Xin
cha cho biết các tín hữu của các tôn giáo bên ngoài Giáo Hội Công Giáo có được
cứu rỗi không?
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Trả lời:
Thiên Chúa là tình yêu,
là “ Đấng
cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được
cứu độ và nhận biết chân lý” ( 1
Tm 2 : 4). Đó là chân lý mà Thánh Phaolô Tông Đồ đã
dạy không sai lầm từ trên 2000 năm qua. Thiên Chúa muốn cho mọi người không
phân biết mầu da, ngôn ngữ và văn hóa được cứu độ nên đã sai Con Một Người
là Chúa Kitô đến trần gian để cứu chuộc cho con người khỏi chết đời đời vì tội.
Công nghiệp cứu chuộc này thật vô giá và vô cùng cần thiết cho mọi người
được cứu rỗi để vui hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau.
Cho nên, muốn được cứu rỗi
thì nhất thiết phải tin Chúa Kitô và cậy nhờ công nghiệp cực trọng của
Chúa để được cứu độ. Nói rõ hơn, nếu Chúa Kitô không vâng phục Chúa
Cha mà xuống trần gian làm Con Người, và “ hy sinh mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20,28) thì tuyệt dối không ai có thể
làm được gì để xứng đáng được cứu rỗi, vì “ngoài Người (Chúa Kitô) ra, không ai
đem lại ơn cứu độ; vì dưới gần trời này, không có một danh nào khác đã
được ban cho nhân loại để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12).
Như thế có nghĩa là tất cả
loài người – kể cả Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse cao trọng trong vai trò là Mẹ
thật và là Cha nuôi Chúa Kitô, cũng các Thánh Tổ Tông, các Ngôn, các
Tông Đồ… đều phải nhận công nghiệp cứu chuôc của Chúa Kitô để vào Nước Trời vui
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa là Cha và cũng là Đấng cứu độ chúng ta
nhờ Chúa Kitô. Sở dĩ Danh Thánh và công nghiệp của Chúa
Kitô cực kỳ quan trọng như vậy, vì
“chỉ có một Thiên Chúa
Chỉ có một Đấng trung gian
Giữa Thiên Chúa và loài người
Đó là một con người, Đức
Kitô- Giêsu
Đấng đã tự hiến mình làm giá chuộc cho mọi người” ( 1Tm 2,5-6). Nghĩa là bất
cứ ai được cứu độ từ trước đến nay và còn mãi về sau cho đến ngày
hết thời gian, thì đều phải nhờ công nghiệp cứu chuộc vô giá của
Chúa Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người.
Từ chân lý này, Giáo Hội dạy
chúng ta phải gia nhập Giáo Hội qua Phép Rửa để được cứu rỗi nhờ công nghiệp của
Chúa Kitô. Phải được rửa tội, tức là được tái sinh trong sự sống mới được mua
bằng giá máu Chúa Kitô một lần đổ ra trên thập giá năm xưa để cho “ai tin và chịu phép rửa thì được cứu độ, ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,16), như Chúa đã nói với các môn
đệ trước khi Người về Trời, sau khi hoàn tất công trình cứu chuộc nhân
loại qua khổ hình thập giá, chết, sống lại và lên Trời.
Chúa đã thiết lập Giáo Hội
của Người trên nền tảng các Tông Đồ như phương tiện cần thiết để chuyên chở ơn
cứu độ của Người đến hết mọi người trên trần gian cho đến ngày cánh chung – tức
là ngày tận thế. Giáo Hội này “tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo
do Đấng kế vị Phêrô và các giám mục hiệp thông với ngài điều khiển..”(LG, số
8). Vì thế “những ai biết rằng
Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Chúa Kitô, như phương tiện cứu
rỗi cần thiết mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong
Giáo Hội này thì sẽ không thể được cứu rỗi”( LG, số 14). Nói khác đi, những ai biết Giáo Hội Công Giáo là phương
tiện cứu rỗi cần thiết mà vẫn không muốn gia nhập, hoặc đã gia nhập qua Phép
Rửa mà lại không kiên trì sống đức tin, đức cậy, đức mến trong Giáo Hội
này thì cũng sẽ không được cứu rỗi như Giáo Hội dạy trên đây.
Dầu vậy, đối với những người
không vì lỗi của họ mà không được biết Chúa Kitô cũng như không được
rửa tội vì không ai giúp họ về việc quan trọng này, Giáo Hội cũng dạy
là nếu họ sống ngay lành và làm mọi việc theo sự hướng dẫn lành mạnh
của lương tâm, thì họ vẫn có thể được cứu rỗi nhờ Danh Chúa Kitô và công
nghiệp cứu chuộc của Chúa (x. SGLGHCG số 847; LG số 16). Ngược lại, những người đã được biết Chúa qua đức tin và đã gia
nhập Giáo Hội qua Phép Rửa, nhưng nếu họ không sống đức tin ấy và không
thi hành những cam kết khi được rửa tội để làm những sự dữ như giết người, hận
thù, trộm cắp, bóc lột, bất công bạo tàn, dâm ô thác loạn, buôn bán
phụ nữ và bắt cóc trẻ nữ để bán cho bọn bất lương hành nghề mãi dâm và ấu
dâm rất khốn nạn… thì làm sao có thể được cứu rỗi, nếu chúng cứ tiệp tục con đường
tội lỗi mà không kíp ăn năn, sám hối để xin Chúa thứ tha? Trong trường hợp này, dù có ai trong những hạng người này đã
được rửa tội thì phép Rửa cũng hoàn toàn vô ích cho họ mà thôi.
Riêng đối với các tín hữu của
các tôn giáo bên ngoài Giáo Hội Công Giáo, chúng ta cần phân
biệt hai trường hợp sau đây:
1.
Trước
hết là các Tôn giáo có liên hệ ít nhiều về nguồn gốc với Công Giáo như các Giáo Hội Chính Thống Đông
Phương (Eastern Orthodox Churches) các nhánh Tin
Lành (protestanism) Anh Giáo (Anglican Communon) và Do Thái Giáo
(Judaism) tức là những giáo phái không đang hiệp thông trọn vẹn với
Giáo Hội Công Giáo, vì có những bất đồng về tín lý, Kinh
Thánh, Phụng Vụ và nhất là về vai trò Đại Diện (Vicar) Chúa
Kitô của Đức Giáo Hoàng La mã. Đối với các Giáo Hội chưa hiệp thông này,
Giáo Hội Công Giáo đã tha thiết mời gọi sự hiệp nhất Kitô Giáo qua nỗ lực
đai kết (Ecumenism) đã theo đuổi từ nhiều thập niên qua, nhưng cho
đến nay, mới chỉ đạt được việc bỏ vạ tuyệt thông giữa hai Giáo Hội Công
Giáo và Chính Thông Đông phương sau cuộc hội ngộ lịch
sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Hy Lap
Anathegoras I năm 1966. Vạ tuyệt thông (Anathema) này đã xảy ra từ năm
1054 giữa hai Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo La mã
vì những bất đồng không thể hàn gắn được giữa hai Giáo Hội anh em
này.
Gần
đây có thêm một số khá đông giáo sĩ và giáo dân Anh giáo xin
gia nhập Công Giáo và đã được hoan hỉ đón nhận. Ngoài ra
chưa có tiến bộ nào trong việc hiệp nhất giữa Công Giáo và các nhánh Tin
Lành, và Do Thái giáo, mặc dù Tòa Thánh vẫn có những liên hệ mật thiết với
các giáo phái này và vẫn luôn hướng về các anh em
còn ở bên ngoài Công Giáo này để cầu xin cho sự hiệp nhất được sớm
thực hiện với thiện chỉ của các bên liên hệ. Riêng các tín hữu của các Giáo hội
chưa hiệp nhất này, Giáo Hội Công Giáo
không hoài nghi ơn cứu rỗi dành
cho họ, vì tin
rằng, nếu họ sống đúng với niềm tin
của họ vào Chúa Cứu Thế Giêsu để thành tâm yêu mến và thi hành ý
muốn của Thiên Chúa, thì họ vẫn được hưởng nhờ ơn cứu
chuộc của Chúa Kitô.
2.
Đối
với các Tôn giáo ngoài Kitô Giáo khác như Hồi Giáo (Islam), Ấn Giáo (Hinduism),
Phật Giáo (Buddhism), Khổng Giáo (Confucianism), Thần Đạo (Shinto) của người
Nhật…, tuy họ ở bên ngoài Công Giáo,
nhưng Giáo Hội không hề dạy là họ sẽ không được cứu rỗi. Xa xưa trong
thời sơ khai của Giáo hội, đã có giáo phụ dạy là không có ơn cứu độ ngoài Giáo
Hội (no salvation outside the Church). Nhưng lời dạy trên không trở thành giáo
lý vững chắc còn tồn tại trong Giáo Hội cho đến ngày hôm nay. Ngược
lại, Giáo Hội qua Công Đồng Vaticanô II với tuyên ngôn Nostra Aetate về
mối liên lạc giữa Giáo Hôi và các Tôn giáo ngoài Kitô Giáo, đã minh xác như
sau:
“Giáo Hội Công Giáo không
hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng
kính trọng chân thành. Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và
lối sống, những huấn giáo và giáo thuyết kia tuy rằng có nhiều điểm khác
với chủ trương mà Giáo hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của chân
lý. Chân lý chiếu soi cho hết mọi người… Vì thế, Giáo Hội khuyến khích con cái
mình nhìn nhận , duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như
luân lý và những giá trị xã hội và văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo
khác bằng con đường đối thoại và hợp tác cách thân trọng và bác ái đối với tín
đồ tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống Ki tô giáo” (Nostra Aetate, số 2).
Như thế có nghĩa là Giáo Hội
Công Giáo không phán đoán tiêu cực về bất cứ tôn giáo nào bên ngoài Giáo Hội và
còn kêu gọi người Công Giáo nên có thái độ thân thiện với các tín đồ các
tôn giáo khác, trong khi vẫn trung thành với đức tin Kitô giáo và sống vai
trò nhân chứng (witnessing) của mình trước mặt người đời để mời gọi
họ tin Chúa Kitô và gia nhập Giáo Hội của Chúa để được hưởng công nghiệp cứu
chuộc của Người. Nói rõ hơn, Giáo Hội không lên án ai chưa
hiệp thông với mình trong đức tin và thờ lậy một Thiên Chúa với Ba
ngôi vị khác nhau nhưng cùng một bản thể là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần. Giáo Hội chỉ cầu nguyện và cố gắng xích lại gần với mọi tôn giáo có
hay không có nguồn gốc Kitô giáo.
Liên can đến vấn đề cứu rỗi,
Giáo hội chỉ dạy con cái mình phải làm gì để được cứu độ cũng
như phải xa tránh những gì có thể làm mất hy vọng cứu độ mà thôi. Còn đối với những người chưa biết Chúa Kiô, kể cả những người vô
thần (Atheists), Giáo Hội phó thác họ cho Chúa là Đấng chí công, nhân từ và giầu
lòng thương xót, để tùy Người phán đoán và hướng dẫn họ trên đường
tìm chân lý và tôn thờ Đấng đáng phải tin. Chính trong chiều
kích này mà biết đâu họ cũng sẽ gặp được Thiên Chúa là Thượng
Đế mà họ đang kiếm tìm.
Vì thế, chúng ta phải
cầu xin cách riêng cho những anh chị em chưa biết Chúa để xin cho họ
được mau nhận biết và tin Chúa là Đấng tạo dựng và cứu độ
duy nhất của loài người, được Chúa yêu thương đến nỗi đã hy sinh Con của
mình là Chúa Kitô, “ Đấng
đã hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn
người”( Mt 20,28).
Tóm lại,Thiên Chúa là tình
thương. Người mong muốn cho mọi người được cứu độ để sống hạnh phúc Thiên Đàng
với Người trên Nước Trời mai sau. Là người may
mắn có niềm tin Chúa và đang sống đức tin trong Giáo Hội, mọi người tín hữu
chúng ta đều được mong đợi quan tâm đến phần rỗi của người khác, cách riêng
những người chưa nhận biết Chúa để cầu xin cho họ được đức tin như
mình để cùng được cứu độ như lòng Chúa mong muốn.
Ước mong giải thích
trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét