Bạn thân mến,
Nhà tâm lý học người Mỹ, Spencer Johnson nói: "Đừng băng qua cuộc sống
quá nhanh, hãy thường xuyên nhìn lại mình và điều chỉnh. Biết thay đổi khi cần
chấp nhận mạo hiểm và đừng bao giờ từ bỏ niềm tin và ước mơ".[1]
Qủa vậy, mỗi người chúng ta ai ai cũng có một niềm tin. Niềm tin ấy có thể là rất
thô sơ hoặc kỳ cục nhưng nó vẫn là cái gì đó rất linh thiêng trong cuộc đời. Niềm
tin ấy ăn sâu vào trong tâm thức của mỗi người, trong phong hóa của từng dân tộc,
từng tôn giáo đến nỗi người ta không thể chối bỏ nó. Thực vậy, người Việt Nam
cho rằng "vạn vật linh ư", tức người ta tin trong tất cả mọi sự có sự
hiện diện của bậc linh anh, đó có thể là những vị thần mà con người không sao
biết được. "Thần đi lại trên khắp nẽo
đường hoặc xuôi theo giòng sông. Thần ẩn dưới nước sâu, dưới vực thẳm hiểm hóc.
Thần ở trên đèo cao của dãy trường sơn hoặc ở trong rừng sâu cây cao bóng cả là
nơi ngự của thần, một số muông thú có thể là quyền lực của thần. Thần thể hiện
qua những sự vật đơn sơ, rất thông thường như tiếng gà gáy, chuột rúc, cú kêu,
như ánh lửa chập chờn trong đêm tối.... Thần ở khắp nơi trong thiên nhiên... Thần
tham dự vào cuộc sống của con người và ảnh hưởng trên số phận của con người. Thần
gắn bó với chúng ta khi còn là bào thai cho đến lúc chết".[2]
Vậy niềm tin của người Việt nam có nét giống với đức tin của Kitô giáo nhưng một
đàng là tin tưởng vào thực tại cụ thể để tiến tới một thực tại mà người ta không
thấy được, đàng khác tin tưởng vào chân lý đã mạc khải thấy rò ràng, sờ mó được.
Đức Tin Kitô giáo không những đạt được Đấng Thánh mà còn được Đấng Thánh là Thiên
Chúa chiếm hữu (Ga 17, 21-23). Như thế, đức tin là gì? Chúng ta phải làm gì để
có đức tin và làm gì để đức tin được tồn tại cho tới khi Chúa tái lâm? Nếu tới
lúc đó chúng ta mất đưc tin thì sao, còn thì được gì?...
Khác
với mọi tôn giáo, yếu tính của Ki-tô giáo là đức tin, căn bản là Kinh Tin Kính.
Theo Cha Arialdo Beni, "Đức tin là sự
gặp gỡ với Đấng hiện hữu mời gọi là lôi kéo. Đức tin là đặt mình trước Thiên Chúa
như trước một nhân vật nào đó và nhờ ơn Chúa nhận biết Người như Đấng chờ đợi
chúng ta".[3] Hội Thánh công giáo dạy: "Đức tin là sự đáp trả thích đáng của con người
trước lời mời gọi của Thiên Chúa".[4]
Thiên Chúa mời gọi con người đến "cùng
Chúa Cha, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời
nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và đến để thông phần bản tính của Thiên Chúa".[5]
Còn hạnh phúc gì bằng! Chính Thiên Chúa đã đi bước trước đến với con người và mạc
khải "chương trình yêu thương" sau khi con người sa ngã (St 3,15). Người
hằng trung thành với chương trình ấy qua mọi thời dù con người bất trung, bất tín.[6]
Và đến thời sau hết, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài qua Thánh tử Giê-su (Dt
1,2) ngõ hầu làm cho loài người trở nên nghĩa tử trong Con Một của Người (Ep 1,4-5).
Như vậy, "bằng cách mạc khải chính mình,
Thiên Chúa muốn giúp cho con người có khả năng đáp trả Lời Người, nhận biết và
yêu thương Người vượt trên những gì họ có thể làm được tự sức của mình".[7] Đức tin là hồng ân Chúa ban nhưng không (Cv
11,21; 1Cr 12,3). "Đức tin mà con người
đáp lại Thiên Chúa phải tự nguyện. Do đó, không ai bắt ép phải chấp nhận đức
tin trái với ý muốn. Thiên Chúa mời gọi con người phục vụ Người trong tinh thần
và trong chân lý; con người có bổn phận vâng theo lương tâm đáp trả lời mọi gọi
ấy, nhưng không bị cưỡng ép".[8]
Chúa Giê-su đã nói: "Nếu anh muốn vào
cõi sống… " (Mt 19,17) hay "Nếu
anh muốn nên hoàn thiện… " (Mt 19,21).
Để có được đức tin, chúng ta cần phải
có ân sủng của Chúa, sẵn sàng chấp nhận mạc khải Thiên Chúa và tin vào Lời Người.[9] Chúng ta nhận được đức tin qua Hội Thánh.[10] Tin vào Thiên Chúa là "tin cây, phó thác, hiến thân và bỏ mình hoàn
toàn cho Người như trẻ thơ nằm trong cánh tay người mẹ và để cho mẹ hoàn toàn
muốn đưa đến đâu thi đi".[11] Như thế, chúng ta phải làm gì để duy trì và sống
mãi?
Con
người đáp trả lời tình yêu của Thiên Chúa bằng một niềm tin vững vàng, một lòng
mến sắc son và lòng cậy trông phó thác toàn vẹn cho Thiên Chúa. Niềm tin ấy trở
nên một giao ước, một giấy hôn thú thông hiệp tình yêu sống động giữa con người
và Thiên Chúa, và dĩ nhiên nó trở thành một cuộc sống mới có 'mầm' sống trong
cuộc sống vĩnh cửu (Ga 11,25-26)[12].
Vì thế, đức tin là một bảo chứng để được cứu độ (Mc 16,16) và đạt được hạnh phúc
Nước Trời (Mt 25,34). Vậy, sau khi lãnh nhận Phép Rửa Tội, chúng ta phải duy trì
và ngày càng làm cho đời sống đức tin trưởng thành bằng cách:
Thứ nhất, chúng ta cần phải siêng năng lãnh nhận
các Bí tích đặc biệt là Bí tích Thánh Thể và giao hoà ngõ hầu vừa gia tăng ân sủng
vừa tăng nhân đức phú bẩm[13].
Bí tích Thánh Thể là của ăn thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin (Ga 6,53), giúp chúng
ta xa lánh tội lỗi[14]
vì tội lỗi là căn nguyên dễ làm mai mọt hoặc có thể mất đức tin. Bí tích Thánh
Thể làm cho đời sống đức tin trở nên sống động qua việc sống hiệp nhất và thi hành
bác ái[15].
Ngược lại nếu ta có đức tin nhưng không thi hành những gì đức tin chỉ vẻ, đức tin ấy sẽ chết hoàn toàn (Gc 2,17).
Bí tích hoà giải một mặt củng cố niềm
tin của chúng ta một mặt hàn gắn dây đức tin giữa chúng ta với Thiên Chúa, với
tha nhân do tội lỗi làm đứt[16].
Đặc biệt Bí tích giao hoà làm cho đức tin của chúng ta thêm sức sức sống mãnh
liệt hơn vì từ cõi chết bước vào cõi sống và khỏi bị xét xử (Ga 5,24). Cho nên,
chểnh mãn trong việc đến với Bí tích hoà giải hay từ chối Bí tích này là những
nguyên nhân làm cho đức tin của chúng ta mai mọ hoặc mất hẳn.
Thứ hai, để duy trì sức sống của đức
tin, chúng ta phải siêng năng học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, vì Lời Chúa là
Chúa Ki-tô Thánh Thể đến thăm viếng và trò chuyện với chúng ta, "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ ở
giữa chúng ta" (Ga 1,14). Lời Chúa ban sức mạnh thiêng liêng cho đức
tin (Lc 17,5-6), là lương thực nuôi dưỡng và duy trì đức tin[17].
Cho nên, trước hết phải lấy Lời Chúa làm luật tối thượng chi phối mọi lời nói,
tư tưởng và hành động của chúng ta trong cuộc sống, "dầu hèn mọn và bị người ta khinh dể, huấn lệnh Ngài con chẳng dám quên"
(Tv 119,141), vì "con cảm thấy Lời
Ngài đã hứa ngọt ngào hơn mật ong trong miệng. Con thành người sáng suốt nhờ huấn
lệnh Ngài ban, nên con ghét mọi đường nẽo gian tà" (Tv 119,103-104).
Thứ đến, hãy lấy Lời Chúa làm ánh sáng soi từng bước đường đức tin của chúng ta
vì Lời Chúa là chân lý (Tv 119,142) là áng sáng (Tv 119,105). Vì vậy, tin vào Lời
Chúa chúng ta sẽ không đi trong bóng tối nhưng được ánh sáng soi chiếu ngõ hầu
nhờ áng sáng đem lại cho chúng ta sức sống (Ga 8,12). Sau cùng, hãy lấy Lời Chúa
làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn thường ngày của chúng ta vì "người ta sống không chỉ bới nhờ cơm bánh, nhưng
còn nhờ nọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4).
Trong cuộc sống hiện đại và tân tiến,
thú vui khoái lạc, tiền tài và danh vọng có sức hút rất mạnh đến nỗi làm cho tâm
trí con người chỉ biết hướng đến cái bên ngoài, không cần cái bên trong. Chính
thực trạng này làm cho đời sống đức tin của con người với Chân lý mạc khải bị
chao đảo và có nguy cơ suy tàn lụi. Cụ thể, ngày nay người ta dường như nghe Lời
Chúa như nghe một câu chuyện, hiểu cũng được mà không hiểu cũng chẳng sao. Họ
chẳng tha thiết gì với việc tuân giữ hay thi hành Lời ấy. Thậm chí khi gặp gian
nan thử thách, họ dễ dàng chối bỏ Lời Chúa, họ không nhận ra rằng "được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào
có ích gì hoặc lấy gì mà đổi mạng sống mình?" (Mt 16,26). Tóm lại, chỉ
có "Lời Chúa mới ban sức sức cho con
cái Giáo hội, là lương thực nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền
và trường cửu cho con cái Giáo hội".[18]
Cuối cùng, đức tin của chúng ta có tồn
tại được hay không còn phải nhờ sự tỉnh thức và cầu nguyện (1Tx 5,17). Con đường
sống đức tin dù lúc được dâng đầy hay gặp gian nan khốn khó, chúng ta hãy luôn
nhớ đến Chúa vì "thời giờ của người
tín hữu là thời giờ của Chúa Giê-su phục sinh, Đấng đang ở với chúng ta mỗi ngày
(Mt 28,20).[19] Cầu nguyện là nhu cầu sống còn của đức tin. Nếu
trong cuộc sống chúng ta ít khi tỉnh thức hay không cầu nguyện, đức tin của chúng
ta sẽ bị chết yểu hoặc chết đời đời.[20]
Chúng ta phải luôn đề phòng, canh chừng
và bảo vệ đức tin luôn hầu lúc Chúa đến Chúa sẽ nhìn thấy chúng còn đứng vững
trước mặt Người và Người sẽ dẫn chúng ta vào cõi sống bên Ngài (Lc 21,28).
"Đức tin là khởi điểm của cuộc sống
mới, đức tin cho ta nếm trước niềm hoan lạc và áng sáng của ơn phúc nhìn thấy
Thiên Chúa, mục đích của cuộc sống lữ hành dưới thế này của chúng ta".[21]
Để có được như thế, Chúa đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ quyết liệt và dứt khoát mọi
của cải trần gian (Mt 19,21), bỏ cả người thân, thậm chí bỏ chính mình rồi vác
thập giá mỗi ngày theo Chúa (Lc 9,23). Lời kêu gọi ấy luôn dầy xé con tim, ý chí
và lòng tin của chúng ta, liệu chúng ta có theo Chúa nỗi chăng hay có còn vững
tin vào Lời Chúa chăng? Chúng ta có vâng phục trong đức tin để rồi cho phó toàn
thân và tự do cho Thiên Chúa? Mọi người trong chúng ta ai biết được ngày giờ Chúa
đến (Mt 25,13), cho nên từng phút từng giờ chúng ta phải lo sửa soạn "đèn
dầu" đức tin của mình cho đầy đủ và sẵn sàng để Chúa đến dẫn chúng ta vào
dự tiệc Nước Chúa (Mt 25,1-12), nơi đó Thiên Chúa sẽ yêu thương ấp ủ chúng ta vì
Người là Thiên Chúa của chúng ta; nơi đó sẽ chẳng còn khổ đau, tang tóc hay hận
thù chiến tranh nữa (Kh 21,3-4).
Như
vậy, hãy bám chặt những cách thế trên, chúng ta chắc chắn đạt được niềm tin nơi
Thiên Chúa dù nó nhỏ nhoi (Lc 17,6) nhưng với ơn Chúa, một đàng sẽ thấy được tình
yêu Thiên Chúa thể hiện nơi cuộc đời chúng ta từ thể xác (Lc 8,40-48) đến tinh
thần (Lc 7,36-50), đàng khác Thiên Chúa cho chúng ta tham dự vào sự sống vĩnh hằng
của Thiên Chúa (Ga 11,41).
Có thể nói rằng đức tin là đôi cánh mà
Thiên Chúa chắp cho chúng ta bay thẳng tới bến bờ yêu thương và hạnh phúc vĩnh
hằng. Vì thế, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II xác tín rằng "Chân lý của
Thiên Chúa được trình bày cho chúng ta trong Thánh Kinh, được hiểu một cách lành
mạnh theo giáo huấn của Giáo hội, thì thường hưởng sự minh bạch có hữu với sự mạch
lạc luân lý, xứng với kiến thức chân chính mà nó tự giới thiệu".[22]
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải tránh những môi trường có nguy cơ hại đến đức
tin, tránh dịp tội làm cớ bào mòn hoặc mất đức tin. Đặc biệt chúng nên tránh tất
cả những gì chẳng những không giúp cho đức tin mình trưởng thành mà còn gây
nguy hiểm cho đức tin của tha nhân.
Bản chất của đức tin là một hành vi tự
ý[23],
Thiên Chúa tôn trọng tự do con người (Mt 19,17). Vì thế trong cuộc sống hôm nay
vẫn có nhiều người mặc nhiên từ chối không tin Thiên Chúa, hoặc có nhiều người
dùng tự do của mình quá mức đến nỗi đánh mất đức tin. Là dân Thiên Chúa, chúng
ta phải làm gì để giúp họ lấy lại đức tin hoặc có cùng một niềm tin như chúng
ta hầu khi Chúa đến Chúa nhìn thấy mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ đều phủ phục, thờ
lạy Ngài là Thiên Chúa duy nhất của họ (Kh 5,9-10). Đối với những người mất đức
tin, chúng ta hãy hướng dẫn, chỉ dạy và giúp họ nhận biết tầm quan trọng và sự
cần thiết của đức tin: mất đức tin là mất ơn cứu độ (Mt 16,26), mất ơn cứu độ là
mất Thiên Chúa và mất chính mình vì chỉ trong Thiên Chúa con người mới có thể tìm
gặp được mình và hoàn tất mình.[24]
Bên cạnh đó, chúng ta phải cầu nguyện, an ủi, yêu thương chăm sóc họ vì họ là
con cái của Chúa và Chúa sẽ cứu họ (Mt 9,13). Còn đối với những ai chưa tin, không
tin, chúng ta phải có bổn phận thông truyền Tình Yêu Thiên Chúa bằng chính đời
sống của mình ngõ hầu họ nhìn thấy mà tin thật Chúa đang hiện diện trong chúng
ta ( ); trình bày Chân lý Mạc khải và
giáo lý của Giáo hội trong sự thật trọn vẹn cho họ bằng nhiều phương cách, vì
"vô tri bất mộ" mà bất mộ nên họ bất tin. Nếu "họ không tin vào Thiên Chúa là Đấng hoạt động
trong thế giới, họ sẽ không biết thế giới và những biến cố của lịch sử. Chỉ có đức
tin làm cho cái nhìn bên trong được sắc xảo,và giúp cho trí tuệ khám phá ra sự
hiện diện sinh động của Đáng An bài trong diễn tiến của các biến cố".[25]
Điều đáng chú ý rằng "chúng ta không
ép họ phải nhận đức tin mà không có tự do vì việc đón nhận Thiên Chúa mạc khải
chỉ có ý nghiã nếu như nó là một hành động tự do".[26]
"Tự đáy lòng, con người khao khát Thiên Chúa vì con người được tạo dựng
do Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với
mình, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc mà họ
không ngừng tìm kiếm".[27]
Con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa và mạc khải của Ngài bằng lý trí và đức
tin[28].
Lý trí và đức tin đều là hồng ân Thiên Chúa ban[29],
cho nên chúng ta phải tự nỗ lực cùng với ơn Chúa để duy trì ân huệ cao quý này.
Chỉ cần một chút lòng tin thôi cũng đủ để Thiên Chúa thực hiện mọi điều kỳ diệu
trong cuộc sống, vì "mọi sự đều có thể với Thiên Chúa" (Mc 10,27). Quảng
đường đức tin của mỗi người dài ngắn chẳng ai biết được, vì thế chúng ta phải tỉnh
thức cầu nguyện luôn với Thiên Chúa để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta biết tránh những
"hoa thơm cỏ lạ" quyến rũ chúng ta dễ làm cho chúng ta nãn chí không
muốn gặp Chúa và thậm chí chối bỏ Ngài. Đừng vì thành công hay thất bại trong đời
sống thường ngày cũng như đời sống đức tin mà chúng ta bỏ quên Chúa. Trong mọi
nơi mọi lúc chúng ta hãy tin thác, cậy trông, yêu mến và kính sợ Thiên Chúa để
rồi mạnh dạng thưa với Chúa như thánh Phê-rô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết
theo ai, chỉ có Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68).
[1] Spencer
Johnson, Một phút nhìn lại, 2003, trg
86
[2] Lm.
L.Cadière, Về văn hoá tín ngưỡng truyền
thống người Việt, dịch giả Đỗ Trinh Huệ, Hội khoa học lịch sử Viện Nam, NXB
Văn hoá thông tin Hà Nội, 1997.
[3] Thủ bản Thần học căn bản, Đại Chủng Viện
Huế, 2006, trg 33.
[4] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 42.
[5] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 153.
[6] Kinh Nguyện Tạ Ơn IV.
[7] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 52.
[8] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 160.
[9] Verbum Dei, số 5.
[10] LG, số 11.
[11] Thủ bản Thần
học căn bản, Đại Chủng Viện Huế, 2006, trg 34.
[12] Thủ bản Thần
học căn bản, Đại Chủng Viện Huế, 2006, trg 35.
[13] Thủ bản Thần
học căn bản, Đại Chủng Viện Huế, 2006, trg 41.
[14] Giáo lý Hội
Thánh Công Giáo, số 1393.
[15] Giáo lý Hội
Thánh Công Giáo, số 1397-1398.
[16] Giáo lý Hội
Thánh Công Giáo, số 1468-1469.
[17] Verbum Dei, số 21.
[18] Verbum Dei, số 21.
[19] Giáo lý Hội
Thánh Công Giáo, số 2743.
[20] Giáo lý Hội
Thánh Công Giáo, số 2744.
[21] Giáo lý Hội
Thánh Công Giáo, số 163.
[22] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điêp Đức tin và lý trí, 1988, số 66.
[23] Verbum Dei, số 5.
[24] GS 21,1.
[25] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điêp Đức tin và lý trí, 1988, số 99.
[26] Thủ bản Thần
học căn bản, Đại Chủng Viện Huế, 2006, trg 131.
[27] Giáo lý Hội
Thánh Công Giáo, số 27.
[28] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điêp Đức tin và lý trí, 1988, số 15-16.
[29] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điêp Đức tin và lý trí, 1988, số 43.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét