Trang

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

VAI TRÒ PHỤ NỮ TRONG SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG CỨU ĐỘ


Bạn thân mến,
Tin Mừng Mát-thêu kể rằng: “Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi. Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: "Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay." Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.
Bỗng Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: "Chào chị em! " Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà: "Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó." (Mt 28,8-15)

Bạn thân mến,
Vì sao Chúa lại hiện ra với các phụ nữ đầu tiên? Bởi vì họ gắn bó trung thành với Chúa Giêsu hơn bất cứ ai. Họ có mặt bên Chúa suốt dọc dài hành trình rao giảng nay đây mai đó. Trong cuộc khổ nạn, họ cận kề sát bên Chúa, họ đứng dưới chân thập giá cùng Mẹ Maria, họ chứng kiến cảnh Chúa chịu treo trên thập giá, đau đớn tột cùng cho đến chết. Ngoài ra họ còn góp sức trong lúc an táng, và hôm nay, dẫu rằng Chúa đã chết, đã ba ngày bị vùi chôn trong ngôi mộ, họ vẫn trung thành đến viếng thăm ngay từ khi bình minh ló rạng. Họ được gặp Chúa Giêsu phục sinh bởi họ có lòng mến chân thành. Nhờ lòng yêu mến này, họ đã vượt qua mọi trở ngại,  sợ hãi, khó khăn … để dám đi ra mộ ngay từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Chính lòng nhiệt thành, Chúa hiện ra với các chị đầu tiên, và các chị đã biết được Chúa đã phục sinh, và được Chúa sai đi loan báo tin trọng đại cho các tông đồ và mọi người. Rõ ràng, các chị bây giờ trở thành nữ tông đồ của các tông đồ. Điều đáng trân trọng, khâm phục và noi gương các chị là các chị không thể giữ riêng cho mình, cũng không thể dửng dưng lạnh lùng nhưng rất đỗi hân hoan muốn sẻ chia tin vui Phục Sinh cho mọi người.

Bạn thân mến,
          Trong xã hội Do-thái, các phụ nữ bị coi là thua kém, nhưng đối với Đức Giêsu, phụ nữ có một vai trò đặc biệt. Cô Ma-ri-a Mác-đa-la là người đầu tiên được Đức Giêsu phục sinh trao cho sứ vụ loan báo tin vui: Chúa đã sống lại thật! Sách Tin mừng thuật lại sau khi gặp Chúa phục sinh, cô Ma-ri-a Mác-đa-la đã vội vã đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà (x. Ga 20,18). Cho đến hôm nay, sứ điệp phục sinh được công bố bởi miệng lưỡi của một người phụ nữ đã “vang đến tận cùng” cõi đất. Lịch sử Hội Thánh đã chứng minh: phụ nữ cũng có một vai trò quan trọng trong sứ vụ loan báo Tin mừng cứu độ.
Nói đâu xa, người phụ nữ Công giáo Việt Nam cũng đã góp công lớn trong công cuộc truyền giáo cho quê hương xứ sở mình. Hội Thánh Việt Nam hôm nay là thành quả của biết bao công sức và máu đào của các giám mục, linh mục, các thầy giảng và rất nhiều giáo dân nam nữ. Hội Thánh Việt Nam tự hào về những người mẹ, người chị quả cảm, lòng tin kiên vững và lòng yêu mến sắt son; tự hào vì đã có những người mẹ, người chị đã anh dũng đổ máu chẳng thua kém bậc nam nhi, để làm cho hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái trên dải đất Việt Nam.
Chúng ta cùng nhìn lại những trang sử hào hùng mà các chị em phụ nữ đã viết vào lịch sử công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
1. Nhiệt thành rao truyền đạo Chúa
Trong các công cuộc truyền giáo đầy gian nan và trắc trở, các cha thừa sai Dòng Tên đã nhận được nhiều sự trợ giúp đắc lực và khéo léo của các bà. Trong số đó, người ta phải kể đến bà Maria Minh Đức vương thái phi, cô của chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648). Bà Maria Minh Đức lãnh nhận Phép Rửa năm 1624 do cha De Pina, lúc đó bà đã ngoài 76 tuổi. Nhà nguyện của bà được kể như là Hội Thánh tại gia của giáo đoàn vùng kinh đô.
Năm 1640, cha Đắc Lộ trở lại Việt Nam. Hay tin chúa Nguyễn Phúc Lan muốn buôn bán với người Bồ, nên cha Đắc Lộ đem lễ vật lên vương phủ Kim Long, xin yết kiến nhà vua. Cha được tiếp đón niềm nở. Khi nghe biết cha Đắc Lộ tới kinh đô, bà Maria Minh Đức đã cho người mời cha đến dinh thự của bà. Lợi dụng cơ hội này, cha đã ở lại nhà nguyện của bà Maria Minh Đức để gặp giáo dân vùng kinh đô. Suốt ngày đêm, các tín hữu kéo nhau đến gặp cha để lãnh các bí tích. Họ sốt sắng tham dự Thánh Lễ. Cha đã cử hành Tuần Thánh năm đó tại nhà nguyện của bà Minh Đức. Trong lễ phục sinh, cha đã làm phép Rửa cho ba bà thuộc hoàng tộc và một thầy sãi. Cả bốn người đều là do hoạt động tông đồ của bà Minh Đức. Trong những lần trở lại Việt Nam sau đó, nhà nguyện của bà Maria Minh Đức luôn là cứ điểm truyền giáo an toàn của cha Đắc Lộ trong thời bách hại đạo.
Bên cạnh bà Maria Minh Đức, còn có nhiều bà khác nữa cũng nhiệt thành với việc truyền rao Đạo thánh Chúa. Các bà đã vận dụng sự khéo léo của nữ tính, biết tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi nơi và mọi thời thuận tiện để rao truyền Đạo Chúa cho những người thân cận, đồng bào lương giáo. Cụ thể, có bà quả phụ đô trấn Thăng Long, tên thánh là Gioanna. Từ khi quan đô trấn qua đời, thì bà được gọi vào trông coi các cung nữ trong vương phủ. Nhân thời thuận tiện này, bà đã khuyên bảo được nhiều cung nữ, vương phi tin theo đạo Chúa, trong số này có hai vương phi của hoàng tử đã mất và một nàng hầu. Thế rồi, cả bốn bà hợp lực truyền giáo cho các vương phi, cung nữ trong vương phủ. Có một bà khác, tên thánh là Saola, được chúa Trịnh tin dùng vào việc nấu ăn dọn bữa. Vì là người có đạo, nên vua rất tín nhiệm và an tâm về những bữa ăn bà dọn. Nhiều lần vua muốn bà lập lại các bài giảng của các linh mục ở nhà thờ, và bà đã sử dụng cơ hội thuận tiện này để nói cho vua biết về đạo Chúa.
Một đời sống tốt lành, những công việc bình thường của người phụ nữ như nấu cơm, dọn bữa, những cuộc nói chuyện, những hy sinh thầm lặng, v.v. tất cả đều có thể trở nên những phương thế truyền giáo hữu hiệu của người phụ nữ Công giáo Việt Nam.
2. Nhiệt thành tuyên xưng đức tin
Hội Thánh Việt Nam luôn tự hào vì đã có nhiều chứng nhân đức tin là nữ tín hữu. Sử sách còn để lại những câu chuyện thật cảm động về cuộc tuyên xưng đức tin anh hùng của họ. Các bà mẹ, các chị em đã tỏ ra can đảm phi thường, chấp nhận mọi đau khổ và nhục nhã để một lòng trung thành với đạo thánh Chúa. Cụ thể, một bà mẹ Công giáo can đảm phi thường, chẳng thua kém các bậc nam nhi, đó là bà thánh Anê Lê Thị Thành, tục gọi là bà thánh Đê. Bà sinh khoảng năm 1781, tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, Thanh Hoá, sau theo mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, Ninh Bình. Năm 17 tuổi, cô Lê Thị Thành kết hôn với anh Nguyễn Văn Nhất, người cùng làng. Họ sống với nhau hạnh phúc và sinh được sáu người con, người con cả tên là Đê. Bà Đê là một người con dâu hiếu thảo, một người vợ hiền thục đảm đang và là một người mẹ rất mực yêu thương con cái. Bà nuôi nấng, dạy dỗ con cái lớn khôn, một lòng sống trung thành với đạo thánh Chúa.
Dưới thời Thiệu Trị, cuộc bách hại đạo ngày càng quyết liệt. Vì kính trọng và quý mến các cha, bà Đê đã không ngần ngại giúp đỡ và che dấu các ngài. Bà dành một khu nhà đặc biệt để các ngài trú ẩn. Chính đức ái đó đã dẫn bà Đê đến phúc tử đạo. Ngày 14 tháng 4 năm 1841, vào sáng sớm ngày lễ phục sinh, bà đã bị bắt cùng với cha Galy Lý và một số giáo dân khác.
          Trong thời gian bị giam giữ, lính tráng đánh đập bà tàn nhẫn, toàn thân bà bầm tím máu. Tuy là phận nữ yếu đuối, nhưng bà đã tỏ ra can đảm cách phi thường, không nao núng, vui vẻ chấp nhận những cực hình tra tấn. Khi chồng đến thăm, bà giải thích vì sao bà được kiên tâm như vậy: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến độ đàn ông cũng chẳng chịu nổi, nhưng tôi đã được ơn Đức Mẹ giúp sức nên tôi ít cảm thấy đau đớn”. Con gái vào tù thăm mẹ, khóc lóc khi thấy thân thể bà bầm tím máu, áo bê bết loang lổ vết máu, bà hài hước an ủi: “Con đừng khóc mẹ nữa, mẹ mặc áo hoa hồng thắm đỏ, sao con khóc?” Bà coi những vết máu như vòng hoa khoác lên cổ người chiến sĩ thắng trận khải hoàn. Rồi bà nói với cô: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo anh chị em con săn sóc việc nhà, vững tâm giữ đạo, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên đàng”.
Vì bị những cực hình tra tấn và phải chịu đói chịu khát, nên bà đã kiệt sức và chết rũ tù ngày 12 tháng 7 năm 1841, sau ba tháng bị giam cầm vì đức tin, thọ 60 tuổi. Đức Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong bà Anê Lê Thị Thành lên bậc chân phước ngày 2 tháng 5 năm 1909.
Bên cạnh bà thánh Đê, còn có nhiều bà mẹ, nhiều chị em phụ nữ khác nữa, tuy không được lãnh phúc tử đạo, nhưng cũng đầy cam đảm và chí khí vì đã tin tưởng yểm trợ tinh thần cho cha, cho chồng, cho con trong cuộc tuyên xưng đức tin cao đẹp. Trong các cuộc bách hại đạo, quan quân thường bắt tất cả đàn ông trong làng có đạo, giam vào một nơi, rồi sai lính bắt vợ con đưa ra uy hiếp, phải khuyên dụ các ông chối đạo, nhưng các bà, các chị đã làm điều ngược lại: khuyên nhủ chồng con trung thành với Chúa cho đến cùng. Xin kể ra đây một vài chứng tích:
- Con gái ông Lý Mỹ 12 tuổi, trốn mẹ vào thù thăm cha, cô thưa với cha: “Xin cha cam đảm chết vì Chúa”. Còn bà Mỹ thì nói trong tiếng nghẹn ngào: “Vợ con ai mà chẳng thương tiếc, nhưng ông hãy hy sinh vác thánh giá rất nặng vì Chúa. Hãy trung thành đến cùng, đừng lo nghĩ đến mẹ con tôi. Thiên Chúa sẽ quan phòng tất cả”.
- Bà mẹ của Jaccard Phan, khi nghe tin con chịu chết vì đức tin, đã reo lên: “Thật là tin vui, gia đình ta có một vị tử đạo”. Bà nói tiếp: “Xin chúc tụng Chúa, tôi sẽ buồn biết bao, nếu con tôi chịu khuất phục trước gian khổ và cực hình”.
- Bà mẹ của binh sĩ Anrê Trông đã theo gương “Nữ Vương các thánh tử đạo”. Bà có mặt trong cuộc hành quyết để dâng hiến người con trai duy nhất. Bà đi bên cạnh con, không than khóc, không buồn rầu, bà động viên khuyên dủ con trung tín với Chúa đến cùng. Khi đầu của vị tử đạo rơi xuống, bà mạnh dạn tiến vào pháp trường và nói với quan: “Đây là con tôi, xin các ông trả lại cái đầu nó cho tôi”. Rồi bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp của người con trai yêu quý, rồi đem về an táng trong vườn nhà.
Tuyệt vời những bà mẹ Công giáo Việt Nam! Hình ảnh Đức Trinh nữ Maria đứng kề bên thánh giá ngời sáng nơi các mẹ, các chị. Chắc hẳn, khi các vị tử đạo chịu muôn cực hình đau khổ bao nhiêu, thì trái tim của các mẹ, các chị cũng ngập muôn nỗi khổ đau bấy nhiêu. Trong cuộc tuyên xưng đức tin cao đẹp của các vị tử đạo, những người phụ nữ Công giáo Việt Nam cũng đã dự phần vào phúc tử đạo của các chứng nhân đức tin.
3. Nhiệt thành hoạt động tông đồ
Trong khi các linh mục truyền giáo bị cấm hoạt động, thì hầu hết các họ đạo có thể đứng vững được trong thử thách, phần lớn là nhờ hoạt động tông đồ của một số giáo dân, trong đó nữ giới giữ vai trò đáng kể.
Ở Phú Yên, bà phu nhân quan phủ, có tên thánh là Maria Madalena, đã lập một bệnh xá để giúp đỡ các bệnh nhân nghèo không phân biệt lương hay giáo. Người dân trong vùng đều cảm phục tấm lòng và công việc của bà, và đã có nhiều người tin vào đạo Chúa.
Nhiệt thành với việc mở mang Nước Chúa và lo phần rỗi các linh hồn, các dì phước, các bà đỡ tìm mọi cách rửa tội cho trẻ em bệnh nặng chết yểu. Họ thăm nom, săn sóc, nuôi nấng, thuốc men và tổ chức an táng. Nếu các em sống sót, thì các bà dạy giáo lý và nghề nghiệp cho đến khi tự lập. Qua các mùa dịch bệnh, nhiều gia đình Công giáo khá giả đã quảng đại nhận nuôi các trẻ em của các gia đình ngoại giáo nghèo hoặc mồ côi để rửa tội cho chúng.
Có thể nói, những hoạt động tông đồ xuất phát từ đức ái, lòng tận tuỵ và sự hy sinh của người phụ nữ Công giáo Việt Nam trong thời truyền giáo đã để lại những dấu ấn khó phai mờ trên mảnh đất và con người Việt Nam. Quả thực, sống đức ái là phương thế truyền giáo hữu hiệu nhất, như Đức Giêsu đã nói: “ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu mến nhau." (Ga 13,35).

Kết luận
Nhìn lại những trang sử truyền giáo ở các nước đặc biệt tại Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa rằng người phụ nữ đã góp phần to lớn vào công cuộc loan báo và chứng tá Tin Mừng. Công khó của các mẹ, các chị chẳng thua kém các giám mục, linh mục, thầy giảng, các vị tử đạo nam giới. Nói thế không phải để so sánh hơn kém giữa phái nam và phái nữ, nhưng để thấy rằng trong Đức Kitô, thì không còn chuyện phân biệt đàn ông hay đàn bà, tất cả đều là những bộ phận trong cùng một thân thể nhiệm mầu Giêsu Kitô; tất cả liên đới và hiệp thông với nhau trong đức tin và lòng yêu mến.
            Vậy, đối với mỗi người chúng ta hôm nay, dẫu là giáo dân hay giáo sĩ, người nam hay người nữ, tất cả đều phải đảm nhận trách nhiệm đối với toàn thân thể là Hội Thánh, mỗi người một cách, tùy ơn gọi và khả năng Chúa ban, như thánh Phaolô nói: “Chính Đức Kitô đã ban ơn cho kẻ này làm tông đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ, nhờ đó các tín hữu được trang bị để làm công việc phục vụ là xây dựng thân thể Đức Kitô...” (Ep 4, 11-12). Vì vậy, trong buổi đọc kinh Lậy Nữ Vương Thiên Đàng trưa thứ hai tuần Bát Nhật Phục Sinh 21-4-2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi mọi người giãi tỏa ánh sáng Tin Mừng Phục Sinh trong cung cách sống thường ngày, có nghĩa rằng hãy đem một “tia ánh sáng” của Chúa Phục Sinh tới các hoàn cảnh khác nhau của con người: trong các hoàn cảnh của cuộc sống. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét