngày, nhất là luôn trung thành với thời gian biểu thiêng
liêng đã đề ra. Nói như thế không có nghĩa là ta chỉ gặp gỡ Chúa trong những
giờ nhất định, nhưng là liên lạc với Ngài mọi lúc mọi nơi: khi vui cũng như khi
buồn; khi thành công cũng như khi thất bại; khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi
hay ốm đau cũng như khi mạnh khoẻ.. đây là cách chữa trị các cơn cám dỗ này.
CÁCH CHỮA TRỊ CÁC CẢM DỖ
1.
Công việc làm ăn hay Tông đồ
Đặc sủng quí giá
của Hội Dòng Mến Thánh giá chúng ta là: “Yêu mến Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh
và tham dự vào sứ mạng cứu thế của Người”. Để sống Đặc sủng
của mình, người nữ tu Mến Thánh Giá phải
“Đạt tới sự hiểu biết,
yêu mến và hiến thân trọn vẹn cho Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh”.
Vì vậy mà Linh đạo Mến
Thánh Giá được thể hiện qua ba chiều kích: (1) Chiêm niệm;
(2) Khổ chế (hy sinh), (3) Tông đồ. Cho nên, là nữ tu luôn có những
công việc mục vụ giáo xứ (tập hát, dạy giáo lý, lo phòng thánh, cắm hoa); công
tác xã hội (mở lớp dạy nghề, lớp học tình thương, chăm sóc cô nhi, thăm người bệnh
tật, giáo dục mầm non…); y tế (mở tạm xá, khám và phát thuốc lưu động); nhưng
nhớ cho rằng tinh thần, Đặc sủng, Linh đạo vẫn tập trung vào Mầu Nhiệm Thập Giá
Cứu độ, để theo Chúa Giêsu làm “trung gian” đem Tin Mừng đến cho mọi người,
nhất là người chưa biết Chúa, người tội lỗi được ơn hoán cải, và xoa dịu nỗi khổ
đau của người bất hạnh. Thử hỏi,
ngày nay chị em đã yêu Chúa và say mê thực hành bổn phận từng ngày với niềm vui
của của đời thánh hiến của mình qua việc dành ưu tiên số một cho việc chiêm niệm
chưa? Trong Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh: Các
cộng đồng tu trì phải trở về với nguồn của đặc sủng thành lập và với những giá
trị Tin Mừng. Phải trả lại vị trí trung tâm của đời sống thánh hiến cho đời sống
cầu nguyện, đời sống huynh đệ cộng đoàn, ơn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục.
Tái khám phá những giá trị căn bản này để sống chúng và làm chứng cho chúng trong
thế giới: đó là cách thế trao ban cho đời sống tu trì một đà vươn lên mới.”
2. Thế giới kỹ thuật và thế giới
ảo
Ngày nay không ai trong chúng ta muốn sống nghèo thông
tin, nghèo phương tiện hay tình bạn. Người tu sĩ cũng đang bị cuốn vào vòng
xoáy đó và đây là một thách đố. Vâng, nhìn ra xã hội, chúng ta thấy đủ loại
hình thức quảng cáo, tiếp thị khuyến khích người trẻ hưởng thụ những tiện nghi
vật chất để vươn ra với xã hội và thế giới. Nhìn vào bề trên, bạn bè hay nhà
Dòng này Dòng nọ họ có đủ phương tiện kỹ thuật số hiện đại nhằm giúp cho công
việc, liên lạc, học hành, công tác mục vụ… tốt, nhanh và hiện đại xứng với đòi hỏi
của xã hội. Cho nên, người nữ tu cũng bị cám dỗ muốn học hành, phục vụ tốt cần
phải có vi tính xách tay, điện thoại cảm ứng có 3G hay Wifi hay xe gắn máy thật
“xịn”để dễ dàng di chuyển chỗ này chỗ kia. Ban đầu, ý tưởng có đủ điều kiện vật
chất để thi hành công việc là một điều tốt. Thế nhưng sau đó, ý hướng này đã bị
lạm dụng bởi những nhu cầu không chính đáng. Những tài sản có được do khéo xin
xỏ thì ai cũng bo bo giữ cho riêng mình, không dám chia sẻ cùng chị em trong cộng
đoàn, từ đó sinh ra tội ích kỹ. Thế rồi, nhà Dòng, Cộng đoàn hay cá nhân có đủ
phương tiện kỹ thuật số để liên lạc, dạy học và nghiên cứu rất tốt nhưng chúng
cũng là những cớ để chúng ta sa chước cám dỗ về đời sống thiêng liêng, luân lý
và nhân cách người nữ tu.
Điều quan trọng trên hết đòi hỏi
mỗi người tu sĩ là phải huấn luyện chính mình để trở thành những tu sĩ trưởng
thành trong việc sử dụng phương tiện kỹ thuật số: Luật sống (Luật Chúa và Luật
Dòng.luật Cộng đoàn) chính là "khuôn vàng thước ngọc", là
ngọn hải đăng chỉ đường, là lan can che chắn để chúng ta bước đi vững vàng
trong ơn gọi. Dẫu biết rằng đời sống tâm linh và đời hoạt động Tông đồ là hai
bánh lái của một con thuyền đời tu, nhưng rốt cuộc "đời hoạt động
lại chỉ là phần dư dật của đời sống nội tâm" mà thôi. Thành ra, chúng
ta hãy cố gắng rèn luyện bản thân, can đảm và sáng suốt chọn lựa xem cái gì
quan trọng, cần thiết, trong sáng, tốt đẹp nhất mà sử dụng chúng, còn cái gì
xấu thì ta tránh. Để làm được điều đó, mỗi người hãy luôn biết cộng tác với ơn
Chúa, gắn bó với Ngài trong cầu nguyện và chiêm niệm. Nhờ đó, dẫu cho thời gian
đắp đổi xoay vần, khoa học kỹ thuật có thay trắng đổi đen, cuộc sống này có đầy
đủ vật chất và phương tiện nhưng chúng ta vẫn một lòng trung tín với Lời Khấn:
khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh với thái độ “tâm bất biến giữa dòng
đời vạn biến”.
3. Đời sống cộng đoàn
Những xung
khắc trong đời sống Cộng đoàn cũng là một vật cản không nhỏ trong hành trình
tâm linh nơi người tu trì. Cho nên, để có thể thăng tiến đời sống tình tỉ muội trong
Cộng đoàn, mỗi nữ tu hãy tập sống tinh thần hiệp nhất, yêu thương để biến Cộng
đoàn thành “nơi hạnh phúc, chốn an vui”, là mái ấm tình thương. Khi
còn nhỏ, chúng ta sống trong một bầu khí gia đình vui tươi, chan hòa tình bác ái. Gia
đình – chỗ dựa tinh thần vững chắc của tôi, những người thầy truyền cho tôi những
điều hay lẽ phải, một người tôi thương mến và muốn gắn bó cuộc đời này với họ,
hay một người bạn tâm giao sẻ chia ngọt bùi, đồng cảm với tôi khi gặp thất bại…
Tất cả họ đều có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời tôi. Hôm nay, tôi sống trong
một cộng đoàn tuy là chị em với nhau, khác nhau tâm tình hay dòng tộc nhưng
cùng chung một lý tưởng bước theo một Đấng mà mỗi người đều khao khát được “cảm
nếm” và “đụng chạm”. Chúa Giêsu mời gọi tôi và những chị em khác sống tinh thần
yêu thương như chính Ngài đã, đang và sẽ mãi yêu chúng tôi: “Anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34).
Trong tương quan đời sống của tôi với chị em, để
hoàn toàn là chính tôi và đạt tới được sự trưởng thành, tôi nhất thiết phải cần
tới người khác, cách cụ thể cần đến những người chị em cùng sống với tôi dưới một
mái nhà là Cộng đoàn của tôi. “Không ai là một hòn đảo”, bởi vì con người cần
có những tương quan. Mỗi ngày sống trôi qua, tôi cảm nghiệm được những nét đẹp
của đời sống dâng hiến vì tôi được sống với những người chị em khác. Tôi theo
Chúa không phải một mình nhưng là cùng đi với những người được gọi khác để sống
cùng một linh đạo của Đấng sáng lập. Ấy vậy, đời sống chung giữa những con người
không bao giờ là dễ dàng cả, trong đó có cả đời tu. Chủ nghĩa cá nhân, ganh tỵ,
giận hờn ghanh ghét… vẫn còn đó. Nhưng như những viên đá thô góc cạnh muốn đẹp
thì phải được mài giũa cọ xát mỗi ngày. Đời tu cũng vậy, những khác biệt của
chúng ta được quyện lại trong một môi trường thuận lợi để hướng tới việc phát
triển toàn diện con người, để sống tốt cho nhau và vì nhau, để lắng nghe, đối
thoại và hợp tác với nhau trong một công việc chung của cộng đoàn, Hội Dòng và
Hội Thánh. Chính tình yêu nơi đời sống chung này mà người khác có thể nhận ra
khuôn mặt của Đức Giêsu nơi tôi và những người chị em. Vì vậy, sống với nhau là
tập đón nhận và chấp nhận từng người trong cộng đoàn, với cả ưu và khuyết điểm,
tin tưởng từ nơi những người hữu trách, sống hòa thuận và vui lòng làm việc với
người khác, dù cho có những khác biệt, nhất là chia sẻ nỗi buồn vui, ngọt đắng
của cuộc sống, đồng lao cộng khổ với nhau để vượt qua mọi khó khăn thử thách của
bản thân, của cộng đoàn. Vì chưng, Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng: “Anh em
đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã
chu toàn Lề Luật đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là
chu toàn Lề Luật vậy. Phải như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời
nào” (Rm 13,8.9.11).
Để kết thúc chúng ta cùng nhau hát bài Thánh ca
“Cám dỗ trong đời” như một lời cầu nguyện của chúng ta dâng lên Chúa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét