Thưa Cha, Lời dạy của Chúa Giêsu có
gì khác so với các bậc tiền nhân trong lịch sử? Xin Cha giúp con, con cám
ơn Cha.
Con thân mến,
Trong câu hỏi của con có khá nhiều vấn
đề chúng ta cần so sánh: (1)con người của người dạy, (2) cách người đó dạy, (3)
nội dung người ấy dạy, (4) uy quyền của người dạy, và (5) hiệu quả việc thi
hành lời người đó dạy.
Thứ nhất, chúng ta cùng xem con người
của người dạy. Các bậc tiền nhân trong lịch sử ở đây chúng ta hiểu đó là các
bậc hiền triết như: Khổng Tử, Lão Tử hay Triết gia Aristote, tổ tiên ông bà…
Còn các Ngôn Sứ, các thánh thì chúng ta không bàn tới vì các ngài khác nữa.
Vậy, các bậc tiền nhân là những con người bình thường nhưng tri thức của các
ngài uyên bác, thâm sâu đồng thời rất giàu kinh nghiệm trong cuộc sống nê họ
đưa ra những lời dạy chí lý. Xét về mặt tâm linh, các ngài quả thật là hiền
lành nhưng chưa thánh vì các ngài vẫn có tội và phạm tội. Còn Chúa Giêsu, Ngài
là con người bình thường giống như các bậc tiền như: khôn ngoan, đầy nhân đức
và từng trải nghiệm cuộc sống, “Ðức Giêsu, càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân
nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 52);
nhưng Ngài còn là Thiên Chúa làm người giống chúng ta mọi đàng trừ tội lỗi (Pl
2,6-7), Ngài là cội nguồn của sự sống, của khôn ngoan và mọi nhân đức, “Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn
Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết” (Kn 6,13).
Thứ
hai, các bậc tiền nhân dạy người bằng sách vỡ, bằng kiến thức khoa học thực
nghiệm hay bằng kinh nghiệm. Chẳng hạn, Lão Tử dạy quân tử trong phép xử thế
rằng “Bậc thượng thiện giống như nước,
nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh, ở chỗ nào mà người ta không
ghét, nên gần với đạo. Ở thì hay lựa chỗ thấp; lòng thì chịu chỗ thâm sâu, xứ
thế thích dùng đến lòng nhân. Vì vậy, hãy lấy nhu thắng cương, nhược thắng
cường. Lấy cường xử hạ, nhu nhược thắng xử thượng” (Đạo Đức Kinh, chương
66. và 76). Hay
Aristote dạy nếu muốn biết việc gì đúng thì phải dựa trên phép tam đoạn luận: “1. Mọi người đều chết. (đại tiền đề) 2.
Socrates là người. (tiểu tiền đề) Do đó, Socrate cũng chết. (kết luận)” Còn Chúa Giêsu, Ngài thường dùng
dụ ngôn và dùng hành động cụ thể để dạy chúng ta. Tại sao Ngài dùng dụ ngôn bởi
vì Chúa Giêsu muốn không chỉ mạc khải về Nước Trời mà còn dạy phương thế để đạt
được Nước Trời ấy. Mà Nước Trời một
thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả
được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác
này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy,
tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể
thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách
diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Thực tế hơn, Ngài đã cùng chính hành động, những phép mầu, điềm thiêng, dầu lạ
(Cv 2,22) để dạy chúng ta phương thế tốt nhất, gần nhất và chắc chắn nhất để
đạt tới Nước Trời và Nước Trời đang hiện diện nơi Người. Chẳng hạn, để dạy đức
tính khiêm nhường và phục vụ: “Trước lễ
Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với
Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người
yêu thương họ đến cùng. Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn
Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su.3 Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã
giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về
cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài
ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân
cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn
Phê-rô, ông liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con
sao? "Đức Giê-su trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu,
nhưng sau này anh sẽ hiểu." Ông Phê-rô lại thưa: "Thầy mà rửa chân
cho con, không đời nào con chịu đâu! " Đức Giê-su đáp: "Nếu Thầy
không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy." Ông Si-môn
Phê-rô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay
và đầu con nữa." Đức Giê-su bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần
phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng
không phải tất cả đâu! " Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới
nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch". Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su
mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em
không? Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải
lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn
rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương
cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. Thật, Thầy bảo thật
anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai
đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh
em! Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã
chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ
bánh lại giơ gót đạp con. Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi
sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. Thật, Thầy
bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón
tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy" (Ga 13,12-20). Tóm lại, kèm
theo lời dạy, Chúa Giêsu làm những hành động, những
Thứ ba,
chúng ta xét đến nội dung của người dạy. Nội dung dạy của các tiền nhân rất đa
dạng và phong phú nhưng nội dung ấy giúp con người trưởng thành nhân cách và
kiến thức thôi. Như vậy, nội dung giảng dạy của các bậc tiền nhân chưa thấm sâu
bên trong, bền vững và chắc chắn. Cái gì làm cho chúng ta nên hoàn thiện và
sống dồi dào mãi mãi muôn đời, đó chính lời dạy của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu “là con đường, là sự thật và là
sự sống” (Ga 14,6). Cho nên, “Ai tin và làm theo Lời Chúa dạy là và Lời Ngài là
được đón nhận vào Nước Chúa”. Như vậy, nội dung lời dạy của Chúa Giêsu là chân
lý, lời hằng sống chứ không phải là những kiến thức hay những chữ chết. Nội
dung này giúp chúng ta trưởng thành cả nhân cách lẫn tâm linh, tức là không chỉ
giúp ta sống thánh thiện ngay đời này mà đạt đời sống vĩnh hằng nữa. Vì thế,
Công Đồng Vaticanô II khẳng định rằng “Sau
khi phán dạy nhiều lần, nhiều cách qua các Tiên Tri, "nay là thời cuối
cùng, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Chúa Con" (Dth 1,1-2). Thực vậy,
Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Ðấng sáng soi mọi người, đến sống
giữa loài người và nói cho họ nghe những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa. Bởi
vậy, Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể "là người đã được sai đến với loài
người" , "nói tiếng nói của Thiên Chúa" (Gio 3,34) và hoàn thành
công trình cứu rỗi của Chúa Cha đã giao phó cho Ngài thực hiện. Vì thế, chính
Ngài, Ðấng mà ai thấy, tức là thấy Chúa Cha, đã đến bổ túc và hoàn tất mạc
khải, bằng tất cả sự hiện diện và tỏ mình qua lời nói cũng như việc làm, dấu
chỉ và phép lạ, nhất là qua cái chết và sự sống lại vinh quang từ kẻ chết, sau
cùng bằng việc phái Thần Chân Lý đến, bằng chứng tích của một Thiên Chúa, Ngài
xác nhận Thiên Chúa hằng ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội
lỗi và sự chết, rồi phục sinh chúng ta để được sống đời đời” (Hiến Chế Tín
Lý về Mạc Khải của Thiên Chúa, số 4).
Thứ
tư là vấn đề uy quyền của lời dạy. Lời dạy của các bậc tiền nhân có sức biến
đổi nhưng chưa trọn vẹn, có uy quyền nhưng chưa mạnh mẽ vì chưng thế giá của
các ngài không cao trọng bằng Chúa Giêsu. Chúa Giêsu thật sự hoàn hảo, tốt
lành, thánh thiện, vô tội và là Thiên Chúa nữa. Đương nhiên, lời dạy của Ngài
đầy uy quyền. Qủa thế, mọi người sống trong thời Ngài cũng công nhận điều đó, “Người xuống Ca-phác-na-um, một thành miền
Ga-li-lê, và ngày sa-bát, Người giảng dạy dân chúng. Họ sửng sốt về cách Người
giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền” (Lc 4,31-32). Chẳng hạn, một người
bất toại đã lâu năm, nay chỉ mong có thể cử động đi lại. Khi gặp gỡ Chúa và
Chúa phán một lời ông đã trở nên khoẻ
mạnh, không chỉ đi lại được như mọi người, mà ông còn vác chõng mà đi, trước sự
kinh ngạc của mọi người (x. Mc 2,3-12). Rồi, một người mù từ bẩm sinh, chỉ ước
mong con mắt mình sáng để được nhìn thấy mọi người và mọi vật xung quanh. Chúa
cũng nói một lời anh không chỉ sáng con mắt thể xác, mà còn sáng cả con mắt tâm
hồn. Anh được Ngài soi lòng mở trí để hiều biết những điều cao siêu. Những suy
tư về sự thánh thiện và tội lỗi của người mù vừa được chữa lành, xem ra còn
khôn ngoan hơn cả những người biệt phái và luật sĩ (x. Ga 9,1-41). Và một phụ
nữ tội lỗi cả thành đều biết tiếng, qua cuộc gặp gỡ với Chúa, chị đã sám hối ăn
năn và trở nên con người mới nhờ Chúa nói một lời tội chị được tha (x. Lc
7,48). Đặc biệt, chỉ một Lời của Chúa Giêsu, người chết sống lại (Mc 5,41) và
cũng chỉ một lời của Chúa Giêsu mà anh trộm lành được lên thiên đàng cả hồn lẫn
xác (Lc 23,43).
Cuối cùng là hiệu quả của việc thi
hành lời dạy. Thi hành lời dạy của các tiền nhân nó giúp chúng trưởng thành con
người nhưng chưa toàn diện vì thiếu mặt tâm linh. Mà con người có hồn và xác,
có vật chất có tinh thần. Cho nên, “Người
ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán
ra" (Mt 4,4). Vì vậy, những ai nghe và thi hành lời của Chúa Giêsu dạy
không chỉ nên trọn lành, đầy nhân đức mà còn được sự sống đời đời nữa. "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:
"Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi
hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Vậy ai
nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây
nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp
đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra
thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước
cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành" (Mt
7,21-27).
Tóm
lại, các bậc tiền nhân là những người được Thiên Chúa sai đi trước Chúa Giêsu để
dạy dỗ, giúp chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta hầu chúng
ta sống đúng với những gì tốt đẹp Thiên Chúa ban cho ta khi ta làm người. Vì
chưng, Lời Chúa trong Thư Do thái khẳng định “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng
ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta
qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng
thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh
trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình
mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao
Cả trên trời. Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên
thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu” (Dt 1,1-4).
rất hợp lý và bổ ích
Trả lờiXóa