Tin Mừng Mát-thêu kể rằng: “Sau ngày sa-bát, khi
ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng
tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần
Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; diện mạo người như
ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy
chết ngất đi. Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: "Này các bà, các bà
đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở
đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm,
rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và
Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin
nói cho các bà hay." Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất
đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.
Bỗng Đức Giê-su đón
gặp các bà và nói: "Chào chị em! " Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy
chân, và bái lạy Người. Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà: "Chị em đừng
sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở
đó." (Mt 28,8-15)
Bạn thân mến,
Vì sao Chúa lại hiện ra với các phụ nữ đầu
tiên? Bởi vì họ gắn bó trung thành với Chúa Giêsu hơn bất cứ ai. Họ có mặt bên
Chúa suốt dọc dài hành trình rao giảng nay đây mai đó. Trong cuộc khổ nạn, họ
cận kề sát bên Chúa, họ đứng dưới chân thập giá cùng Mẹ Maria,
họ chứng kiến cảnh Chúa chịu treo trên thập giá, đau đớn tột cùng cho đến chết.
Ngoài ra họ còn góp sức trong lúc an táng, và hôm nay, dẫu rằng Chúa đã
chết, đã ba ngày bị vùi chôn trong ngôi mộ, họ vẫn trung thành đến
viếng thăm ngay từ khi bình minh ló rạng. Họ được gặp Chúa Giêsu phục sinh
bởi họ có lòng mến chân thành. Nhờ lòng yêu mến này, họ đã vượt qua mọi
trở ngại, sợ hãi, khó khăn … để dám đi ra mộ ngay từ sáng sớm ngày
thứ nhất trong tuần. Chính lòng nhiệt thành, Chúa hiện ra với các chị đầu tiên,
và các chị đã biết được Chúa đã phục sinh, và được Chúa sai đi loan báo tin
trọng đại cho các tông đồ và mọi người. Rõ ràng, các chị bây giờ trở thành nữ
tông đồ của các tông đồ. Điều đáng trân trọng, khâm phục và noi gương các chị
là các chị không thể giữ riêng cho mình, cũng không thể dửng dưng lạnh lùng
nhưng rất đỗi hân hoan muốn sẻ chia tin vui Phục Sinh cho mọi người.
Bạn thân mến,
Trong xã hội Do-thái, các phụ nữ
bị coi là thua kém, nhưng đối với Đức Giêsu, phụ nữ có một vai trò đặc biệt. Cô Ma-ri-a Mác-đa-la là người đầu tiên
được Đức Giêsu phục sinh trao cho sứ vụ loan báo tin vui: Chúa đã sống lại
thật! Sách Tin mừng thuật lại sau khi gặp Chúa phục sinh, cô Ma-ri-a Mác-đa-la
đã vội vã đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều
Người đã nói với bà (x. Ga 20,18). Cho đến hôm nay, sứ điệp phục sinh được công
bố bởi miệng lưỡi của một người phụ nữ đã “vang đến tận cùng” cõi đất. Lịch sử
Hội Thánh đã chứng minh: phụ nữ cũng có một vai trò quan trọng trong sứ vụ loan
báo Tin mừng cứu độ.
Nói đâu xa, người phụ nữ Công giáo Việt Nam cũng đã góp
công lớn trong công cuộc truyền giáo cho quê hương xứ sở mình. Hội Thánh Việt Nam
hôm nay là thành quả của biết bao công sức và máu đào của các giám mục, linh
mục, các thầy giảng và rất nhiều giáo dân nam nữ. Hội Thánh Việt Nam tự hào về
những người mẹ, người chị quả cảm, lòng tin kiên vững và lòng yêu mến sắt son;
tự hào vì đã có những người mẹ, người chị đã anh dũng đổ máu chẳng thua kém bậc
nam nhi, để làm cho hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái trên dải đất Việt Nam.
Chúng ta cùng nhìn lại những trang sử hào hùng mà các chị em
phụ nữ đã viết vào lịch sử công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
1. Nhiệt thành rao truyền đạo Chúa
Trong các công cuộc truyền giáo đầy gian nan và trắc trở,
các cha thừa sai Dòng Tên đã nhận được nhiều sự trợ giúp đắc lực và khéo léo
của các bà. Trong số đó, người ta phải kể đến bà Maria Minh Đức vương thái phi,
cô của chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648). Bà Maria Minh Đức lãnh nhận Phép Rửa
năm 1624 do cha De Pina, lúc đó bà đã ngoài 76 tuổi. Nhà nguyện của bà được kể
như là Hội Thánh tại gia của giáo đoàn vùng kinh đô.
Năm 1640, cha Đắc Lộ trở lại Việt Nam. Hay tin chúa Nguyễn Phúc Lan
muốn buôn bán với người Bồ, nên cha Đắc Lộ đem lễ vật lên vương phủ Kim Long,
xin yết kiến nhà vua. Cha được tiếp đón niềm nở. Khi nghe biết cha Đắc Lộ tới
kinh đô, bà Maria Minh Đức đã cho người mời cha đến dinh thự của bà. Lợi dụng
cơ hội này, cha đã ở lại nhà nguyện của bà Maria Minh Đức để gặp giáo dân vùng
kinh đô. Suốt ngày đêm, các tín hữu kéo nhau đến gặp cha để lãnh các bí tích.
Họ sốt sắng tham dự Thánh Lễ. Cha đã cử hành Tuần Thánh năm đó tại nhà nguyện
của bà Minh Đức. Trong lễ phục sinh, cha đã làm phép Rửa cho ba bà thuộc hoàng
tộc và một thầy sãi. Cả bốn người đều là do hoạt động tông đồ của bà Minh Đức. Trong những lần trở lại Việt Nam sau
đó, nhà nguyện của bà Maria Minh Đức luôn là cứ điểm truyền giáo an toàn của
cha Đắc Lộ trong thời bách hại đạo.
Bên cạnh bà Maria Minh Đức, còn có nhiều bà khác nữa cũng
nhiệt thành với việc truyền rao Đạo thánh Chúa. Các bà đã vận dụng sự khéo léo
của nữ tính, biết tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi nơi và mọi thời thuận tiện để rao
truyền Đạo Chúa cho những người thân cận, đồng bào lương giáo. Cụ thể, có bà
quả phụ đô trấn Thăng Long, tên thánh là Gioanna. Từ khi quan đô trấn qua đời,
thì bà được gọi vào trông coi các cung nữ trong vương phủ. Nhân thời thuận tiện
này, bà đã khuyên bảo được nhiều cung nữ, vương phi tin theo đạo Chúa, trong số
này có hai vương phi của hoàng tử đã mất và một nàng hầu. Thế rồi, cả bốn bà
hợp lực truyền giáo cho các vương phi, cung nữ trong vương phủ. Có một bà khác,
tên thánh là Saola, được chúa Trịnh tin dùng vào việc nấu ăn dọn bữa. Vì là
người có đạo, nên vua rất tín nhiệm và an tâm về những bữa ăn bà dọn. Nhiều lần
vua muốn bà lập lại các bài giảng của các linh mục ở nhà thờ, và bà đã sử dụng
cơ hội thuận tiện này để nói cho vua biết về đạo Chúa.
Một đời sống tốt lành, những công việc bình thường của người
phụ nữ như nấu cơm, dọn bữa, những cuộc nói chuyện, những hy sinh thầm lặng,
v.v. tất cả đều có thể trở nên những phương thế truyền giáo hữu hiệu của người
phụ nữ Công giáo Việt Nam.
2. Nhiệt thành tuyên xưng đức tin
Hội Thánh Việt Nam luôn tự hào vì đã có nhiều
chứng nhân đức tin là nữ tín hữu. Sử sách còn để lại những câu chuyện thật cảm
động về cuộc tuyên xưng đức tin anh hùng của họ. Các bà mẹ, các chị em đã tỏ ra
can đảm phi thường, chấp nhận mọi đau khổ và nhục nhã để một lòng trung thành
với đạo thánh Chúa. Cụ thể, một bà mẹ Công giáo can đảm phi thường, chẳng thua
kém các bậc nam nhi, đó là bà thánh Anê Lê Thị Thành, tục gọi là bà thánh Đê.
Bà sinh khoảng năm 1781, tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, Thanh Hoá, sau theo
mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, Ninh Bình. Năm 17 tuổi, cô Lê Thị Thành kết hôn
với anh Nguyễn Văn Nhất, người cùng làng. Họ sống với nhau hạnh phúc và sinh
được sáu người con, người con cả tên là Đê. Bà Đê là một người con dâu hiếu
thảo, một người vợ hiền thục đảm đang và là một người mẹ rất mực yêu thương con
cái. Bà nuôi nấng, dạy dỗ con cái lớn khôn, một lòng sống trung thành với đạo
thánh Chúa.
Dưới thời Thiệu Trị, cuộc bách hại đạo ngày càng quyết liệt.
Vì kính trọng và quý mến các cha, bà Đê đã không ngần ngại giúp đỡ và che dấu
các ngài. Bà dành một khu nhà đặc biệt để các ngài trú ẩn. Chính đức ái đó đã
dẫn bà Đê đến phúc tử đạo. Ngày 14 tháng 4 năm 1841, vào sáng sớm ngày lễ phục
sinh, bà đã bị bắt cùng với cha Galy Lý và một số giáo dân khác.
Trong thời gian bị giam giữ, lính tráng
đánh đập bà tàn nhẫn, toàn thân bà bầm tím máu. Tuy là phận nữ yếu đuối, nhưng
bà đã tỏ ra can đảm cách phi thường, không nao núng, vui vẻ chấp nhận những cực
hình tra tấn. Khi chồng đến thăm, bà giải thích vì sao bà được kiên tâm như
vậy: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến
độ đàn ông cũng chẳng chịu nổi, nhưng tôi đã được ơn Đức Mẹ giúp sức nên tôi ít
cảm thấy đau đớn”. Con gái vào tù thăm mẹ, khóc lóc khi thấy thân
thể bà bầm tím máu, áo bê bết loang lổ vết máu, bà hài hước an ủi: “Con đừng khóc mẹ nữa, mẹ mặc áo hoa hồng thắm đỏ,
sao con khóc?” Bà coi những vết máu như vòng hoa khoác lên cổ người
chiến sĩ thắng trận khải hoàn. Rồi bà nói với cô: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo anh chị em con săn sóc việc nhà, vững tâm
giữ đạo, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh giá Chúa đến
cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên đàng”.
Vì bị những cực hình tra tấn và phải chịu đói chịu khát, nên
bà đã kiệt sức và chết rũ tù ngày 12 tháng 7 năm 1841, sau ba tháng bị giam cầm
vì đức tin, thọ 60 tuổi. Đức Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong bà Anê Lê Thị Thành
lên bậc chân phước ngày 2 tháng 5 năm 1909.
Bên cạnh bà thánh Đê, còn có nhiều bà mẹ, nhiều chị em phụ
nữ khác nữa, tuy không được lãnh phúc tử đạo, nhưng cũng đầy cam đảm và chí khí
vì đã tin tưởng yểm trợ tinh thần cho cha, cho chồng, cho con trong cuộc tuyên
xưng đức tin cao đẹp. Trong các cuộc bách hại đạo, quan quân thường bắt tất cả
đàn ông trong làng có đạo, giam vào một nơi, rồi sai lính bắt vợ con đưa ra uy
hiếp, phải khuyên dụ các ông chối đạo, nhưng các bà, các chị đã làm điều ngược
lại: khuyên nhủ chồng con trung thành với Chúa cho đến cùng. Xin kể ra đây một
vài chứng tích:
-
Con gái ông Lý Mỹ 12
tuổi, trốn mẹ vào thù thăm cha, cô thưa với cha: “Xin cha cam đảm chết vì Chúa”. Còn bà Mỹ thì nói trong tiếng
nghẹn ngào: “Vợ con ai mà chẳng thương
tiếc, nhưng ông hãy hy sinh vác thánh giá rất nặng vì Chúa. Hãy trung thành đến
cùng, đừng lo nghĩ đến mẹ con tôi. Thiên Chúa sẽ quan phòng tất cả”.
-
Bà mẹ của Jaccard Phan, khi
nghe tin con chịu chết vì đức tin, đã reo lên: “Thật là tin vui, gia đình ta có một vị tử đạo”. Bà nói
tiếp: “Xin chúc tụng Chúa, tôi sẽ buồn biết
bao, nếu con tôi chịu khuất phục trước gian khổ và cực hình”.
-
Bà mẹ của binh sĩ Anrê Trông
đã theo gương “Nữ Vương các thánh tử đạo”. Bà có mặt trong cuộc hành quyết để
dâng hiến người con trai duy nhất. Bà đi bên cạnh con, không than khóc, không
buồn rầu, bà động viên khuyên dủ con trung tín với Chúa đến cùng. Khi đầu của
vị tử đạo rơi xuống, bà mạnh dạn tiến vào pháp trường và nói với quan: “Đây là con tôi, xin các ông trả lại cái đầu nó cho
tôi”. Rồi bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp của người con trai yêu
quý, rồi đem về an táng trong vườn nhà.
Tuyệt vời những bà mẹ Công giáo Việt Nam! Hình ảnh
Đức Trinh nữ Maria đứng kề bên thánh giá ngời sáng nơi các mẹ, các chị. Chắc
hẳn, khi các vị tử đạo chịu muôn cực hình đau khổ bao nhiêu, thì trái tim của
các mẹ, các chị cũng ngập muôn nỗi khổ đau bấy nhiêu. Trong cuộc tuyên xưng đức
tin cao đẹp của các vị tử đạo, những người phụ nữ Công giáo Việt Nam
cũng đã dự phần vào phúc tử đạo của các chứng nhân đức tin.
3. Nhiệt thành hoạt động tông đồ
Trong khi các linh mục truyền giáo bị cấm hoạt động, thì hầu
hết các họ đạo có thể đứng vững được trong thử thách, phần lớn là nhờ hoạt động
tông đồ của một số giáo dân, trong đó nữ giới giữ vai trò đáng kể.
Ở Phú Yên, bà phu nhân quan phủ, có tên thánh là Maria
Madalena, đã lập một bệnh xá để giúp đỡ các bệnh nhân nghèo không phân biệt
lương hay giáo. Người dân trong vùng đều cảm phục tấm lòng và công việc của bà,
và đã có nhiều người tin vào đạo Chúa.
Nhiệt thành với việc mở mang Nước Chúa và lo phần rỗi các
linh hồn, các dì phước, các bà đỡ tìm mọi cách rửa tội cho trẻ em bệnh nặng
chết yểu. Họ thăm nom, săn sóc, nuôi nấng, thuốc men và tổ chức an táng. Nếu
các em sống sót, thì các bà dạy giáo lý và nghề nghiệp cho đến khi tự lập. Qua
các mùa dịch bệnh, nhiều gia đình Công giáo khá giả đã quảng đại nhận nuôi các
trẻ em của các gia đình ngoại giáo nghèo hoặc mồ côi để rửa tội cho chúng.
Có thể nói, những hoạt động tông đồ xuất phát từ đức ái,
lòng tận tuỵ và sự hy sinh của người phụ nữ Công giáo Việt Nam trong thời
truyền giáo đã để lại những dấu ấn khó phai mờ trên mảnh đất và con người Việt
Nam. Quả thực, sống đức ái là phương thế truyền giáo hữu hiệu nhất, như Đức
Giêsu đã nói: “ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là
anh em có lòng yêu mến nhau." (Ga 13,35).
Kết luận
Nhìn lại những trang sử truyền giáo ở các nước đặc biệt tại
Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa rằng người phụ nữ đã góp
phần to lớn vào công cuộc loan báo và chứng tá Tin Mừng. Công khó của các mẹ,
các chị chẳng thua kém các giám mục, linh mục, thầy giảng, các vị tử đạo nam
giới. Nói thế không phải để so sánh hơn kém giữa phái nam và phái nữ, nhưng để
thấy rằng trong Đức Kitô, thì không còn chuyện phân biệt đàn ông hay đàn bà,
tất cả đều là những bộ phận trong cùng một thân thể nhiệm mầu Giêsu Kitô; tất
cả liên đới và hiệp thông với nhau trong đức tin và lòng yêu mến.
Vậy, đối với mỗi người chúng ta hôm nay, dẫu là giáo dân hay
giáo sĩ, người nam hay người nữ, tất cả đều phải đảm nhận trách nhiệm đối với
toàn thân thể là Hội Thánh, mỗi người một cách, tùy ơn gọi và khả năng Chúa
ban, như thánh Phaolô nói: “Chính Đức Kitô đã ban ơn cho kẻ này làm tông đồ,
người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin mừng, kẻ khác nữa làm
người coi sóc và dạy dỗ, nhờ đó các tín hữu được trang bị để làm công việc phục
vụ là xây dựng thân thể Đức Kitô...” (Ep 4, 11-12). Vì vậy, trong buổi đọc kinh
Lậy Nữ Vương Thiên Đàng trưa thứ hai tuần Bát Nhật Phục Sinh 21-4-2014, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi mọi người giãi tỏa ánh sáng Tin Mừng Phục Sinh
trong cung cách sống thường ngày, có nghĩa rằng hãy đem một “tia ánh sáng” của
Chúa Phục Sinh tới các hoàn cảnh khác nhau của con người: trong các hoàn cảnh
của cuộc sống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét