“Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình
ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới
bất thần chụp xuống đầu anh em” (Lc 21,34).
1. Nhân đức tiết độ là gì?
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy: “Tiết độ là nhân đức luân lý giúp chúng ta điều tiết sức lôi cuốn của những
thú vui và giữ sự chừng mực trong việc sử dụng các của cải trần thế. Nó giúp ý
chí làm chủ các bản năng và kềm chế các ham muốn trong những giới hạn của sự
lương thiện. Người tiết độ qui hướng các thèm muốn giác quan của mình về điều thiện, giữ được sự cẩn trọng lành mạnh, và không
chiều theo sức mạnh của mình mà bước
theo các dục vọng của trái tim mình. Đức tiết độ thường được ca tụng trong Cựu
Ước: “Con đừng buông theo các tham vọng
của con, nhưng hãy kềm chế các dục vọng”
(Hc 18,30). Tân Ước, nhân đức này được gọi là “sự chừng mực” hay “sự điều độ”. chúng ta phải sống “chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2,12) (số 1809).
Như vậy, tiết
độ là một việc làm dung hòa, có chừng mực, tránh thái quá hoặc
bất cập. Để được như vậy, ta phải kìm hãm, xa tránh những xúc cảm
và thu hút, tức những kích thích từ phía bên trong lẫn bên ngoài cuộc
sống. Và như vậy, tiết độ không phải là nhân đức hay đức tính dễ
làm và dễ thực hiện, bởi vì nó trực tiếp liên quan đến cả thể lý,
tâm lý và tâm linh con người.
2. Tiết độ trong Tân Ước
Trước hết, Tân Ước khuyên con người sống điều độ: “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người
đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng
không cãi cọ ghen tương” (Rm 13,13). Đặc biệt, Tân Ước cũng dành lời khuyên
sống điều độ cho từng đối tượng. Điều này được thể hiện rõ nhất trong Thư của
Thánh Phao-lô gửi cho Ti-tô:
- Đối với những người cai quản trong Giáo
hội, thì: “Giám quản, với tư cách là quản
lý của Thiên Chúa, phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, không
nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn”,
và “Các trợ tá cũng vậy, phải là người
đàng hoàng, biết giữ lời hứa, không rượu chè say sưa, không tìm kiếm lợi lộc
thấp hèn” (1Tx 3,8).
- Đối với những người cao tuổi: “Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng
là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều
lành” (Tt 2,3).
- Đối với các thanh niên: “Phải giữ chừng mực trong mọi sự” (Tt
2,6).
- Đối với phụ nữ: “Biết sống chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng, để
lời Thiên Chúa khỏi bị người ta xúc phạm” (Tt 2,5).
Tuy nhiên, Tân Ước không dừng lại ở việc
khuyên con người đừng chè chén say sưa về phương diện thể lý, mà còn nhắc nhở:
chính việc say sưa đó làm cho con người sao lãng Thiên Chúa, sống vô luân và có
thể đánh mất Thần Khí đem lại sự sống cho ta (Ep 5,18). Cho nên, Đức Giê-su
cảnh cáo những người hay che chén say sưa: “Vậy
anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng
sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em. Vậy
anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy
đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,34.36).
3. Tiết độ
của người Kitô hữu
“Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì
chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp
xuống đầu anh em” (Lc 21,34). Rõ ràng
Chúa Giêsu đâu có cấm mình ăn, uống, ngủ, nghỉ, giải trí lành mạnh… Ngài dạy
phải tiết độ, có nghĩa rằng phải có chừng, có mực. Bởi vì theo khuynh hướng bản
năng, chúng ta dễ đi đến cực đoan, quá mức, chẳng hạn, nghiện ma túy, điện
thoại, vi tính, game, nghiệm làm việc quên ăn, quên ngủ… Vậy, tiết độ giúp
chúng ta kìm chế bản năng, kìm chế dục vọng. Chúa Giêsu có bản năng như ta
nhưng Ngài chủ bản năng, làm chủ dục vọng, không sống buông thả thích làm không
thích thì thôi.
Đối
với Ki-tô hữu, thế giới này đang qua đi, ngày cùng tận, ngày Chúa quang lâm và
thế giới mới đang gần kề, bởi đó, thư Phêrô khuyên: “Thời cùng tận của vạn vật gần đến rồi. Anh em hãy sống chừng mực và
tiết độ để có thể cầu nguyện được” (1Pr 4,7). Hơn nữa, sống điều độ không
chỉ là đảm bảo sức khoẻ, không chỉ là thể hiện con người đàng hoàng, mà sống
điều độ còn giúp cho con người có thể cầu nguyện được, sống điều độ để có thể
thừa hưởng Nước Thiên Chúa. Vì thế, Thánh Augustinô nói: “Sống tốt lành không
gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa
hết lòng, hết linh hồn và hết sức
lực mình, tình yêu này phải được gìn giữ
trọn vẹn và không hư hoại, đó là phần của đức tiết độ” (T. Augustinô, những
thói quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46 ). Cho nên, Lời Chúa
dạy: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục,
mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì
chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là
Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng
ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính,
và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân
hăng say làm việc thiện” (Tt 2,11-14).
4. Làm thế nào để tiết
độ
Làm thế nào
để xa tránh tội lỗi và tự chế chính mình? Điều này đòi hỏi sự trưởng
thành về tâm lý và tâm linh. Một nghĩa nào đó, tiết độ là một nhân
đức hay đức tính của những con người trưởng thành. Thí dụ, khi đói,
dạ dầy ta cồn cào, xót xa. Thiếu dinh dưỡng, con người trở thành bạc
nhược, mệt mỏi và không có khả năng làm được gì. Tay
chân rã rời, uể oải. Trí óc ngừng hoạt động, và nếu có hoạt động
thì lại hoạt động nhằm vào việc làm thế nào để no cái dạ dầy.
Tóm lại, nguyên một việc đói mà thôi cũng đã ảnh hưởng trực tiếp
cả phần thể lý, tâm lý và tâm linh con người, khi túng quá, người ta
hay làm càn, làm mất đi nghĩa của đạo lý. Cho nên, người Việt Nam có
câu:“Bần cùng sinh đạo
tặc” là vậy. Theo
tâm lý phát triển, thì việc con người ăn, uống, ngủ, nghỉ là những
hành động theo bản năng. Những hành động này rất tự nhiên và thuộc
về thể lý. Nó chưa vươn tới được những gì thuộc lãnh vực tâm lý và
tâm linh. Việc con người suy nghĩ, đắn đo và chừng mực là việc làm
của tâm lý và tâm linh, vì nó đòi phải có tri thức và tự do. Vậy
nếu con người chỉ dừng lại ở phần tự nhiên, tức giác quan, hoặc theo
bản năng, thì đó là mức độ tối thiểu và khởi đầu của tiến trình
phát triển. Như vậy, một người dù đã lớn tuổi nhưng không dùng khả
năng tri thức để tự kìm hãm, tự giới hạn và làm triển nở giá trị
hành động của mình, thì người ấy vẫn chưa được coi là người đã
trưởng thành nhân bản một cách đầy đủ. Cho nên, Thánh Gioan Bosco đã
nói: “Muốn làm một
thánh nhân, thì phải thành nhân trước đã.” Nếu đem áp dụng những lời này
vào trường hợp con người chỉ dừng lại ở bản năng hoặc tự nhiên, thì
những người ấy không thể được coi là những thánh nhân, quân tử, vì
thực sự họ chưa thành nhân xét về mặt tâm lý và đạo đức.
Do đó, Tiết độ
là một việc làm cần thiết để không những thăng hoa, triển nở cuộc
sống con người, mà còn là một dấu chỉ của sự trưởng thành nhân bản.
Người tiết độ là một người không quá khích, không buông túng, không
thả lỏng, nhưng chừng mực, dung hòa và bình tĩnh. Chừng mực trong
những nhu cầu theo bản năng, tình cảm, và cả trong lãnh vực đạo đức
tâm linh nữa. Một người như vậy, trước hết sẽ sống thoải mái, bình
an, và không gặp phải hoặc tạo ra những xúc cảm quá độ. Tâm trí của
những người tiết độ không hoạt động quá mức. Tình cảm họ không bị
kích thích quá độ. Và trong lãnh vực luân lý, đạo đức, họ cũng
không tự buộc mình hoặc cưỡng ép mình vào những hành động siêu
phàm, vượt quá khả năng khiến có thể đem đến sự chán ngán, nghi
ngờ, hoặc thất vọng một khi không thực hành được những ước mơ siêu
phàm ấy.
Và tiết độ
cũng không có nghĩa là hoàn toàn xa tránh hoặc tránh né tất cả.
Một người không biết thưởng thức một bữa ăn ngon, một ly rượu ngon,
một chén trà ngon, một tình cảm trân quý của người thân, người yêu,
hay bạn bè, người ấy phần nào mang những hội chứng tâm lý bệnh
hoạn. Nhưng ngược lại, nếu chỉ say sưa, đắm chìm vào những đòi hỏi
vật chất, tham lam, và sự hối thúc của dục vọng cuồng nhiệt thì đó
lại là những hành động buông túng và quá độ.
Tóm lại, tiết
độ là một hành vi vừa có tính cách tâm lý, vừa đạo đức, và vừa
lý trí. Nó đem lại sự bình an và thanh thoát cho con người. Nó giúp
kìm hãm và giới hạn những ràng buộc của bản năng và dục vọng của
con người. Tiết độ là một nhân đức, và do đó, đòi hỏi sự tập luyện
và có ý chí bển bỉ trong thực hành. Cho nên, Thánh Augustinô dạy “Sống tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa
hết lòng, hết linh hồn và hết sức
lực mình. Chúng ta dành cho Người
một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không
gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa
vào cạm bẩy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)”.
3. Tự vấn và quyết tâm
thực hành
1. Làm thế nào để khỏi sa chước cám dỗ thể xác và
tinh thần?
2. Qua Kinh Cải Tội Bảy Mối, Hội Thánh muốn dạy
gì?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét