HỌC
THÁNH KINH CỰU ƯỚC
TỔNG
QUÁT VÀ NHỮNG ĐIỂM CHÍNH YẾU
Lời nói đầu
Căn bản của đời sống người Kitô hữu là học
và sống Lời Chúa (Thánh Kinh), vì Lời Chúa là lương thực và nguồn mạch của đời
sống đức tin của chúng ta. Cho nên, Sách giáo lý Hội Thánh dạy: “Việc nghiên cứu Thánh Kinh phải là như linh
hồn của khoa Thần học. Nhờ chính lời Thánh Kinh này, thừa vụ Lời Chúa, gồm có
việc giảng thuyết của các vị chủ chăn, việc dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn
Kitô giáo, trong đó bài diễn giảng trong phụng vụ phải chiếm ưu thế, được nuôi
dưỡng lành mạnh và tăng cường sinh lực thánh thiện” (số 132). Vì thế, Thánh
Vịnh gọi “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho
con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105). Nói cách cụ thể:
Thánh Kinh dẫn chúng ta đến gặp gỡ và sống với Thiên Chúa. Thánh Giê-rô-ni-mô
còn khẳng định: “Không biết Thánh Kinh là
không biết Chúa Ki-tô”. Mà không biết Chúa Kitô thì chúng ta không thể là
Kitô hữu, là người có Chúa Kitô được.
Với ước mong ấy,
chúng con dùng toàn bộ Sách “Đường về
Emmaus”, Thánh Kinh 100 Tuần, Đức Cha
Phêrô Nguyễn Khảm. Bên cảnh đó tham khảo phần dẫn nhập của Thánh Kinh Cựu Ước & Tân Ước, Nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ và Sách Chú giải Thánh Kinh Cựu Ước, tác giả
Am Roguet, xuất bản 1970 hầu giúp anh chị em học hỏi
tổng quát và những điểm chính yếu trong các Sách Cựu Ước.
Chúng
con xin phép Qúy Đức Cha và Qúy tác giả cho chúng con lấy lại phần đánh máy Thánh Kinh 100 Tuần từ trang Web giáo xứ Đức
Mẹ Hằng Cứu Giúp (http://dmhcg.org/CustomLinkModule/KT100Tuan.aspx#).
và
sắp xếp thứ tự các bài học lại có khác với bản gốc mong Qúy Đức Cha và Qúy tác
giả thông cảm và giúp đỡ chúng con. Chúng con xin chân thành cảm ơn Qúy Đức Cha
và Qúy tác giả. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và ban muôn ơn cho Qúy Đức Cha
và Qúy tác giả.
Lưu hành nội bộ
NHỮNG
ĐIỀU CẦN BIẾT
TRƯỚC KHI ĐỌC CỰU ƯỚC
I. NHÌN
BAO QUÁT
Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử để ban ơn cứu chuộc
cho loài người. Sự can thiệp đó giống như một vết dầu loang, bắt đầu tự một
người, một gia đình, một nòi giống, một dân tộc, rồi tràn lan ra khắp cả nhân
loại. Thiên Chúa đã kêu gọi Áp-ra-ham và hứa cho miêu duệ ông biến thành một
dân tộc lớn. Ngài đã ký giao ước với Mô-sê, và sai ông lãnh đạo việc giải phóng
con cái Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai-cập. Ngài đã thành lập nước Ít-ra-en quân
chủ với Đavít. Ngài đã sai các tiên tri giảng giáo và cải huấn khi họ phản bội
Ngài và bị Ngài để cho lâm vào cảnh lưu đày. Trong tất cả những biến thiên lịch
sử của Ít-ra-en, Ngài đã can thiệp và điều khiển một cách khôn ngoan và nhiệm mầu
để chuẩn bị lòng người Ít-ra-en và tất cả chư dân thiên hạ đón nhận Tin Mừng
"THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI" ban ơn cứu chuộc.
Tất cả những việc xảy ra trong giai đoạn chuẩn bị và
chờ đón Đức Kitô, đã được ghi chép trong phần đầu bộ Thánh Kinh. Đó là phần Cựu
Ước. Các sách thuộc pho Cựu Ước đã được biên soạn bằng nhiều thể văn khác nhau:
lịch sử, ngạn ngữ, thi ca và một lối văn riêng gọi là tiên tri… Nhưng tất cả
những sách đó đều nhằm kể lại cho chúng ta, những tư tưởng tôn giáo của dân tộc
đã được Thiên Chúa tuyển chọn, trải qua lịch sử của họ.
Cựu Ước có thể coi được như một viên ngọc muôn màu
sắc, sáng lạn xinh tươi. Chúng ta có thể nhìn ngắm từng khía cạnh để tìm hiểu
toàn thân. Trước tiên chúng ta hãy nhìn ngắm khía cạnh lịch sử… Cựu Ước thực là
pho sử tường thuật những quá trình của một bậc vĩ nhân, một gia đình, một nòi
giống và một dân tộc… Muốn khảo cứu lịch sử dân tộc đó, ta cần phải quan sát và
khảo học về khung cảnh địa lý, lịch sử chung của những dân tộc lân bang với họ.
Câu chuyện lịch sử này đã được ghi chép bằng một thứ văn tự riêng. Điều đó đòi
ta phải học hỏi về khung cảnh văn chương của bộ sách.
Thiên Chúa đã chọn dân tộc Ít-ra-en làm trung gian,
chứng kiến, để Ngài tự mặc khải và gia ơn cứu rỗi cho loài người. Thế nên trong
hết mọi chi tiết lịch sử Israel, Thiên
Chúa đã can thiệp và hướng dẫn tất cả mọi biến cố. Lịch sử ơn cứu chuộc, chính
là câu chuyện giữa Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc và con người, những người hy vọng
ơn cứu rỗi. Qua lịch sử Ít-ra-en, chúng ta cần nhận xét sự tiến triển của những
ý tưởng tôn giáo và luân lý của họ và của tất cả loài người. Với cái nhìn của
nhà thần học, chúng ta có thể nhằm vào ba khía cạnh:
- Lòng nhân hậu và sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Định mệnh, tội lỗi và trách nhiệm cá nhân của con
người.
- Ý định và chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã
đem ra thi thố cho loài người và sự kiện nhân loại mong chờ Đức Cứu thế.
Sau nữa, Giáo hội ngày nay là hiện thân của Ít-ra-en
lịch sử. Giáo hội chính là Ít-ra-en mới của Thiên Chúa. Tân ước là liên tục của
Cựu ước. Sự kiện đó khiến ta không ngừng mắt chiêm ngưỡng trong lịch sử Ít-ra-en,
những sử tích, những nhân vật khả dĩ được coi là tiêu biểu điển hình cho những
sự kiện ghi chép trong Cựu và Tân ước. Đan cử một thí dụ: Biến cố xuất hành hay
là cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ Ai Cập, đã được người Ít-ra-en nhìn
nhận như một sự kiện làm tiêu biểu cho việc họ được thoát ách lưu đầy Ba-by-lon.
Trong Tân ước, chúng ta thấy Đức Kitô và Thánh Phaolô đã coi việc xuất hành như
biến cố tiên báo và điển hình cho phép rửa và sự phục sinh. Đó là chúng ta tìm
hiểu ý nghĩa thiêng liêng của câu chuyện.
II. KHUNG CẢNH ĐỊA LÝ
Không cần mất giờ minh chứng, ai
cũng thấy rằng muốn am hiểu Thánh Kinh Cựu cũng như Tân ước, người ta phải biết
địa lý xứ Palestina. Renan đã có lý để coi việc am hiểu địa lý xứ Palestina như
là đọc một cuốn Phúc âm thứ năm. Thực vậy, Phúc âm là sử chuyện cũng như các
sách thuộc pho Cựu ước là sử chuyện… Đã là sử chuyện phải có những địa điểm làm
nơi diễn tiến lịch sử. Đối với lòng đạo đức, địa lý xứ Palestina cũng không vô
ích. Vì nếu nhờ khảo cổ học hay là có dịp quan sát tận nơi những địa điểm lịch
sử của Phúc âm, tất nhiên người ta cũng thêm lòng tin tưởng. Đối với Cựu ước,
địa lý xứ Palestina cũng không kém bề cần thiết. Cựu ước là lịch sử của một dân
tộc, cố nhiên có liên hệ mật thiết với địa lý hơn câu chuyện của một người. Sau
nữa, người ta có thể coi Cựu ước như là thứ tôn giáo được Thiên Chúa nâng đỡ
nhiều hơn bằng các ân thưởng và những hứa hẹn vật chất. Giáo lý trong Cựu ước,
nhất là trong sách Nhị luật, chứng tỏ Thiên Chúa thường hứa thưởng cho Ít-ra-en
"được thoát ách nô lệ ngoại bang,
được một miền đất tràn trề sữa và mật ong”(Đnl 11,9; Tv.37). Vì vậy, nếu
thông hiểu địa lý Palestina, khi đọc những bài ghi chép nhiều địa điểm, thí dụ
như Thánh vịnh 60, tất nhiên người ta cũng dễ hiểu hơn.
Trong thánh điện, Chúa
Trời tuyên phán: "Khấp khởi mừng, Ta
chia cắt Si-khem,Ta đo đạc cả đồng bằng Xúc-cốt. Ga-la-át về Ta, Mơ-na-se cũng
về Ta, Ta lấy Ép-ra-im làm mũ chiến đội đầu, lấy Giu-đa làm cây gậy chỉ huy.
Mô-áp là chậu Ta tắm rửa, Ê-đôm là chỗ Ta liệng giày, đánh bại Phi-li-tinh, Ta
reo mừng thắng trận"(Tv 60,8-10).
Chương trình học hỏi Thánh Kinh của
chúng ta quá ngắn ngủi, nên chúng ta không đủ giờ để học hỏi sâu hơn địa lý
Palestina. Chúng ta chỉ học tổng quát toàn bộ Thánh Kinh Cựu ước gồm 46 cuốn.
NGŨ THƯ – NĂM CUỐN SÁCH
ĐẦU TIÊN CỦA THÁNH KINH
Đây là
dẫn nhập cho năm quyển sách đầu tiên của Cựu Ước gồm: sách Sáng thế, sách Xuất
hành, sách Lê-vi, sách Dân số và sách Đệ nhị luật. Nó cho chúng ta một cái nhìn
tổng quan về bộ Ngũ Thư, sự kết nối với nhau giữa năm quyển sách; đồng thời
chúng ta thấy rõ được lịch sử hình thành dân tộc Ít-ra-en, dân riêng của Thiên Chúa.
I. Ngũ Thư là gì?
Chữ “Ngũ Thư” bởi tiếng Hy lạp
là pentateuchos, gồm hai phần: Phần thứ
nhất là Penta nghĩa là “số 5”, phần thứ hai
là teuchos nghĩa là “cuộc giấy, tập sách”. Do đó, chữ pentateuchos có thể dịch là “5 cuộn giấy”, hay “5 tập sách”. Người ta dùng từ “Ngũ Thư” để gọi năm quyển đầu
tiên trong bộ Thánh Kinh, đó là sách Sáng thế, Xuất hành, Lê-vi, Dân số và Đệ
nhị luật. Riêng người Do thái gọi bộ Ngũ Thư là Torah, nghĩa là Luật.
II. Nội dung của bộ Ngũ Thư
Ngũ Thư là một câu chuyện diễn tiến liên
tục về lịch sử của một dân tộc và một đất nước, đó là Ít-ra-en, dân riêng của Thiên Chúa. Qua dân tộc này,
Thiên Chúa thực hiện kế hoạch yêu thương cho toàn thể nhân loại. Diễn tiến câu
chuyện như sau:
1. Sách Sáng thế
Sau những chương đầu
tường thuật về nguồn gốc loài người và vũ trụ, sách Sáng Thế tập trung vào gia
đình Áp-ra-ham, một người có đức tin mạnh mẽ, được Chúa chọn để khởi đầu cho
dân tộc mới, kế hoạch mới. Nối tiếp Áp-ra-ham, sách kể lại những câu chuyện về
con cháu của ông, đó là I-xa-ác, Gia-cóp, Giu-se… Cuối sách, gia đình Áp-ra-ham
trở nên một “gia
tộc”
đông đúc nhưng phải sống nơi đất khách quê người, đó là Ai cập.
2. Sách Xuất hành
Trải qua gần 400 năm, con cháu Áp-ra-ham
ngày càng đông, tạo nên sự nguy hiểm cho vua Ai cập. Cho nên, họ bị các vua này
đàn áp. Trong hoàn cảnh đó, Thiên Chúa dùng Mô-sê để giải phóng dân Ít-ra-en ra
khỏi nô lệ Ai cập và dẫn đưa họ về Đất Hứa. Sách Xuất hành tường thuật hai biến
cố vĩ đại của Thiên Chúa, đó là cuộc giải phóng dân và ký kết giao ước với dân
tại núi Si-nai. Qua giao ước này, Chúa nhận Ít-ra-en là dân riêng của Người.
Người sẽ bảo vệ họ với điều kiện là họ tuân giữ các giới răn Người ban trên hai
bia đá. Ít-ra-en trở thành một “dân tộc”.
3. Sách Lê-vi
Thiên Chúa là Đấng
Thánh thì Ít-ra-en, dân của Người cũng phải là dân thánh. Sách Lê-vi tập trung
vào việc thờ phượng, những quy định, luật lệ. Đó là những cách thức giúp cho
dân Ít-ra-en thật sự là dân thánh của Chúa.
4. Sách Dân Số
Sách Dân Số thuật lại
việc dân Ít-ra-en chuẩn bị vào Đất Hứa. Mặc dù gần kề Đất Hứa, nhưng dân Ít-ra-en
luôn phạm tội. Cho nên, Thiên Chúa cần thanh luyện dân qua hành trình 40 năm
trong sa mạc, để có một thế hệ mới xứng đáng hơn. Ngoài tường thuật về hành
trình trong sa mạc, sách này cũng thuật lại những chỉ dẫn cần thiết của Chúa
dành cho dân khi họ vào Đất Hứa.
5. Sách Đệ nhị luật
Sách Đệ nhị luật ghi
lại những lời nhắc nhở của Mô-sê dành cho dân Ít-ra-en về sự công bình và lòng
trung thành của Chúa trong quá khứ và ông cũng nói đến những thách thức của họ
trong tương lai. Sau các diễn từ, Mô-sê chúc phúc cho dân, trao quyền hướng dẫn
dân cho Giô-suê và ông đã từ trần.
CUỐN
SÁCH 1
SÁCH SÁNG THẾ (St)
I. TỔNG QUÁT VỀ SÁCH SÁNG THẾ
Cuốn sách đầu tiên trong Ngũ thư và trong toàn bộ
Thánh Kinh. Trong tiếng Hipri, sách này mang tên là Khởi Nguyên. Sách Sáng Thế
được hình thành từng đoạn trong nhiều thế kỷ. Mãi đến thế kỷ thứ 5 TCN, nó mới
được hình thành vĩnh viễn, khi dân Do thái từ đất lưu đày Ba-by-lon trở về đã
đem theo niềm tin của mình viết thành văn tự, một áng văn để đời (Dẫn nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước,
Giờ Kinh Phụng Vụ).
Ai đã
soạn Sách Sáng Thế? Không phải là một nhưng là nhiều tác giả. Đừng quên rằng
dân của Thánh Kinh đã được hình thành cách tiệm tiến, do nhiều bộ lạc du mục
tập hợp lại với nhau. Họ đều không biết chữ nhưng ấp ủ trong lòng những kỷ niệm
về ông bà tổ tiên của họ và những điềm thiêng dấu lạ mà Thiên Chúa đã thực hiện
cho họ: họ kể lại cho nhau nghe bằng lời, mọi sự đều là truyền khẩu (Dẫn nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước,
Giờ Kinh Phụng Vụ).
Sách
chia làm 3 phần: phần 1: Chương 1-11 bàn về những vấn đề vượt trên thời gian và
lịch sử: tạo dựng thế giới và con người, tội lỗi đột nhập trần gian, sự ác tràn
ngập… Cần vượt lên trên những hình ảnh cụ thể để nắm bắt nội dung tác giả muốn
chuyển tải. Vì không nắm vững điều này nên nhiều Kitô hữu đã cảm thấy hoang
mang khi đọc Thánh Kinh và đối chiếu với những khám phá khoa học hiện đại. Phần
2: Chương 12-36 và Phần 3: Chương 37-50 trình bày lịch sử các tổ phụ dân Ít-ra-en.
Chương |
Chương |
1.
Thiên Chúa sáng tạo trời đất |
26. Ông I-xa-ác tại Gơ-ra - Những giếng nước
giữa Gơ-ra và Bơ-e Se-va - Giao ước với vua A-vi-me-léc - Các bà vợ người Khết
của ông Ê-xau |
2.
Vườn địa đàng. Thử thách. |
27.
Ông Gia-cóp đoạt lời chúc phúc của ông I-xa-ác - Ông I-xa-ác sai ông Gia-cóp
đến nhà ông La-ban |
3.
Sa ngã |
28.
Ông Ê-xau lấy vợ lần nữa - Giấc mộng của ông Gia-cóp |
4.
Ca-in và A-ben - Dòng dõi ông Ca-in |
29.
Gia-cóp đến nhà ông La-ban - Ông Gia-cóp lấy hai vợ - Các con ông Gia-cóp |
5. Các tổ phụ trước Hồng Thuỷ - Loài người
sa đoạ - Chuẩn bị |
30.
Ông Gia-cóp làm giàu |
6.
Con trai Thiên Chúa và con gái loài người. Loài người sa đoạ - Chuẩn bị |
31.
Ông Gia-cóp trốn đi - Ông La-ban đuổi theo ông Gia-cóp |
7. Lụt Hồng Thủy |
32.
Ông Gia-cóp chuẩn bị gặp ông Ê-xau - Vật lộn với Thiên Chúa |
8.
Nước rút - Ra khỏi tàu |
33.
Ông Gia-cóp gặp ông Ê-xau - Ông Gia-cóp và ông Ê-xau chia tay - Ông Gia-cóp
đi Si-khem |
9. Trật tự mới của thế giới - Ông Nô-ê và
các con |
34. Cô Đi-na bị làm nhục - Thoả thuận về hôn
nhân với dân thành Si-khem - Ông Si-mê-ôn và ông Lê-vi bội ước và báo thù |
10.
Các dân trên mặt đất |
35. Ông Gia-cóp tại Bết Ên - Ông Ben-gia-min
chào đời. Bà Ra-khen từ trần - Ông Rưu-vên loạn luân - Ông I-xa-ác qua đời |
11.
Tháp Ba-ben - Các tổ phụ sau Hồng Thuỷ - Dòng dõi ông Te-ra |
36. Ông Ê-xau tại Ê-đôm - Ông Ê-xau di cư -
Dòng dõi ông Ê-xau tại Xê-ia |
12.
Thiên Chúa gọi ông Áp-ram - Ông Áp-ram ở bên Ai-cập |
37.
Ông Giu-se và các anh - Ông Giu-se bị các anh bán |
13.
Ông Áp-ram và ông Lót chia tay |
38.
Ông Giu-đa và bà Ta-ma |
14.
Cuộc viễn chinh của bốn vua - Ông Men-ki-xê-đê |
39.
Thời đầu của ông Giu-se bên Ai-cập - Ông Giu-se bị quyến rũ - Ông Giu-se vào
tù |
15.
Lời hứa và giao ước của Thiên Chúa |
40. Ông Giu-se giải mộng cho các quan của
Pha-ra-ô |
16.
Ông Ít-ma-ên chào đời |
41.
Các giấc chiêm bao của Pha-ra-ô - Ông Giu-se làm quan - Các con ông Giu-se |
17.
Giao ước và phép cắt bì |
42.
Ông Giu-se gặp các anh lần đầu tiên - Các con ông Gia-cóp trở về xứ Ca-na-an |
18.
Thiên Chúa hiện ra tại Mam-rê - Ông Áp-ra-ham can thiệp cho thành Xơ-đôm |
43.
Các con ông Gia-cóp đem Ben-gia-min đi theo - Cuộc gặp gỡ tại nhà ông Giu-se |
19.
Thành Xơ-đôm bị phá huỷ - Nguồn gốc người Mô-áp và người Am-mon |
44.
Chén bạc của ông Giu-se trong bao của ông Ben-gia-min - Ông Giu-đa can thiệp |
20.
Ông Áp-ra-ham tại Gơ-ra |
45. Ông Giu-se tỏ cho anh em nhận ra mình -
Pha-ra-ô mời gia đình ông Gia-cóp sang Ai-cập - Anh em ông Giu-se trở về đất
Ca-na-an |
21.
Ông I-xa-ác chào đời - Ha-ga và Ít-ma-ên bị đuổi |
46. Ông Gia-cóp lên đường đi Ai-cập - Gia
đình ông Gia-cóp - Ông Giu-se đón tiếp cha |
22.
Ông Áp-ra-ham dâng I-xa-ác làm lễ tế - Dòng dõi ông Na-kho |
47. Vào chầu Pha-ra-ô - Chính sách điền địa
của ông Giu-se - Những lời trối trăng của ông
Gia-cóp |
23. Mồ mả của các tổ phụ |
48.
Ông Gia-cóp nhận hai người con ông Giu-se làm con và chúc phúc cho chúng |
24.
Ông I-xa-ác lấy bà Rê-bê-ca |
49.
Những lời chúc phúc của ông Gia-cóp - Ông Gia-cóp qua đời |
25.
Dòng dõi bà Cơ-tu-ra - Ông Áp-ra-ham qua đời - Dòng dõi ông Ít-ma-ên - Ông
Ê-xau và ông Gia-cóp chào đời - Ông Ê-xau nhượng quyền trưởng nam |
50.
Đám tang ông Gia-cóp - Từ khi ông Gia-cóp qua đời đến khi ông Giu-se qua đời |
II. Phần
I: CHƯƠNG 1-11
1. Tổng
quát
Chương
1-11 cố đưa ra dây chuyền nối kết những đoạn thời gian khổng lồ kéo dài từ lúc
khởi đầu công trình sáng tạo cho đến “các tổ phụ tiên khởi trong đức tin” mà ai
nấy đều ghi nhớ tên tuổi, và người đi đầu dĩ nhiên là ông Áp-ra-ham.
2. Chương
1-2: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người
Về việc Thiên Chúa tạo dựng
vũ trụ và con người, trong sách Sáng Thế có hai trình thuật. Trình thuật I (1,1
– 2,4a) là trình thuật của truyền thống P (Priesterkedex – tư tế), do các tư tế
biên soạn trong thời lưu đày ở Babylon. Trình thuật II (2,4b – 5,32) ) là trình
thuật của truyền thống J (Jave – Giavê), cổ xưa hơn và cụ thể, sống động hơn
khi trình bày Thiên Chúa gần gũi con người, trò chuyện với con người.
a. Công trình tạo dựng vũ trụ
Câu đầu tiên (1,1) mô tả
trước khi có hành động tạo dựng của Thiên Chúa, thế giới là một khối hỗn mang.
Rồi “ngọn gió của Thiên Chúa” bắt đầu hoạt động trên khối hỗn mang đó. Thiên
Chúa tạo dựng mọi sự bằng Lời quyền năng của Người (1,3). Hành động tạo dựng của
Thiên Chúa được trình bày trong khuôn khổ sáu ngày:
Ngày 1: Ánh sáng
Ngày 2: Bầu trời, tách biệt
nước ở trên vòm và nước dưới vòm
Ngày 3: Đất và thảo mộc
Ngày 4: Các chòm sáng trên
bầu trời
Ngày 5: Chim muông và cá
Ngày 6: Các loài động vật
và con người
b. Con người
Con
người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Đây là định nghĩa tuyệt vời
và súc tích nhất về con người. Giải thích thần học thường nhấn mạnh rằng con
người là hình ảnh Thiên Chúa nên có linh hồn. Tuy nhiên, cách nhìn của Thánh
Kinh không mang tính phân biệt xác-hồn. Đúng hơn, hình ảnh ở đây nói lên chức
năng của con người là đại diện của Thiên Chúa trên trái đất. Cũng như Thiên
Chúa là Đấng cai quản bầu trời, thì con người là đại diện của Người được trao
trách nhiệm cai quản trái đất (1,26). Vì con người là hình ảnh Thiên Chúa nên
những gì nói về Thiên Chúa đều có liên hệ đến ta, vd. mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Đồng thời con người có thể nói về Thiên Chúa khởi đi từ kinh nghiệm nhân loại
của mình, dĩ nhiên là rất giới hạn. Từ ngữ chuyên môn gọi là loại suy. Chúa
Giêsu chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đến nỗi ai thấy Ngài là thấy
Chúa Cha; do đó Ngài chính là khuôn mẫu cho ta để sống trọn nhân tính của mình.
Con người có nam có nữ (1,28; 2,18-24), bình đẳng với nhau và bổ túc cho nhau.
Đây là một tầm nhìn rất mới trong bối cảnh thời đại xa xưa. Vì con người được
Thiên Chúa tạo dựng có nam, có nữ, nên những tình trạng như sự bất bình đẳng
nam nữ hoặc chủ trương xoá tan sự độc đáo của mỗi giới đều không phù hợp ý muốn
của Đấng Tạo hoá. Chiều kích xã hội của con người cũng được thể hiện ngay từ
đầu, với căn bản là gia đình (2,18). Nền tảng gia đình được thiết lập. Chính
Thiên Chúa liên kết hai người nam nữ nên một để họ bổ túc cho nhau và sinh sản
con cái. Con người làm chủ trái đất (1,28; 2,19): con người được giao quyền làm
chủ với tư cách là quản lý và là người cộng tác vào chương trình tạo dựng của
Thiên Chúa.
c. Ngày sabát (2,2-3), dấu ấn của
truyền thống P
Ngày
sabát được liên kết với việc Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Trong tuần
tạo dựng, Thiên Chúa đã có tám hành động tạo dựng, nhưng tám hành động này lại
được xếp vào khuôn khổ sáu ngày (ngày thứ ba và thứ sáu, mỗi ngày có hai hành
động). Mục đích là để làm nổi bật ý nghĩa của ngày sabát. Luật giữ ngày sabát
được công bố trong sách Xuất Hành (20,8) nhưng ở đây đã được liên kết với thuở
đầu tạo dựng, nghĩa là với trật tự tạo dựng của Thiên Chúa ngay từ đầu.
3. Chương 3 – 5
a. Tội của Adam
và Eva (2,25 – 3,7)
a.1. Con rắn
Trong
bản văn, không có chỗ nào con rắn được đồng hoá với thần dữ. Việc đồng hoá chỉ
diễn ra sau này vào thế kỷ I (Kn 2,24). Ở Canaan, rắn có liên hệ mật thiết với
việc thờ phượng sự sung túc phì nhiêu, cũng là cám dỗ thường xuyên cho dân Ít-ra-en
khi họ định cư ở đất Canaan. Vì thế đây là lời cảnh giác hãy tránh xa những
việc thờ quấy này. Rắn ở đây cũng không liên hệ gì đến con rắn đồng trong sách
Xuất hành. Sự kiện rắn đồng trong sách Xuất hành cho thấy Thiên Chúa có thể “dĩ
độc trị độc!” Và Chúa Giêsu chấp nhận cái chết để ban tặng sự sống. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con
Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được
sống muôn đời” (Ga 3,14-15).
a.2. Ý nghĩa cám dỗ
Chiến
thuật của mọi cám dỗ là chỉ nói một nửa sự thật: (1) các ngươi sẽ không chết,
(2) mắt các ngươi sẽ mở ra, (3) các ngươi sẽ được giống như Thiên Chúa. Thực tế
là sau khi ăn trái cấm, con người đã không chết nhưng lại không sống mãi, đã mở
mắt ra để chỉ thấy mình trần truồng, và đã giống như Thiên Chúa biết thiện ác
nhưng chỉ là cái biết giới hạn. Đây cũng là chiến thuật Satan áp dụng khi cám
dỗ Chúa Giêsu (x. Mt 4, 1-11). Và cả ngày nay, với chúng ta.
Cây
biết thiện ác (2,17): Ý nghĩa sâu xa của hình ảnh và trình thuật này là chỉ một
mình Thiên Chúa – với sự toàn tri và khôn ngoan của Người – mới biết rõ ranh
giới thiện ác và tốt xấu. Con người không thể tự mình xác định vì tầm nhìn giới
hạn của phận người nên chỉ thấy được một phần nhỏ. Vì thế, phải biết trân trọng
Lời Chúa về cây biết thiện ác (2,17) thì mới đến được cây trường sinh (3,22).
Đây là bài học rất lớn cho con người hôm nay, nhất là trong lãnh vực luân lý.
Quỷ cám dỗ bằng cách gây nghi ngờ, từ đó chối từ và vứt bỏ Lời Chúa. Vì thế cần
phải tuyệt đối tin tưởng vào Lời Chúa như Chúa Giêsu khi đối diện với những cám
dỗ trong sa mạc.
a. 3. Hậu quả của tội
Hậu
quả lập tức của tội lỗi là con người nhận ra sự trần trụi của mình và họ tìm
cách che đậy sự trần trụi đó (3,7). Khi Đức Chúa lên tiếng hỏi “Ngươi ở đâu?”
con người đưa ra lý do lẩn tránh Thiên Chúa, “bởi vì tôi trần trụi.” Thực ra
con người không trần truồng vì đã lấy lá vả che thân, nhưng con người nhận ra
mình trần trụi vì tương quan giữa họ với Thiên Chúa đã bị bẻ gẫy. Bẻ gẫy tương
quan với Chúa, tội lỗi cũng phá hỏng những mối tương quan căn bản trong cuộc
sống con người: đánh mất sự thống nhất nơi chính bản thân; tương quan vợ chồng
biến thành tương quan thống trị và thèm khát thay vì yêu thương phục vụ; tương
quan với tha nhân (anh em trong nhà, người ngoài) được dệt bằng dối trá, sợ
hãi, đối đầu; cả tương quan với thế giới cũng trở nên khó khăn vì chính thiên
nhiên tàn phá con người. Tất cả những điều này sẽ được trình bày trong những
chương kế tiếp.
b. Cain và Abel (4,1-16)
Câu
truyện về Cain và Abel được nối kết cách lỏng lẻo với câu truyện trước đó về
con người sa ngã. Một số học giả cho rằng đây là câu truyện hoàn toàn độc lập
nhưng được tác giả sách Sáng Thế liên kết với câu truyện trước nhằm mục đích
riêng của ông. Câu truyện này giả thiết lúc đó đã có các dân khác (St 4,14:
“bất cứ ai gặp con sẽ giết con”); xã hội đã có tổ chức trong đó có những ngành
nghề khác nhau, và một nền thờ phượng cũng đã bắt đầu phát triển. Mối quan tâm
của tác giả là nhấn mạnh đến tội lỗi và hậu quả của nó chứ không nhằm những chi
tiết khác, do đó khiến ta có những thắc mắc, vd. tại sao Chúa không nhận lễ vật
của Cain. Có giả thuyết cho rằng câu truyện này muốn trình bày sự tranh chấp
giữa các dân có nền văn hoá và ngành nghề khác nhau, cụ thể là giữa lối sống du
mục và nông nghiệp. Cũng có giả thuyết khác cho rằng đây là cách nói về nguồn
gốc của bộ tộc Kenites, mang tattoo trên trán và sống tách biệt các bộ tộc
khác. Bộ tộc này cũng thờ phượng Thiên Chúa nhưng chưa bao giờ là thành viên
của dân Ít-ra-en. Thiết nghĩ ý tưởng chính của câu truyện là lòng con người đã
nghiêng về điều xấu. Từ tội lỗi của những con người đầu tiên, nhân loại tiếp
tục xa rời Thiên Chúa, chìm sâu trong tội đến nỗi Thiên Chúa đã lấy làm tiếc vì
tạo dựng loài người (6,6). Chính vì tội lỗi nhân loại tràn lan như thế nên cuối
cùng Thiên Chúa đã tuyển chọn một dân để từ dân đó, toàn thể nhân loại giao hoà
với Thiên Chúa. Đó là nội dung sẽ được trình bày từ chương 12 trở về sau.
4. Chương 5-11
Có sự giống nhau giữa
trình thuật này và một truyện thần thoại của Babylon (Gilgamesh Epic), theo đó
hội đồng các thần linh quyết định hủy diệt nhân loại. Ea là thần khôn ngoan
hiện ra với Utnapishtim và báo cho biết tai hoạ sắp tới, đồng thời dạy phải làm
tầu để cứu cả nhà. Utnapshtim làm tầu rồi đem gia đình và cả thú vật lên tầu.
Các thần cho cơn bão hoành hành nhưng rồi chính các thần linh cũng không kiểm
soát nổi cơn bão, và phải run sợ ẩn nấp trên trời. Khi bão tan, Utnapishtim thả
những cánh chim ra để xem xét tình hình. Khi vừa lên bờ, họ dâng lễ tạ ơn thần
linh và được các thần thưởng cho sự bất tử. Tuy nhiên giữa truyện thần thoại
này và trình thuật Thánh Kinh có những khác biệt căn bản. Trong trình thuật
sách Sáng Thế, không hề có bóng dáng đa thần. Thiên Chúa và chỉ một mình Người
mà thôi điều khiển tất cả và không có chuyện cơn bão lụt vượt ra ngoài sự kiểm
soát của Thiên Chúa. Cơn lụt được trình bày rõ ràng là hình phạt của tội, và
sau cơn lụt, Noê bước vào giao ước với Thiên Chúa chứ không để hưởng sự bất tử.
Bản
văn cũng nói đến cuộc hôn nhân giữa con trai Thiên Chúa và con gái loài người
(6,1-4). Ở đây có âm vang của các chuyện thần thoại mang dáng dấp đa thần. Tác
giả Thánh Kinh vận dụng câu truyện này để dẫn vào chuyện lụt hồng thủy như hình
phạt tội lỗi, tội lỗi đã lan rộng đến độ vượt qua cả ranh giới giữa đất và
trời! Ý nghĩa này được nhấn mạnh
hơn nữa trong 6,5-8; 8,21-22 với ghi nhận rằng “Lòng con người toan tính điều
xấu”. Trong văn hoá Hípri, trái tim (lòng) trước hết không phải là trung tâm
tình cảm nhưng là nguồn tri thức và ý muốn. Do đó, điều nhấn mạnh ở đây là toàn
bộ suy tư và đời sống con người đã ra xấu xa. Trình thuật này đã được vận dụng vào trong đời sống của Hội Thánh cách
phong phú. Nước trong Lụt hồng
thủy được coi như hình bóng của bí tích Thánh tẩy. Cũng như nước hồng thủy vừa
hủy diệt nhân loại tội lỗi vừa tác sinh nhân loại mới, thì nước Thánh Tẩy cũng
tha thứ tội lỗi và biến đổi chúng ta thành những con người mới. Con tầu Noê cũng được xem là hình bóng về Hội
Thánh. Con tầu Noê được làm mà không có bánh lái, như thế giống như một Đền thờ
hơn là con tầu Hình ảnh này diễn tả về Hội Thánh hoàn toàn ở trong tay Thiên
Chúa (7,17). Noê cũng là hình
ảnh loan báo Chúa Kitô, Đấng là Đầu nhân loại mới được canh tân trong Chúa Kitô
nhờ bí tích Thánh Tẩy. Noê đã dâng lên Thiên Chúa hiến lễ đẹp lòng Người, và
Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước bao gồm cả nhân loại (8,21). Giao ước này
loan báo giao ước tối hậu trong Chúa Kitô.
b. Các dân tộc trên thế giới (10,1 – 11,27)
b.1. Bản danh sách các dân tộc (10,1 – 11,27)
Ý nghĩa thần học của bản
danh sách này là sự thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa trong St 1,28: “Hãy sinh sôi nảy nở đầy mặt đất”. Ít-ra-en
là một trong số các dân, và việc Thiên Chúa tuyển chọn họ không phát xuất từ
những ưu điểm của họ nhưng hoàn toàn do lòng từ ái của Thiên Chúa mà thôi.
b.2.Tháp
Babel (11,1-9)
Tháp Babel biểu tượng cho
giấc mơ rồ dại của con người muốn xây dựng một thế giới vắng bóng Thiên Chúa.
Sau này, trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ quy tụ và hiệp nhất các dân
nước khác nhau trong cùng một ngôn ngữ.
III. PHẦN II: CHƯƠNG
12-36
1. Tổng quát
Phần này gợi lên hình ảnh của các thị tộc du mục
lúc ấy đã tin vào một Thiên Chúa gần gũi và cứu giúp họ, “Thiên Chúa của cha
ông” họ. Các câu chuyện này xảy ra trên đất Ca-na-an, vào thời kỳ dân Ít-ra-en
chưa khai sinh (giữa Tk XVIII và XV TCN). Nó cho thấy Thiên Chúa đã dùng lời hứa
với ông Áp-ra-ham và ông Gia-cóp mà chuẩn bị công trình cứu độ của Người (Dẫn nhập
Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).
2. Chương 12-19
St
11,28 – 36,43 là những trình thuật về các tổ phụ, bắt đầu với tổ phụ Áp-ra-ham.
Chủ đề xuyên suốt các trình thuật này là lời hứa của Thiên Chúa và việc thưc
hiện lời hứa đó trong lịch sử.
a. Tiếng gọi và lời đáp trả của Áp-ram (11,28
– 12,9)
a. 1. Tiếng gọi
của Thiên Chúa
Áp-ram
và Áp-ra-ham là những cách gọi khác của cùng một tên, cũng như Xa-rai và Xa-ra.
Sự thay đổi trong cách gọi bắt đầu diễn ra từ St 17,5.15 để làm nổi bật mối
quan hệ mới của Áp-ra-ham với Thiên Chúa sau khi ký kết giao ước. Sau khi trình
bày lịch sử nguyên thủy của toàn nhân loại, tác giả sách Sáng Thế bắt đầu tập
trung vào một con người, từ con người này sẽ hình thành một gia đình, sau đó là
một dân tộc. Việc tuyển chọn Áp-ram vẫn là một huyền nhiệm, hoàn toàn do sáng
kiến của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa sẽ làm cho Áp-ram thành một dân lớn (12,2).
Để được như thế, Áp-ram cần có hậu duệ và đất đai. Yếu tố cuối cùng trong lời
hứa của Thiên Chúa là nhờ Áp-ram, “mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc
phúc”(12,3). Điều này có nghĩa là Áp-ram, và sau này Ít-ra-en, được coi như
trung gian của những phúc lành Thiên Chúa ban cho thế giới (Hc 44,21).
a.2. Lời đáp trả của Áp-ram
Bản
văn không cung cấp chi tiết gì về phản ứng của Áp-ram trước lời đề nghị của Thiên Chúa, cũng không cho biết lý do
tại sao ông vâng phục. Bản văn chỉ ghi nhận vắn tắt, “Áp-ram ra đi như Đức Chúa đã phán với ông” (12,4). Hàm nghĩa ở đây
là niềm tin không tra vấn và sự vâng phục tuyệt đối của tổ phụ Áp-ram. Chủ đề đức tin là chủ đề quan
trọng sẽ được nhắc đến nhiều lần trong trình thuật về tổ phụ Áp-ra-ham. Thánh
Phaolô đã mô tả đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham bằng những lời lẽ tuyệt vời, “Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến
một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết
mình đi đâu” (Dt 11,8). Ra đi mà không biết mình đi đâu! Đức tin không chỉ
là dùng lý trí để chấp nhận một số chân lý hoặc mệnh đề đức tin, nhưng là vâng
nghe tiếng Chúa và phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa đến nỗi ra đi mà không cần
biết mình đi đâu, chỉ cần biết là đi với Chúa và đi theo Chúa, thế là đủ. Tổ
phụ Áp-ra-ham mãi mãi là mẫu mực cho đời sống đức tin của mọi tín hữu.
b. Giao ước với Áp-ra-ham (15,1-21)
Về
mặt chuyên môn, các học giả Thánh Kinh cho rằng trình thuật này là sự phối hợp
giữa hai nguồn văn P và J, nhưng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề này. Điều nên
quan tâm ở đây là nghi thức ký kết giao ước được mô tả trong các câu 9-11 và
17-20.
Nghi
thức ký kết giao ước cũng như ý nghĩa của nó được nhắc đến trong Giêrêmia
34,18. Những khám phá trong thế kỷ vừa qua cho thấy đây là cách phổ biến trong
vùng Cận Đông xưa. Xẻ đôi con vật và bước đi qua giữa con vật đã bị xẻ đôi là cách
kết nối và ràng buộc hai bên ký kết giao ước với nhau. Nếu họ không tuân giữ
những điều khoản của giao ước, họ sẽ bị nguyền rủa và phải chịu số phận như
những con vật bị xẻ đôi. Áp-ram chìm vào trong giấc ngủ sâu tức là trạng thái
ngưng hoạt động và bước vào tình trạng đón nhận mạc khải của Chúa. Nghi thức ký
kết được kết thúc bằng hình ảnh một lò lửa nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy
rực đi qua những con vật đã bị xẻ đôi. Lửa chính là dấu chỉ sự hiện diện của
Chúa. Chính Chúa đã có sáng kiến ký kết giao ước và Người tự “buộc” mình vào
giao ước đó. Những câu cuối cùng (18-21) xác định rõ vùng Đất Hứa, và những xác
định này phù hợp với lãnh thổ của vương quốc Đavít dưới thời Salomon.
Nghi
thức ký kết giao ước này giúp cho mỗi tín hữu ý thức lại giao ước mà mình đã ký
kết với Thiên Chúa và những đòi hỏi của nó. Điều quan trọng nhất là sự trung
tín. Về phía Thiên Chúa, Người luôn luôn trung thành với giao ước Người đã ký
kết, mặc cho những đổi thay từ phía con người. Nhưng bản thân ta có trung thành
với giao ước không, đó là điều mỗi Kitô hữu phải thường xuyên tự vấn và sám
hối.
c. Phá hủy thánh Xơ-đôm (19,1-29)
Trình
thuật này khẳng định thái độ không hiếu khách (vốn là đòi hỏi quan trọng trong
xã hội du mục) và sự bại hoại về luân lý tính dục là nguyên nhân chính dẫn đến
việc Thiên Chúa trừng phạt Xơ-đôm.
Ngày nay khi nghe kể rằng để giàn xếp mọi chuyện cho êm thắm, ông Lót đã đề
nghị đem hai trinh nữ ra cho người ta thoả mãn tuỳ thích... chúng ta không chịu
được! Nhưng vào thời đó, vấn đề lại không bị nhìn cách trầm trọng như thế. Hơn
nữa sự kiện này càng làm nổi bật sự vô luân và tội ác của dân Xơ-đôm, và như thế, hình phạt của Thiên
Chúa đã gần kề. Ông Lót được cảnh báo phải đưa cả gia đình đi tránh nạn. Bà vợ
ông đã bị biến thành tượng muối vì đã không tuân theo lời căn dặn của hai vị sứ
giả, “Đừng ngoái lại đằng sau”
(9,17).
Lề
luật của Thiên Chúa được đặt ra không nhằm trói buộc con người nhưng mở đường
dẫn tới hạnh phúc đích thực. Khi con người nhân danh tự do để phủ nhận lề luật
và trượt sâu vào sự sa đoạ về luân lý, thì con người tự hủy diệt chính mình,
huỷ diệt nhân tính, huỷ diệt những tương quan xã hội, và hủy diệt vận mệnh vĩnh
cửu của mình. Trình thuật về Xơ-đôm làm chứng điều đó, và những gì đang diễn ra
trong cuộc sống ngày nay cũng làm chứng điều đó. Vì thế trình thuật này là lời
mời gọi mỗi người suy nghĩ về chính cuộc sống của mình cũng như của toàn xã
hội.
3. Chương 20-25
a. Hiến tế I-xa-ác (22,1-19)
Đây là một trong những
áng văn đẹp nhất của Thánh Kinh Cựu Ước. Hãy hình dung cảnh tượng hai cha con
bước đi trong thinh lặng của núi rừng mà lòng Áp-ra-ham trĩu nặng. Hãy nghĩ đến
những tâm tư thầm kín của tổ phụ Áp-ra-ham trong từng bước đi. Hãy nhớ đến câu
hỏi thật đơn sơ và ngây thơ của I-xa-ác hỏi cha mình... Tất cả làm nên một
trình thuật không những sâu sắc về tư tưởng mà còn thật cuốn hút về mặt văn
chương. Các học giả ghi nhận mối quan hệ giữa trình thuật này với tục lệ sát tế
con cái để dâng cho thần linh. Đây là tục lệ của những dân tộc lân cận với Ít-ra-en
thời đó, và một số người trong dân Ít-ra-en cũng đã bắt chước dù bị cấm (x.1V
16,34; 2V 3,27; 23,10). Có thể trình thuật này nhắm mục đích phê phán và phủ
quyết tục lệ này. Tuy nhiên điểm nhấn của trình thuật vẫn là việc thử thách đức
tin của Áp-ra-ham. Thiên Chúa đã thử thách Áp-ra-ham đến độ đòi hỏi ông phải
hiến tế chính đứa con duy nhất của mình, đứa con làm nên niềm vui và hy vọng
duy nhất của đời ông. Và tổ phụ Áp-ra-ham đã chứng tỏ niềm tin tín thác trọn
vẹn và tuyệt đối của ông vào Thiên Chúa. Tên gọi “Đức Chúa sẽ liệu” (câu 14) mà Áp-ra-ham đặt cho nơi ông hiến dâng
con mình đã diễn tả tất cả, diễn tả sự phó thác trọn vẹn của ông vào Thiên
Chúa, đồng thời diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa với lời hứa của Người. Chủ
đề về Lời hứa một lần nữa được nhấn mạnh trong trình thuật này (câu 15-19).
Khi đọc trình thuật
này, ta dường như dành trọn sự thương cảm cho Áp-ra-ham, và cùng với sự thương
cảm đó là một chút “ác cảm” với Thiên Chúa vì cho rằng đòi hỏi của Người quá
“phi lý” và “bất nhân.” Thế nhưng có khi nào ta đọc câu chuyện này và nhớ lại
khung cảnh của đồi Canvê, khi Thiên Chúa dìu Người Con chí ái của Người lên đồi
và chấp nhận để cho thế gian đóng đinh Con của Người vào thập giá? Có khi nào
ta hình dung nỗi đau của Thiên Chúa khi chứng kiến Con của Người đang quằn quại
theo từng nhát búa? Hãy hình dung như thế để khám phá lại tấm lòng yêu thương
mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Hãy hình dung như thế để hiểu rằng tình yêu
của Thiên Chúa dành cho con người luôn luôn vĩ đại hơn niềm tin của con người
dành cho Thiên Chúa, cho dù con người đó là Áp-ra-ham. Hãy hình dung như thế để
bước đi trong niềm tín thác vào Thiên Chúa Tình yêu bởi vì “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng
tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ
nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32).
b. Tìm vợ cho I-xa-ác (24,1-67)
Hàm ẩn trong câu truyện
dễ thương này vẫn là chủ đề về lời hứa. Thiên Chúa tiếp tục hướng dẫn tổ phụ Áp-ra-ham
từng bước để thực hiện lời Người đã hứa. Tuy nhiên Người không can thiệp cách
trực tiếp mà qua sự hướng dẫn trong tâm hồn và qua những dấu chỉ. Theo tập quán
thời đó, tổ phụ Áp-ra-ham phải sắp xếp cuộc hôn nhân cho con mình. Vì tuổi cao
sức yếu nên ông trao phó nhiệm vụ này cho người lão bộc trung thành với những
lời căn dặn thật rõ ràng và chu đáo. I-xa-ác sẽ không kết hôn với phụ nữ
Canaan, nghĩa là loại trừ việc kết hôn khác đạo. Cũng không thể để I-xa-ác trở
về quê cũ của tổ phụ Áp-ra-ham vì Đức Chúa “đã
phán và thề với tôi rằng: Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này” (câu 7).
Như thế trong mọi sự, Áp-ra-ham luôn tín thác vào Chúa là Đấng đã hứa và trung
thành với lời hứa của Người. Người lão bộc đã thực hiện đúng như lời tổ phụ Áp-ra-ham
căn dặn. Dưới sự hướng dẫn của Chúa, ông đã tìm được Rê-bê-ca, được gia đình
của Rê-bê-ca chấp thuận, và đã đưa Rê-bê-ca về cho I-xa-ác. Toàn bộ câu truyện
ánh lên niềm xác tín rằng cuộc hôn nhân giữa I-xa-ác và Rê-bê-ca không chỉ do
những tính toán của con người nhưng chính Thiên Chúa dẫn đường chỉ lối cho họ
đến với nhau. Như thế câu truyện này thể hiện niềm tin đã được nhấn mạnh trong
sách Sáng Thế và Chúa Giêsu cũng lập lại: “Sự
gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
4. Chương
25-36
a. Ê-xau, Gia-cóp và mầu nhiệm tuyển chọn
(25,19-26)
Với bản gia phả của
I-xa-ác (câu 19-20), sách Sáng Thế đưa ta vào một giai đoạn mới trong lịch sử
các tổ phụ, là giai đoạn của I-xa-ác và Gia-cóp. Bản gia phả được tiếp nối bằng
câu chuyện về việc sinh hạ Ê-xau và Gia-cóp. Bà Rê-bê-ca là một phụ nữ hiếm
muộn cũng giống như bà Xa-ra. Nhưng chính sự hiếm muộn này lại làm nổi bật sự
can thiệp của Chúa trong việc bà thụ thai (câu 21). Niềm vui thụ thai của bà
lại trở thành nỗi lo lắng vì cảm nhận những đứa con “đánh nhau” ngay trong lòng
dạ mình. Chính ở đây xuất hiện lời sấm được coi như tâm điểm của trình thuật, “Có hai dân tộc trong lòng ngươi, hai dân từ
dạ ngươi sinh ra và sẽ chia rẽ nhau. Dân này sẽ mạnh hơn dân kia, đứa lớn sẽ
làm tôi đứa bé” (25,23). Lời sấm này đã loan báo trước những gì sẽ được
trình bày trong câu chuyện về Ê-xau và Gia-cóp.
Tác giả sách Sáng Thế
cũng mô tả một số đặc tính của hai đứa trẻ sơ sinh, báo trước tính cách của mỗi
đứa trẻ và mối tương quan giữa Ê-xau và Gia-cóp sau này. Ê-xau “đỏ hoe”
(admoni) và “đầy lông lá” (séar), sau này sẽ trở thành tổ phụ của dân Edmonites
sống ở vùng Seir. Việc mô tả Gia-cóp ra sau nhưng “nắm gót chân” của Ê-xau cũng
mang tính biểu tượng, diễn tả tính cách của Gia-cóp. Tên gọi Gia-cóp là thể rút
ngắn của Jacobel, nghĩa là “xin Thiên Chúa bảo vệ”. Trình thuật được tiếp nối
bằng những câu chuyện về việc Ê-xau bán quyền trưởng nam của mình (25,27-34),
kể cả việc bà Rê-bê-ca tìm cách đánh lừa I-xa-ác để ông chúc lành cho Giacóp (27,1-46).
Những câu chuyện trên có thể làm cho ta đặt nhiều câu hỏi, ví dụ tại sao Gia-cóp
lại được chọn thay vì Ê-xau, phải chăng hành động lừa dối của bà Rê-bê-ca là
hành động tốt vì phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa đã được bày tỏ trong lời
sấm (25,23)? Tác giả sách Sáng Thế không đưa ra câu trả lời. Ông chỉ kể chuyện.
Ở đây chúng ta đối diện với một mầu nhiệm sẽ còn tái diễn nhiều lần trong lịch
sử cứu độ, là mầu nhiệm tuyển chọn của Thiên Chúa. Sự chọn lựa của Thiên Chúa
mãi là một huyền nhiệm vượt trên những tính toán và suy nghĩ bình thường của
con người. Thiên Chúa điều khiển và thực hiện dự định của Ngài, vượt trên những
tính toán của chúng ta.
b. Hành trình của Gia-cóp
Trong một thị kiến ở
Bết-ên (28,10-12), Gia-cóp thấy một cái thang nối Trời với Đất, và ông nghe
nhắc lại những lời hứa đã được ban cho tổ phụ Áp-ra-ham. Nhưng Gia-cóp không
biết: “Có Đức Chúa ngự nơi này mà tôi
không biết” (28,16). Sau đó Gia-cóp lấy hòn đá ông đã gối đầu qua đêm dựng
lên làm trụ, và khấn hứa rằng nếu Thiên Chúa gìn giữ ông được bình an, thì ông
sẽ trở về dựng bàn thờ kính Chúa (28,18-22). Gia-cóp lại có một thị kiến khác,
đó là ông vật lộn với Thiên Chúa tại Pơ-nu-ên (32,22-33). Sau biến cố này,
Giacóp trở thành một con người khác, ông mang tên gọi mới là Ít-ra-en và sống
cuộc đời chính trực. Sau cùng, khi trở về Bết-ên (35,1-18), ông hoàn tất lời
thề xây một bàn thờ tại Bét-ên để kính Thiên Chúa, “Đấng đã đáp lời tôi ngày
tôi gặp bước gian truân, và đã ở với tôi trong chuyến đi tôi đã thực hiện” (35,3).
Bài học rút ra từ những
sự kiện và biến cố trong đời tổ phụ Gia-cóp cho thấy đức tin là cả một hành
trình dài chứ không chỉ là một lý thuyết hay sự vật mà ta chỉ cần nắm lấy một
lần là xong. Tin là bước vào mối tương quan gắn kết với Thiên Chúa, mối tương
quan mà ta cảm nghiệm, vun đắp và xây dựng xuyên qua những biến cố dọc dài cuộc
sống. Trong hành trình đó, không ít lần ta cảm nhận nỗi khó khăn khi sống đức
tin, nhất là khi phải đối diện với những thử thách và cám dỗ. Quả thật sống đức
tin là cả một cuộc vật lộn với Thiên Chúa, vật lộn với lời mời gọi của Ngài,
vật lộn với lý tưởng Phúc Âm. Thế nhưng chính khi ta chấp nhận cuộc vật lộn đau
đớn đó, con người mới dần dà được hình thành nơi ta. Sứ điệp đầu tiên và căn
bản nhất mà Chúa Giêsu gửi đến những ai muốn theo Ngài là “Hãy sám hối và tin
vào Tin Mừng” nghĩa là phải đổi mới thường xuyên. Là Kitô hữu là đón nhận một
tên gọi mới, một danh hiệu mới, và phải sống cuộc sống mới.
IV. PHẦN III - CHƯƠNG 37-50
1.
Tổng quát
Phần 3 là truyện ông Giuse, cho lóe lên một tin
sáng đầu tiên trên những tấn kịch đời sống con người. Loài người cần đến một vị
Cứu Tinh, và ơn cứu thoát của họ sẽ đến nhờ những người mà trước đó họ đã ngược
đãi và loài trừ. (Dẫn nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước, Giờ
Kinh Phụng Vụ).
2. Chương 37-50
- 37,1-36: Giuse bị bán
làm nô lệ bên Ai Cập. Sự ưu ái mà tổ phụ Gia-cóp dành cho Giuse được coi là
nguyên nhân gây bất bình trong anh em. Giuse bị anh em bắt và bán cho người lái
buôn sang Ai Cập.
- 38,1-30: Giuđa và
Ta-ma. Một chuyện loạn luân nhưng tác giả không nhắm đến khía cạnh đạo đức ở
đây. Điều được quan tâm là qua Tamar, dòng dõi Giacóp được tồn tại, và chính
qua dòng dõi này mà vị vua vĩ đại của Ít-ra-en là Đavít xuất hiện.
- 39,1-23: Sự thăng
trầm của Giuse. Giuse bị bán cho một gia đình Ai Cập và sớm được tín nhiệm. Rồi
thử thách đến với ông, khiến ông phải nằm tù.
- 40,1-23: Giuse đoán mộng
cho các tù nhân, nhờ đó gây sự chú ý của một quan chức hầu cận nhà vua.
- 41,1- 57: Giuse đoán
mộng cho vua Pha-ra-ô và được vua tín nhiệm đặt làm quan lớn trong triều. Ông
được ban cho một tên gọi Ai Cập là Xóp-nát Pa-nê-ác, nghĩa là “Thiên Chúa nói và
sống.”
- 42,1-38: Giuse thử
thách anh em. Vì đói kém, tổ phụ Gia-cóp phải sai các con sang Ai Cập, nhưng
giữ lại nhà người con út là Ben-gia-min. Giuse đòi phải thấy Ben-gia-min để
chứng tỏ nhóm người này không phải là quân do thám.
- 43,1-34: Anh em của
Giuse trở lại Ai Cập. Vừa thấy Ben-gia-min, Giuse hết sức xúc động nhưng vẫn
chưa tỏ mình ra.
- 44,1-34: Giuse thử
anh em lần cuối. Họ đã đi được một quãng đường rồi bị bắt lại. Qua những lời
tâm huyết của Giu-đa, Giuse hiểu rằng anh em đã thay đổi tâm tính và cách sống,
quan tâm chăm sóc cho Ben-gia-min.
- 45,1-28: Giuse tỏ
mình cho anh em. Anh em làm hòa với nhau.
- 46,1 – 47,28: Gia-cóp
đi Ai Cập và định cư tại đó
- 47,29 - 48,22: Chúc
lành cho Ép-ra-im và Mơ-na-se. Chi tộc Giuse được tách hai thành chi tộc
Ép-ra-im và Mơ-na-se.
- 49,1-27: Chúc lành
của Gia-cóp.
- 49,28 - 50,14: Tổ phụ
Gia-cóp qua đời và được mai táng tại Mác-pê-la là nơi chôn cất tổ phụ Áp-ra-ham
và Xa-ra.
- 50,15-21: Giuse trấn an anh em.
- 50,22-26: Giuse qua đời.
b. Thiên Chúa rút ra điều lành từ sự dữ
Tổ
phụ Giuse phải chịu nhiều nỗi oan khiên: bị anh em bán làm nô lệ sang Ai cập
(37,1-36), bị vu oan giá họa đến nỗi phải vào tù (39,1-23). Thế nhưng Thiên
Chúa đã biến những đau khổ này thành cơ may cho cá nhân Giuse khi ông được Pha-ra-ô
phong làm tể tướng (41,1-57), và hơn nữa cho cả một dân vì nhờ ông mà cả một
dân được cứu khỏi nạn đói. Ai sẽ là Đấng giải oan cho Giuse khỏi những cáo buộc
và hành động bất công? Về mặt loài người, xem ra Giuse hoàn toàn cô thân cô thế
trong những nghịch cảnh này. Chỉ có Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự và xét xử
công minh, Người sẽ trả lại cho mỗi người phần thưởng xứng với việc họ làm.
Cuộc
đời tổ phụ Giuse được nhìn như hình bóng báo trước cuộc đời Chúa Kitô. Ngài
phải chịu mọi nỗi oan khiên nhưng chính nhờ những đau khổ Ngài chịu mà chúng ta
được cứu. Quả thật, “hòn đá người thợ xây
loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường” (Tv 118,22-23). Hội Thánh hân hoan
hát lên lời tuyên xưng này cách đặc biệt trong dịp lễ Phục Sinh.
Cuộc
đời tổ phụ Giuse và cuộc đời Chúa Kitô là bằng chứng thuyết phục về quyền năng
và tình thương của Thiên Chúa. Chính Người là Đấng dẫn dắt lịch sử nhân loại
cũng như cuộc đời mỗi người đến chỗ hoàn thành. Vì thế, người Kitô hữu được mời
gọi tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, đồng thời luôn
kiếm tìm và thi hành Thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, bởi lẽ đó chính là
nẻo đường cứu độ và bình an.
CUỐN SÁCH 2
SÁCH XUẤT HÀNH (Xh)
1. Tổng quát
Sách Xuất hành là cuộc
ra đi khỏi Ai-cập. Đây là kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa trong Cựu Ước: Cuộc ra
đi khỏi đất nô lệ tiến về Đất Hứa. Thiên Chúa giải thoát dân người “với uy lực
cao cả, bàn tay mạnh mẽ và cánh tay dang rộng (nghĩa là đánh mạnh)”, mở cho dân
một con đường vượt biển. Sách Xuất hành là cuốn sách thứ hai trong Thánh Kinh
Cựu Ước. Sách gồm có 40 chương, được viết vào khoảng năm 1450-517 TCN, không rõ
tác giả là ai, truyền thống cho là ông Môsê (Dẫn nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).
Sách Xuất hành gồm có 40 chương.
Chương |
Chương |
1. Cảnh sống thịnh vượng của người Híp-ri ở Ai-cập - Dân
Híp-ri bị áp bức |
21. Bộ Luật giao ước - Luật về người nô lệ - Giết người
–đánh đập và gây thường tích – lấy trộm thú vật |
2. Ông Mô-sê chào đời - Ông Mô-sê trốn sang Ma-đi-an -
Thiên Chúa nhớ tới dân Ít-ra-en |
22. Bộ Luật giao ước - Xâm phạm tiết hạnh gái trinh - Của đầu
mùa và con đầu lòng |
3. Thiên Chúa gọi ông Mô-sê từ bụi cây bốc cháy - Sứ mạng
của ông Mô-sê - Mặc khải danh Thiên Chúa - Chỉ thị về sứ mạng của ông Mô-sê -
Tước đoạt của cải người Ai-cập |
23. Bộ Luật giao ước - Công lý Bổn phận đối với kẻ thù - Các
ngày lễ của Ít-ra-en - Lời hứa và chỉ thị liên quan đến biến cố vào xứ
Ca-na-an |
4. Ông Mô-sê làm dấu lạ - Ông A-ha-ron, phát ngôn viên của
ông Mô-sê - Ông Mô-sê rời Ma-đi-an trở về Ai-cập - Con ông Mô-sê được cắt bì
- Ông Mô-sê gặp ông A-ha-ron |
24. Ký kết giao ước - Ông Mô-sê ở trên núi |
5. Cuộc hội kiến đầu tiên với Pha-ra-ô - Dân than trách.
Ông Mô-sê kêu cầu. |
25. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Đóng góp
để dựng nơi thánh - Nhà Tạm và Hòm Bia
- Bàn để bánh tiến - Trụ đèn |
6. Trình thuật khác về việc Thiên Chúa gọi ông Mô-sê - Gia
phả ông Mô-sê và ông A-ha-ron |
26. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Nhà Tạm.
Vải và bạt - Khung lều - Bức trướng |
7. Cây gậy biến thành con rắn - Các tai ương bên Ai cập:
Nước biến thành máu và ếch nhái |
27. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Bàn thờ
dâng lễ toàn thiêu - Khuôn viên - Dầu thắp đèn |
8. Các tai ương bên Ai cập: Muỗi và ruồi nhặng |
28. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Phẩm phục của các tư tế - Áo ê-phốt - Túi
đeo trước ngực - Áo khoác - Dấu thánh hiến - Y phục của tư tế |
9. Các tai ương bên Ai cập: ôn dịch, Ung nhọt và mưa đá |
29. Ông A-ha-ron và các con ông được thánh hiến. Công việc
chuẩn bị - Thanh tẩy, mặc phẩm phục và xức dầu - Lễ vật |
10. Các tai ương bên Ai cập: châu cháu và cảnh tối tăm |
30. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Hương án -
Thuế thân - Vạc đồng - Dầu tấn phong |
11. Báo tin các con đầu lòng sẽ phải chết |
31. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Thợ dựng
nơi thánh - Nghỉ ngày sa-bát - Thiên Chúa trao cho ông Mô-sê các tấm bia ghi
Lề Luật |
12. Lễ Vượt Qua - Lễ Bánh Không Men - Chỉ thị về lễ Vượt Qua
- Tai ương thứ mười: các con đầu lòng bị giết - Tước đoạt của cải người
Ai-cập - Dân Ít-ra-en ra đi - Chỉ thị về lễ Vượt Qua (cắt bì được ăn lễ) |
32. Con bê bằng vàng – ĐỨC CHÚA báo tin cho Mô-sê - Ông Mô-sê chuyển cầu cho dân - Ông Mô-sê đập vỡ các tấm bia Lề Luật -
Vai trò của ông A-ha-ron trong lỗi lầm của dân |
13. Các con đầu lòng - Bánh không men - Các con đầu lòng - Dân
Ít-ra-en ra đi |
33. Lệnh lên đường - Lều Hội Ngộ - Ông Mô-sê chuyển cầu cho
dân - Ông Mô-sê ở trên núi |
14. Từ Ê-tham đến Biển Đỏ - Người Ai-cập đuổi theo dân
Ít-ra-en - Phép lạ tại Biển Đỏ |
34. Tái lập giao ước. Các bia ghi Lề Luật - ĐỨC CHÚA hiện ra
- Giao Ước - Ông Mô-sê lại xuống núi |
15. Bài ca chiến thắng – hành trình Sa mạc - Mara |
35. Dựng nơi Thánh - Luật nghỉ ngày sa-bát - Quyên góp vật
liệu - Thợ dựng nơi thánh |
16. Man-na và chim cút |
36. Nhà Tạm - Khung lều - Bức trướng |
17. Nước phun ra từ tảng đá - Giao chiến với người A-ma-lếch |
37. Hòm Bia - Bàn để bánh tiến |
18. Ông Mô-sê gặp ông Gít-rô - Đặt các thẩm phán |
38. Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu |
19. Tới núi Xi-nai - Chuẩn bị giao ước - Cuộc thần hiện |
39. Y phục của thượng tế - Áo ê-phốt |
20. Mười điều răn – bộ Luật giao ước: Luật về bàn thờ |
40. Dựng và thánh hiến Nhà Tạm - Thi hành mệnh lệnh của
Thiên Chúa - ĐỨC CHÚA chiếm hữu Nhà Tạm - Mây dẫn đường cho dân Ít-ra-en |
2. Tầm quan trọng của
Sách Xuất hành
a. Ý nghĩa của Sách Xuất hành
Biến cố Xuất hành là tâm điểm kinh nghiệm đức tin của dân Ít-ra-en.
Biến cố này trở thành điểm quy chiếu cho dân trong mọi hoàn cảnh lịch sử (x.Is
40,3; Kng 11,5). Trong sách Xuất hành, Thiên Chúa tự mạc khải là vị Thiên Chúa
dấn thân vào lịch sử nhân loại để giải thoát nhân loại, khác hẳn hình ảnh về
Thiên Chúa trừu tượng và xa lạ người ta thường nghĩ. Cũng trong sách Xuất hành,
Ít-ra-en xuất hiện như là Dân Chúa qua giao ước Xi-nai. Đây là điều làm cho Ít-ra-en
khác hẳn các dân.
b. Sách Xuất hành
với người Kitô hữu
Biến
cố Xuất hành là tín hiệu báo trước Ơn Cứu độ được hoàn thành trong Chúa Kitô.
Vì thế, sách Xuất hành cũng được gọi là Tin Mừng về Ơn Cứu Độ. Biến cố này còn
gợi hứng cho những suy tư và hành động đức tin của người Kitô hữu ngày nay. Tuy
nhiên, cần đặt biến cố Xuất hành trong tương quan với mầu nhiệm khổ nạn và phục
sinh của Chúa Kitô, vì chỉ như thế ta mới có thể hiểu đúng ý nghĩa của biến cố
này trong nhãn quan Kitô giáo.
3. Chương 1-7
a. Ơn
gọi của Môsê (3,1-15)
Môsê đã trải qua 40 năm sống ẩn dật tại nhà cha vợ ở xứ Ma-đi-an,
nhưng chính lúc đó, Thiên Chúa đã can thiệp, đã kêu gọi ông, một ơn gọi rất đặc
biệt và đặc thù. Chúa muốn dùng ông làm người lãnh đạo để giải phóng dân Chúa
khỏi ách nô lệ và khỏi nạn diệt chủng của các Pha-ra-ô, đang khi ông chỉ là
người chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô (còn gọi là Rơ-u-en), vị tư tế của dân
Ma-đi-an. Ơn gọi của Môsê xem ra như là một việc tình cờ mà ngay cả Môsê cũng
không nghĩ đến. Thực ra Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ơn gọi và sứ mạng của ông
ngay từ lúc lọt lòng mẹ. Sự quan phòng của Thiên Chúa đối với ơn gọi và sứ mạng
của ông sau này khiến ông được Pha-ra-ô và công chúa Hatshepsut tiếp nhận và
nuôi dạy trong cung điện của Pha-ra-ô để giúp ông trở thành người lãnh đạo đầy
khả năng cho dân Chúa sau này. Khác với những nhà lãnh đạo cách mạng của các
nước khác trên thế giới, Môsê không tự ý đảm nhận vai trò lãnh đạo dân Do Thái
trong biến cố xuất hành này. Chính Thiên Chúa đã chọn ông và đã giao cho ông sứ
mạng quan trọng này cùng với A-ha-ron anh trai của ông. Ông được chọn để làm
người trung gian giữa Thiên Chúa với Dân của Người. Chính Chúa là Đấng đã giao
phó cho ông trách nhiệm dẫn dắt, tổ chức, hướng dẫn và giúp cho dân sống Giao
ước với Chúa.
b. Danh Thiên Chúa (YHWH)
Đối với Ít-ra-en cũng
như các dân vùng Cận Đông, tên của một người không chỉ là tên gọi bên ngoài
nhưng còn là chính con người. Muốn biết tên một người là muốn bước vào quan hệ
thân tình với họ. Vì thế không lạ gì khi Môsê xin được biết danh thánh Thiên
Chúa. Câu trả lời của Thiên Chúa cho Môsê là một câu rất huyền nhiệm: YHWH. Có
những cách dịch khác nhau trong các bản dịch Thánh Kinh sang tiếng Việt, vd. Ta
là Đấng tự hữu – Ta là Đấng hằng hữu – Ta là Đấng hiện hữu. Thiết nghĩ trong
mỗi cách dịch đã hàm chứa một ý nghĩa thần học. Các học giả cố gắng tìm ra ý
nghĩa của danh xưng này bằng cách nối kết với những lời Thiên Chúa nói với
Môsê. Theo đó, danh xưng này muốn nhấn mạnh rằng Thiên Chúa là Đấng dấn thân và
tham gia cách tích cực trong lịch sử của Dân.
c. Bụi gai bốc cháy
Có thể tác giả chọn từ
ngữ bụi gai (trong tiếng Hípri là seneh) vì muốn liên hệ với Xi-nai, núi của
Thiên Chúa. Như thế, bụi gai bốc cháy ở đây nối kết với ngọn lửa trong cuộc
thần hiện ở Xi-nai (19,18). Môsê vừa bị thu hút bởi cảnh tượng kỳ lạ, vừa kinh
sợ và che mặt đi khi Đức Chúa tỏ mình. Đây cũng là kinh nghiệm thiêng liêng của
các tiên tri như Isaia và Jeremia. Thiên Chúa tỏ mình cho Môsê cũng là Thiên
Chúa của các tổ phụ (3,16). Như thế, không chỉ vào thời Môsê nhưng Thiên Chúa
đã luôn hoạt động qua bao thế kỷ vì yêu thương dân của Người. Môsê được gọi để
trở thành phát ngôn viên của Chúa, nói thay cho Chúa. Truyền thống Do thái vẫn
nhìn Môsê như một tiên tri (x. Đnl 18,15-20), và tiên tri chính là người nói
nhân danh Chúa và vì hạnh phúc đích thực của Dân.
4. Chương 7-15: Cuộc
vượt qua của Dân Ít-ra-en
a. Cuộc vượt qua của người Do thái
Dân Ít-ra-en phải sống
trong cảnh nô lệ lầm than (Xh 1, 8-22). Nhưng Thiên Chúa đã thấy cảnh lầm than
của họ và sai Môsê đến để giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ, đưa họ vượt qua Biển
Đỏ (Xh 14,15-31). Nhờ Chiên được sát tế và máu chiên bôi lên thành cửa, dân
Israel được cứu thoát và lên đường đi đến miền đất tự do (Xh 12,29-34. 12-14).
Chính Thiên Chúa thực hiện cuộc giải thoát này bằng những điềm thiêng dấu lạ,
nhưng Chúa đã chọn Môsê làm người lãnh đạo Dân Chúa và thực hiện kế hoạch của
Người.
Môsê đưa ra những chỉ
thị về việc cử hành lễ Vượt Qua (Xh 12,14) và người Do thái vẫn trung thành
tuân giữ cho đến ngày nay. Trong nghi thức cử hành lễ Vượt Qua, sau tuần rượu
thứ hai, một người con trong gia đình sẽ lên tiếng hỏi: tại sao đêm nay lại
khác mọi đêm? Và người cha trong gia đình sẽ giải thích dựa vào Đnl 26,5-11.
b. Cuộc vượt qua của người Kitô hữu
Nhân loại vẫn sống
trong cảnh nô lệ tội lỗi là thứ nô lệ tồi tệ nhất, làm cho con người bị tha
hoá, đánh mất phẩm giá đích thực của mình là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Kitô
là Môsê mới, là vị lãnh đạo của Dân mới. Chiên được sát tế trong lễ Vượt Qua là
hình bóng Chúa Kitô hiến dâng chính mình, nhờ đó chúng ta được sống (x. Ga
19,31-37). Việc vượt qua Biển Đỏ loan báo bí tích Thánh Tẩy: giải thoát ta khỏi
cảnh nô lệ tội lỗi, biến ta thành con cái Thiên Chúa, và cho ta thành phần tử
của Dân mới là Hội Thánh.
Chúa Giêsu đã cử hành
Bữa Tiệc Ly trong bối cảnh lễ Vượt Qua (Lc 22,14-20). Tuy nhiên trong bữa Tiệc
Ly, Chúa Giêsu đã làm hai cử chỉ độc đáo. Một là Ngài chuyển chén rượu của
người đứng đầu gia đình cho mọi người trong nhà, hai là Ngài thêm vào những lời
minh giải: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì
anh em,” “Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu đổ ra vì anh em”.
Những lời này cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa Tiệc Ly và biến cố thập giá.
Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Trong Thánh Kinh,
tưởng niệm không chỉ đơn thuần là nhớ lại một sự kiện trong quá khứ, nhưng bao
hàm cả ba chiều kích thời gian là hiện tại, quá khứ và tương lai. “Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng
niệm, ngày đại lễ mừng ĐỨC CHÚA. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ
này: đó là luật quy định cho đến muôn đời” (Xh 12,14). Chính vì thế, thần
học Công giáo giải thích về tưởng niệm như là signum rememorativum (dấu chỉ
tưởng nhớ hành động cứu độ đã xảy ra trong quá khứ), signum demonstrativum (dấu
chỉ Ơn Cứu độ đang diễn ra trong hiện tại), signum prognosticum (dấu chỉ loan
báo bữa tiệc cánh chung trong Nước Chúa). Cử hành Thánh Thể là làm theo lời di
chúc của Chúa Giêsu. Vì thế, trong suốt lịch sử, Hội Thánh không ngừng cử hành
Thánh Thể (x. Cv 2,42.46; 1Cr 11,23), và người Kitô hữu phải hết sức trân trọng
việc cử hành này.
5. Chương 16-24: Hành
trình Sa mạc và giao ước Xi-nai
a. Kinh nghiệm của dân Ít-ra-en trong sa mạc
(15,22 – 18,27)
Được giải thoát khỏi
cảnh nô lệ bên Ai Cập, Ít-ra-en còn phải trải qua hành trình lâu năm trong sa
mạc mới được đặt chân vào Đất Hứa. Hành trình sa mạc đã ban tặng cho họ nhiều
kinh nghiệm. Trước hết, họ kinh nghiệm về sự thiếu thốn lương thực cũng như
những hiểm nguy đe doạ, và những khó khăn này không chỉ dừng lại ở mức độ vật
chất nhưng còn dẫn đến những thử thách cho chính đức tin: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (17,7). Cùng với kinh
nghiệm về những khó khăn và thử thách trong sa mạc, Dân Chúa lại cảm nghiệm
được từng ngày và qua từng biến cố sự đồng hành và tình thương chăm sóc Thiên
Chúa dành cho dân của Người.
Kinh
nghiệm sa mạc của Dân Chúa trong Cựu Ước cũng giúp ta nhìn lại đời sống Kitô
hữu của mình trong ánh sáng mới. Trở thành Kitô hữu là bước vào một hành trình
dài trong đó ta phải đối diện với rất nhiều cám dỗ và thử thách, hy sinh và từ
bỏ. Như Dân Chúa ngày xưa, nhiều lần ta cảm thấy mệt mỏi, muốn bỏ cuộc và quay
về nếp sống cũ. Tuy nhiên chính những khó khăn và thử thách đó lại là những cơ
hội Thiên Chúa dùng để giáo dục và thanh luyện ta nên giống Chúa Kitô hơn.
b. Trong bối cảnh Giao Ước
Giao ước là sự thiết
lập một tương quan trong đó quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên được xác định
và chấp nhận, vd. giao ước giữa Gia-cóp và La-ban (St 31,43-32,3). Tuy nhiên,
giao ước giữa Thiên Chúa và Ít-ra-en không phải là giao ước giữa hai bên ngang
hàng với nhau. Đúng hơn, Thiên Chúa ký kết giao ước với Ít-ra-en chỉ vì tình
thương cho không. Môsê đã nhấn mạnh điều này nhiều lần, và trình thuật về Mười
Điều Răn cũng làm nổi bật tình thương của Thiên Chúa giao ước: Mười điều răn
được mở đầu bằng khẳng định của Thiên Chúa là Đấng đã trực tiếp can thiệp vào
đời sống của dân: “Ta là Đức Chúa đã đưa
ngươi ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập”(20,2). Thiên Chúa dùng ngôi thứ hai để nói
trực tiếp với dân. Như thế, thập điều không phải là hệ thống luật pháp vô hồn,
nhưng được đặt nền trên một ngôi vị.
c. Đón nhận Mười điều răn cách tích cực
Những nhận xét trên
giúp ta khám phá Mười điều răn như là những điều khoản của giao ước tình yêu.
Kinh nghiệm về giao ước hôn nhân có thể giúp ta hiểu phần nào ý nghĩa cao quý
này. Trong giao ước hôn nhân có những điều khoản mà hai người phối ngẫu cam kết
với nhau, chẳng hạn một vợ một chồng, chung thủy với nhau đến trọn đời. Tuy
nhiên, tất cả những điều khoản đó được đặt nền trên tình yêu, và là sự diễn tả
ra bên ngoài những đòi hỏi nội tại của tình yêu đích thực. Tương tự như thế,
Mười điều răn là cách thể hiện tương quan yêu thương trong giao ước giữa Thiên
Chúa và dân của Người. Tách biệt Mười điều răn ra khỏi tương quan giao ước sẽ
biến Mười điều răn thành một bộ luật luân lý vô hồn và mất đi tính năng động
của nó. Đồng thời khi nhìn Mười điều răn trong bối cảnh của giao ước, ta sẽ
khám phá giá trị tích cực của Mười điều răn như con đường đưa đến sự sống phong
phú chứ không chỉ là những rào cản ngăn lối hạnh phúc của con người như nhiều
người ngày nay lầm tưởng.
6. Chương 25-34: Nhà
Tạm và Hòm Bia giao ước
a. Ý
nghĩa
Trong trình thuật về
cuộc Thần hiện (24,15b-18), tác giả nối kết cuộc thần hiện trên núi Xi-nai với việc
xây cất thánh điện (40,17,33b). Cũng như mây bao phủ núi Xi-nai và vinh quang
Đức Chúa ngự trị ở đó (24,15-16) thì mây cũng bao phủ Lều Hội Ngộ và vinh quang
Đức Chúa tràn ngập thánh điện (40,34). Như thế, việc thờ phượng trên núi Xi-nai
là mẫu mực cho việc thờ phượng của dân. Đồng thời Đức Chúa truyền lệnh cho Môsê
làm một nơi thánh để Chúa ngự giữa dân. Nơi này được gọi bằng hai từ là Lều Hội
Ngộ (40,34) và Nhà Tạm (25,9). Thiên Chúa là Đấng siêu việt nhưng Nhà Tạm sẽ là
nơi Ngài gặp gỡ con cái Ít-ra-en (29,42-43). Hòm Bia là hòm làm bằng gỗ keo,
dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi; trong hòm đặt bia đá
mà Đức Chúa đã ban cho Môsê (câu 16,21 // 31, 18).
b. Cho
đời sống Kitô hữu
Trong các nhà thờ Công
giáo, Nhà Tạm là nơi thánh, nơi Chúa ngự giữa dân Ngài, nơi dân được gặp Chúa.
Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân đến ở giữa loài người (Ga 1,14), và
Ngài còn ở lại với chúng ta cho đến tận thế (Mt 28,20) trong bí tích Thánh Thể.
Nhà Tạm là nơi cất giữ Thánh Thể. Vậy tôi có thực sự coi đó là nơi thánh, nơi
Chúa ở giữa cộng đoàn, nơi tôi gặp gỡ Chúa không? Mỗi khi ta rước lễ, chính
lòng ta trở thành “nhà tạm” của Chúa. Liệu chúng ta có ý thức về điều đó không,
hay thói quen đã làm phai nhạt ý thức về sự thánh thiện đó? Và liệu người ta có
thể thấy nơi chúng ta sự thánh thiện và tình thương của Chúa không? Ở đây cũng
là dịp cho ta chiêm ngắm Mẹ Maria. Truyền thống Công giáo gọi Đức Mẹ là Hòm Bia
Thiên Chúa vì Mẹ mang trong lòng dạ Mẹ chính Thiên Chúa làm người. Đây cũng là
nền tảng để các thánh suy niệm về mầu nhiệm Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và Đức
Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Chính vì Mẹ là Hòm bia Thiên Chúa nên Mẹ được giữ gìn khỏi
tội Tổ tông truyền, và Mẹ được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đức Mẹ thực sự là
dấu chỉ hy vọng và là mẫu gương tuyệt vời cho Dân Chúa trong hành trình về quê
trời vĩnh cửu.
c. Con bê vàng
Trình thuật về việc dân
Ít-ra-en thờ lạy bò vàng (32,1-6) làm nổi bật ý nghĩa này: Con người tự làm ra
thần thánh theo ý muốn của mình chứ không nhìn nhận Đấng Thiên Chúa đã làm nên
họ và cứu sống họ (32,1). Ông A-ha-ron đã nhượng bộ theo yêu cầu của dân quá dễ
dàng. Sách Xuất Hành cũng kể rằng Dân Ít-ra-en muốn ruồng bỏ Môsê để có một vị
lãnh đạo mới, và như thế họ ruồng bỏ chính Thiên Chúa (32,2-4). Sách Dân Số
12,1-8 còn ghi nhận A-ha-ron đã chống lại Môsê khiến Đức Chúa nổi giận. Trình
thuật này là bài học quý giá cho người Kitô hữu. Chỉ trong Chúa Giêsu, ta mới
biết Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa
Cha” (Ga 14,9). Chỉ một mình Chúa Giêsu là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6). Vì thế, chỉ nơi Chúa Giêsu,
chúng ta mới nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải những
thần thánh con người tự tạo ra theo sở thích và ý muốn của mình.
Thánh
Phêrô và những Đấng kế vị ngài là những người Chúa chọn để lãnh đạo Dân Chúa
như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, “Anh là
Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và
quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Sức mạnh chống lại quyền
lực tử thần không phải là sức mạnh của cá nhân Phêrô nhưng là quyền năng của
Thiên Chúa hoạt động trong con người Phêrô cũng như trong các vị kế vị Thánh
Phêrô và các tông đồ. Chính tầm nhìn đức tin này dẫn ta đến thái độ vâng phục
đối với Đức Giáo hoàng là “nguyên lý và
nền tảng hữu hình, vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các giám mục cũng như giữa
các tín hữu” (Hiến chế Tín Lý Giáo
Hội, số 23).
7. Chương 35-40: Xây
dựng Nhà Chúa và Chúa hiện diện
a.
Xây dựng nhà Chúa, công
việc của mọi người (35,1 – 36,7)
Nội dung căn bản của
phần này là thi hành những mệnh lệnh Chúa đã truyền cách trực tiếp hay gián
tiếp. Vì thế ở đây nhắc lại những huấn lệnh căn bản. Trước hết là giữ ngày
sabát: “Trong sáu ngày, người ta sẽ làm
việc, nhưng đối với anh em, ngày thứ bảy sẽ là một ngày thánh, ngày sabát, ngày
nghỉ hoàn toàn, dành cho Đức Chúa” (35,2), kể cả không được đốt lửa trong
ngày sabát; kế đó là quyên góp vật liệu: “Anh
em hãy lấy của cải mình mà đóng góp vào việc thờ phượng Đức Chúa” (35,5),
kêu gọi các thợ thủ công: “Trong anh em,
ai là người khéo tay thì hãy đến thực hiện tất cả những gì Đức Chúa đã truyền”(35,10).
Công việc được bắt đầu tiến hành (36,1). Tác giả sách Xuất hành ghi nhận rằng
dân Ít-ra-en đã đáp ứng những mệnh lệnh của Chúa cách hết sức quảng đại
(35,20-29). Quả thật, họ rất phấn khởi và nhiệt thành đối với việc xây dựng Nhà
Chúa đến độ Môsê phải ra lệnh ngưng quyên góp vật liệu (36,2-6). Các thợ thủ
công cũng nhiệt tình đóng góp khả năng đề hoàn tất công việc. Điều đáng ghi
nhận ở đây là tất cả mọi người đều tham gia vào công việc xây dựng Nhà Chúa. Lịch
sử Hội thánh tại khắp nơi, cách riêng tại Việt Nam, tiếp tục làm chứng về nhiệt
tình đó. Dù cuộc sống vật chất còn thiếu thốn nhưng nhiều cộng đoàn tín hữu đã
sẵn sàng hy sinh tất cả, người góp công người góp của để xây dựng những ngôi
nhà thờ xứng đáng làm nơi Chúa ngự. Tinh thần này không thể chỉ ngưng lại ở
việc xây dựng nhà thờ vật chất nhưng còn cần được triển khai trong việc xây
dựng cộng đoàn Hội thánh. Đây không chỉ là việc của Linh mục nhưng là công việc
mọi thành phần Dân Chúa phải tham gia. Đó cũng là định hướng mục vụ mà các Giám
mục tại Á châu mong muốn triển khai, đó là xây dựng Hội thánh như một cộng đoàn
hiệp thông và một Giáo hội tham gia, trong đó mọi người đều ý thức mình thuộc
về Giáo hội và tham gia vào sứ mạng chung của Giáo hội.
b.
Đức Chúa chiếm hữu nhà
tạm (40,34-38)
Đối với nguồn văn tư tế
(P) thì Xi-nai chính là mẫu mực cho việc thờ phượng. Theo trình thuật về việc
Thiên Chúa ký kết giao ước với Dân trên núi Xi-nai (Xh 24,15-16), mây bao phủ
núi và vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai. Ở đây cũng thế, mây bảo phủ
thánh điện và vinh quang Đức Chúa ngập tràn thánh điện (40,34). Như thế Nhà Tạm
trong hành trình sa mạc cũng lấy lại kinh nghiệm trên núi Xi-nai. Sự kiện mây
bao phủ và ngự trị cũng là dấu ấn Thiên Chúa chấp nhận tất cả những gì mà Môsê
và dân đã làm, nghĩa là Đức Chúa chiếm hữu Nhà Tạm. Đây cũng là kinh nghiệm của
Ít-ra-en khi vinh quang Đức Chúa ngập tràn đền thánh thời Sa-lô-môn, và các tư
tế không thể thi hành nhiệm vụ vì đám mây bao phủ (1V 8,10-11). Cột mây và đám
lửa cũng là dấu hiệu cho dân Ít-ra-en biết khi nào hạ trại và khi nào nhổ trại
(Ds 9,15-23). Hình tượng đám mây vẫn được Thánh Kinh Tân Ước vận dụng để diễn
tả sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi truyền tin cho Mẹ Maria, sứ thần loan báo: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền
năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). Khi kể lại việc Chúa
Giêsu biến hình trên núi thánh, các thánh sử ghi nhận: “Ông Phêrô còn đang nói thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi
thấy mình ở trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng:
“Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”(Lc 9,
34-35). Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa hiện diện giữa loài người. Ngày nay Ngài
không còn hiện diện cách hữu hình nhưng vẫn tiếp tục hiện diện trong bí tích
Thánh Thể. Nhà Tạm, nơi cất giữ Thánh Thể, là Nhà của Thiên Chúa ở giữa chúng
ta. Vì thế, “đặt Nhà Tạm đúng chỗ trong
nhà thờ giúp nhận biết sự hiện diện thật của Chúa Kitô trong bí tích Thánh thể.
Do đó, vị trí nơi cất giữ bánh Thánh Thể phải được mọi người trông thấy ngay
khi bước vào nhà thờ, một phần cũng nhờ ánh đèn chiếu sáng liên tục làm dấu
hiệu” (Đức Bênêđictô XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis, số 74).
CUỐN SÁCH 3
SÁCH LÊ-VI (Lv)
1. Tổng quát
Sách Lê-vi là cuốn sách
về sự thánh thiện, về Thiên Chúa chí thánh và về một dân được gọi là thánh.
Theo từ nguyên, “thánh” trong tiếng Hípri có nghĩa là “được cắt riêng ra, tách
ra” có ý nói đến sự tách biệt giữa thánh thiện và phàm tục. Sách Lêvi đưa ra
một định hướng và những chỉ dẫn cụ thể cho việc nên thánh, được tập trung vào
lời mời gọi: “Các ngươi phải thánh thiện,
vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (19,2).
Tên gọi của sách này là
sách Lê-vi vì cuốn sách mô tả những hoạt động của các tư tế thuộc chi tộc Lê-vi.
Tuy nhiên trong bản văn Thánh Kinh Do Thái, tên gọi của sách này là một từ Do
Thái có nghĩa là “Ngài đã gọi”. Như thế, nội dung sách nhấn mạnh đến ơn gọi và
ơn gọi căn bản là sống thánh thiện được trình bày cụ thể trong bộ luật về sự
thánh thiện (chương 17-26). Sách Lê-vi là cuốn sách thứ ba trong Kinh Thánh Cựu
Ước. Sách gồm có 27 chương, được viết vào khoảng năm 1450-517 TCN, không rõ tác
giả là ai, truyền thống cho là ông Môsê (Dẫn
nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Lêvi gồm
có 27 chương:
Chương |
Chương |
1. Nghi
thức các lễ tế: Lễ
toàn thiêu - |
15. Ô uế về sinh dục |
2. Lễ phẩm |
16. Ngày xá tội |
3. Hy lễ kỳ an |
17.
Luật về sự thánh thiện: Sát sinh. Các lễ vật |
4. Lễ tạ tội |
18. Những điều cấm đoán
về sinh dục |
5. Một số trường hợp
phải dâng lễ tạ tội - Lễ tạ tội cho một thường dân (tiếp) |
19. Chỉ thị về luân lý
và phụng tự |
6. Hàng tư tế và các lễ
tế |
20. Quy định về hình
phạt |
7. Quyền lợi của các tư
tế - Quy tắc chung - Phần của tư tế |
21. Sự thánh thiện của
hàng tư tế |
8. Lễ
tấn phong tư tế: Nghi
thức thánh hiến |
22. Phải thánh mới được
ăn của thánh |
9. Các tư tế nhậm chức |
23. Nghi thức cử hành
các lễ trong năm |
10. Quy định bổ sung |
24. Quy định bổ sung về
nghi lễ - Nói phạm thượng. Luật báo phục tương xứng. |
11.
Liên quan đến thanh sạch và ô uế: Loài vật thanh sạch và loài vật ô uế - Đụng
vào loài vật ô uế |
25. Các năm thánh -
Thiên Chúa bảo đảm về năm sa-bát - Chuộc đất, chuộc nhà - Chuộc người |
12. Thanh tẩy đàn bà mới
ở cữ |
26. Các lời chúc phúc -
Các lời nguyền rủa |
13. Bệnh phong hủi ở
người - Quy chế người phong hủi |
27. Phụ
lục - Quy
định đặc biệt về việc chuộc lại những của thánh hiến |
14. Thanh tẩy người
phong hủi |
|
Những phần chính trong sách Lêvi:
Phần I (1-7) Nghi thức các lễ tế
Phần II (8-10) Nghi thức tấn phong tư tế
Phần III (11-16) Luật liên quan đến sự thanh
sạch về lề luật
Phần IV (17-26) Luật về sự thánh thiện
Phần V (27) Tóm kết
2. Chương 1-16
a. Lễ
toàn thiêu (1,1-17)
Mới nhìn thoáng qua, ta chỉ thấy những quy định quá tỉ mỉ về
Lề luật xem ra có vẻ nặng hình thức. Vì thế cần phải khám phá lại ý nghĩa hàm
ẩn bên trong những quy định này. Theo nguyên ngữ trong tiếng Hipri, “toàn
thiêu” chỉ có nghĩa đơn giản là “đi lên”. Như thế, ý nghĩa đầu tiên của lễ toàn
thiêu là sự khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng ban cho ta quà tặng sự sống, bây
giờ của lễ (bò, chiên hay chim) được dâng lên cho Chúa bằng cách đốt cháy của
lễ. Khói bốc lên cùng với hương bay lên là hương thơm làm vui lòng Đức Chúa “Tư tế sẽ đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn
thờ, trên củi đặt trên lửa. Đó là lễ toàn thiêu, lễ hỏa tế, là hương thơm làm
vui lòng Đức Chúa”(1,17). Ngoài ra, những quy định Lề luật trên đây còn
nhằm dạy cho Dân Chúa bài học về sự vâng phục. Trong tương quan giao ước với
Thiên Chúa, dân Ít-ra-en cần phải học vâng phục. Không có sự vâng phục, không
thể có sự thánh thiện. Nguy cơ là người ta chỉ còn tuân giữ những hình thức tỉ
mỉ bên ngoài mà quên mất ý nghĩa đích thực của lễ tế. Các tiên tri đã lên tiếng
cảnh giác điều này nhiều lần, và Chúa Kitô đã đến để khôi phục ý nghĩa đích
thực của lễ tế. Tác giả thư Do Thái đã diễn tả rõ ràng: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế,
nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá
tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý
Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-8).
b. Thanh sạch theo lề luật
Các chương 11-16 trong
sách Lê-vi bàn đến sự thanh sạch. Lời mời gọi căn bản vẫn là: “Các ngươi phải nên thánh và phải thánh
thiện, vì Ta là Đấng Thánh. Các ngươi đừng làm cho chính mình ra ô uế vì các
loài vật nhỏ bò trên đất. Thật vậy, Ta là Đức chúa, Đấng đã đưa ngươi từ đất Ai
Cập lên, để Ta làm Thiên Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện vì
Ta là Đấng Thánh” (11,44-45). Muốn nên thánh, phải thanh sạch, cho nên sách
Lê-vi đưa ra những quy định Lề luật về sự thanh sạch. Các chương 11-12 nói đến
sự thanh sạch của những thứ được con người đưa vào trong cơ thể của mình: thực
phẩm nào là sạch hay dơ, tình trạng ô uế của phụ nữ khi sinh con. Các chương
13-14 nói đến những ô uế bên ngoài như da thịt, quần áo. Chương 15 bàn đến
chuyện sạch bẩn của những gì từ cơ thể con người phát ra, cách riêng về sinh
dục. Chương 16 bàn đến Ngày xá tội, tức là cầu nối giữa cái thanh sạch và sự
thánh thiện. Ngày nay, người đọc có thể cảm thấy khó chịu với những quy định
quá tỉ mỉ và nặng hình thức này. Tuy nhiên không nên quên ý nghĩa căn bản của
những quy định này là liên kết sự thanh sạch với sự thánh thiện, và tuân giữ
những quy định Lề luật về sạch-bẩn là con đường dẫn đến sự thánh thiện.
c. Con dê chuộc tội (16,20-28)
Có hai con dê và một bò tơ được dùng để
làm lễ tạ tội. Một con dê được sát tế làm lễ tạ tội. Một con dê khác nhận lấy
tội lỗi của cộng đoàn – qua việc đặt tay của A-ha-ron – và sau đó được thả vào
sa mạc. Như thế, một con dê biểu thị cho việc thanh tẩy thánh điện, và một con
biểu thị việc xá tội cho dân: “A-ha-ron
sẽ đặt hai tay lên đầu con dê còn sống, sẽ xưng thú trên con vật mọi lỗi lầm
của con cái Ít-ra-en, mọi việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi
chúng. Nó sẽ trút cả lên đầu con dê, rồi sẽ dùng tay một người đang chờ sẵn mà
thả vào sa mạc. Con dê sẽ mang trên mình mọi lỗi lầm của chúng vào hoang địa”(16,
21-22). Ngày nay người Do Thái vẫn tiếp tục cử hành Ngày xá tội (Yom Kippur).
Đó là ngày quan trọng để người ta hòa giải với mọi thành viên trong cộng đoàn
và để được Thiên Chúa tha tội. Khi thánh Mátthêu viết: “Hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã,
rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,24) là Ngài nhắc đến điều này. Đồng
thời khi cử hành Ngày xá tội, người Do Thái đọc Is 57,14 – 58,14, tức là nhấn
mạnh đến việc canh tân nội tâm qua việc ăn chay: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích
bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi
gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo
không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm
ngơ trước người anh em cốt nhục?” Chay tịnh đích thực là ra khỏi bản thân,
quan tâm đến nhu cầu của tha nhân, đặc biệt những người nghèo khổ và bất hạnh,
và thay đổi đời sống mình. Là môn đệ Chúa Kitô, trình thuật về Ngày xá tội
không thể không nhắc ta nhớ đến Thứ Sáu Tuần Thánh, khi ta cử hành cuộc thương
khó của Chúa Giêsu, Đấng đã gánh mọi tội lỗi nhân loại trên vai Người, nhờ đó
ta được tha thứ. Trong ngày này, ta cũng được mời gọi ăn chay, không chỉ là một
vài kiêng khem theo luật định, nhưng là sự từ bỏ bản thân để chia sẻ với cuộc
thương khó của Chúa Cứu thế, để biết quan tâm đến người khác nhiều hơn, và như
thế được dẫn vào quỹ đạo tình yêu của Đấng đã chết và sống lại vì ta.
3. Chương 17-27
a. Tính thiêng thánh của máu (17,1-15)
Khi Thiên Chúa ngỏ lời
với nhân loại, Ngài đã chọn một ngôn ngữ cụ thể gắn với một nền văn hoá cụ thể.
Vì thế để hiểu Thánh Kinh, không thể không hiểu cách suy nghĩ và diễn đạt của
ngôn ngữ và văn hoá đó. Trong văn hoá Hípri, mọi sự được diễn tả cách cụ thể
chứ không trừu tượng. Chẳng hạn, chân lý, công bằng, hoà bình... không phải là
những ý niệm trừu tượng nhưng là những sự vật sống động. Vì thế, Thánh Kinh
diễn tả, “Ân tình và chân lý nay hội ngộ,
hoà bình và công lý hôn nhau. Chân lý mọc lên từ đất thấp, công bằng nhìn xuống
tự trời cao” (Tv 85,11-12). Tương tự như thế, sự sống không phải là một ý
niệm tổng quát nhưng được đồng hoá với máu. Máu là sự sống, mất máu là chết, và
cái chết hành động như một tên trộm lấy cắp sự sống: “Mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta đã ban máu cho các
ngươi ...Các ngươi không được ăn huyết của bất cứ xác thịt nào vì sự sống của
mọi xác thịt là máu nó; bất cứ ai ăn huyết sẽ bị khai trừ” (Lv 17,14). Có
như thế, ta mới hiểu được ý nghĩa của những quy định trong sách Lê-vi về việc
sát sinh. Mọi việc sát sinh, dù chỉ là tìm thức ăn, cũng phải trở thành lễ tiến
và hy lễ. Hành động đó là hành động nhìn nhận Thiên Chúa là nguồn sự sống, và
nhờ hành động đó, kẻ dâng lễ tế được tiếp tục sống. Trong trường hợp săn được
một con thú hoặc một con chim được phép ăn, thì phải lấy đất phủ lên máu của
con vật. Tương tự như vậy, khi làm công việc sao chép văn bản Thánh Kinh, nếu
một ký lục lỡ chép sai thì ông sẽ không xé trang đó đi và chép lại, nhưng phải
cẩn thận rút phần bị sai đó ra khỏi cuộn sách, để vào trong hộp nhỏ rồi đốt đi.
Tại sao lại như thế? Vì cũng như sự sống ở trong máu thì Thần Linh thánh thiện
cũng ở trong Lời Chúa. Dù đã có những thay đổi nhưng cho đến nay nhiều người Do
thái vẫn không ăn máu. Với người Kitô hữu, khi hiểu được ý nghĩa của máu trong
văn hoá Thánh Kinh như thế, ta cảm nghiệm sâu sắc hơn lời mời gọi của Chúa
Giêsu, “Tất cả anh em hãy uống chén này
vì đây là Máu Thầy, máu giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt
26,28). Lời mời gọi đó có nghĩa là: Hãy nên một với Thầy, nên một với sự sống
của Thầy.
c.
Năm
Toàn Xá (25,1-55)
Trong năm thứ bảy, đất
sẽ được nghỉ ngơi, một sabát kính Đức Chúa (25,4). Như thế Đức Chúa đã tách
riêng năm thứ bảy cho Ngài, trong năm đó đất được coi là thánh. Trong tháng thứ
bảy của năm thứ 49 và kéo dài sang năm 50, dân Chúa cử hành năm toàn xá. Trong
ngày xá tội, tù và được thổi lên để quy tụ dân, “Các ngươi sẽ công bố năm thứ 50 là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ
lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với các ngươi, đó sẽ là thời kỳ toàn
xá” (25,10). Dân chúng được trở về gia đình và đất đai của mình (câu 10).
Sẽ không gieo gặt trong năm đó (câu 11). Nếu dân tuân theo, họ sẽ được sống yên
hàn và đất đai sẽ trổ sinh hoa trái (câu 18-19). Trong năm toàn xá, người ta có
quyền chuộc lại đất (25,23-55), kể cả với những người không có khả năng chuộc
lại, “Nếu nó không kiếm được phương tiện
để trả tiền lại cho người kia, thì của nó bán sẽ ở lại trong tay người mua cho
đến năm toàn xá; đến thời kỳ toàn xá, của bán sẽ ra khỏi tay người mua, và
người bán sẽ trở về phần sở hữu của mình” (25,28). Thật ngỡ ngàng khi đọc
lại những quy định này trong sách Lê-vi. Ngày nay người ta nói nhiều đến việc
giải phóng người nghèo và bảo vệ môi sinh, và coi đó là những điều rất mới mẻ.
Thế nhưng từ nhiều thế kỷ trước, sách Lê-vi đã có những quy định rất cụ thể về
điều này. Như thế ta khám phá Thánh Kinh là một tác phẩm chất đầy tính nhân văn
và xã hội. Và nền tảng của những quy định này là: “Đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta”
(25,23). Chỉ Thiên Chúa mới là chủ sở hữu, còn mọi người đều là khách trọ, là
ngoại kiều. Khi con người loại bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài, chiếm đoạt quyền sở
hữu của Thiên Chúa, thì con người cũng biến tha nhân thành nô lệ cho mình, biến
thiên nhiên thành phương tiện sản xuất thuần túy. Đó là cội nguồn của tình
trạng bất công và áp bức, tàn phá và hủy diệt môi sinh. Hiểu như thế, những quy
định trong sách Lê-vi về Năm toàn xá là cả một hiến chương mời gọi nhân loại
không ngừng suy nghĩ lại về chính mình cũng như về xã hội. Cách riêng với người
tín hữu Chúa Kitô, những quy định về Năm toàn xá mời gọi ta suy nghĩ lại về
cách ta cử hành Năm toàn xá. Phải chăng ta chỉ chú trọng đến những cử hành
thiêng liêng mà không quan tâm gì đến những đòi hỏi và âm hưởng xã hội chính ra
phải có trong năm này? Phải chăng ta chỉ lo tuân giữ những quy định về việc đi
viếng nhà thờ hay tham dự các nghi lễ mà không quan tâm gì đến việc biến đổi
bản thân và lối sống hằng ngày của mình? Ngay trong cách cử hành thiêng liêng
để được hưởng ơn toàn xá, phải chăng ta cũng có những tính toán ích kỷ, dù là
ích kỷ về mặt thiêng liêng, để tìm phần rỗi cho riêng mình mà không quan tâm
đến sự giải thoát anh em?
CUỐN SÁCH 4
SÁCH DÂN SỐ (Ds)
1. Tổng quát
Cuốn sách thứ tư trong
bộ Ngũ Thư được gọi là sách Dân Số vì trong đó kể lại hai lần kiểm tra dân số
của các chi tộc Ít-ra-en (1,20-46 và 26,5-51) và chi tộc Lê-vi (3,14-51 và
26,57-62). Trong sách còn có những danh sách khác được tính bằng số, chẳng hạn
danh sách các nhân viên kiểm tra (1,5-15), danh sách các lễ vật cung hiến bàn
thờ (7,10-83), danh sách những người đi dò thám đất Ca-na-an (13,4-15), danh
sách các lễ vật được dùng trong những ngày lễ (28,1 – 29,38). Dù vậy, đây không
phải là nội dung chính của sách Dân Số. Câu chuyện trong sách Dân Số bắt đầu từ
sa mạc Xi-nai ngay sau khi ký kết giao ước, và kéo dài 40 năm cho đến lúc dân
chuẩn bị vào Đất Hứa. Đó là câu chuyện của Dân Chúa trong hành trình sa mạc
dưới sự lãnh đạo của Môsê và A-ha-ron. Chủ đề trung tâm của sách là sự hiện
diện của Đức Chúa với dân Người trong hành trình sa mạc. Chính Chúa cùng đi với
dân và hướng dẫn họ. Về phần dân, họ thường xuyên kêu la trách móc khiến Chúa
nổi giận, rồi lại xin Chúa tha thứ. Cần phải nhìn sách Dân Số như một giai đoạn
trong cả câu chuyện dài như thế, bắt đầu từ sách Sáng Thế với công trình tạo
dựng, rồi tiếp nối với công trình giải thoát và tuyển chọn Dân Chúa trong sách
Xuất hành, và sau đó là hành trình sa mạc tiến về Đất Hứa. Sách gồm có 36
chương, được viết vào khoảng năm 1450-517 TCN, không rõ tác giả là ai, truyền
thống cho là ông Môsê.
Chương |
Chương |
1. Kiểm
tra dân số: Nhân
viên kiểm tra - Cuộc kiểm tra - Quy chế các thầy Lê-vi |
19. Tro của bò cái màu
hung - Trường hợp nhiễm uế - Nghi thức dùng nước tẩy uế |
2. Thứ tự các chi tộc |
20. Mạch nước Mơ-ri-va -
Trừng phạt ông Mô-sê và ông A-ha-ron - Ê-đôm không cho mượn đường - Ông
A-ha-ron qua đời |
3. Chi tộc Lê-vi |
21. Chiếm Khoóc-ma - Con
rắn đồng - Những chặng đường sang hữu ngạn sông Gio-đan - Chiếm miền hữu ngạn
sông Gio-đan |
4. Các thị tộc Lê-vi -
Kiểm tra chi tộc Lê-vi |
22. Ông Bi-lơ-am và vua
Ba-lác |
5. Các
thứ lề luật: Loại
trừ những người nhiễm uế - Luật bồi hoàn - Luật về chuyện ghen tuông |
23. Lời sấm của Bi-lơ-am |
6. Luật về lời khấn
na-dia |
24. Lời sấm của Bi-lơ-am
(tiếp) |
7. Tế
phẩm: Dâng
các cỗ xe - Lễ vật trong nghi thức cung hiến - |
25. Ít-ra-en tại Pơ-o –
quy định mới: Kiểm tra dân sốt Ít-ra-en |
8. Các ngọn đèn trên
trụ đèn |
26. Kiểm tra các thầy
Lê-vi |
9. Lễ
vượt qua và cuộc lên đường: Ngày ăn mừng lễ Vượt Qua - Trường hợp đặc
biệt - Cột mây |
27. Gia tài cho con gái
- Ông Giô-suê làm thủ lãnh cộng đồng |
10. Kèn bạc - Thứ tự lên
đường - Ông Mô-sê đề nghị với ông Khô-váp - Cuộc lên đường |
28. Xác định về các hy
lễ |
11.
Những chặng đường trong sa mạc: Táp-ê-ra - Ông Mô-sê can thiệp - Chim cút |
29. Xác định về các hy
lễ (tiếp theo) |
12. Bà Mi-ri-am và ông
A-ha-ron phản đối ông Mô-sê - Lời chuyển cầu của ông A-ha-ron và ông Mô-sê |
30. Luật về các lời khấn
hứa |
13. Do thám đất Ca-na-an
- Báo cáo của đội do thám |
31. Thánh chiến chống
Ma-đi-an - Tàn sát phụ nữ và thanh tẩy chiến lợi phẩm - Phân chia chiến lợi
phẩm - Các lễ phẩm |
14. Ít-ra-en nổi loạn -
Cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA và lời chuyển cầu của ông Mô-sê - Tha thứ và trừng
phạt - Dân Ít-ra-en thất bại |
32. Phân chia vùng bên
kia sông Gio-đan |
15. Lề
luật về hiến tế: Của
dâng cúng kèm theo hiến tế - Bánh đầu mùa - Tẩy xoá những lầm lỗi vì vô ý -
Vi phạm ngày sa-bát - Tua áo |
33. Các chặng đường của
cuộc xuất hành - Phân chia đất Ca-na-an. Mệnh lệnh của Thiên Chúa. |
16. Cô-rắc, Đa-than và
A-vi-ram nổi loạn - Hình phạt |
34. Biên giới xứ
Ca-na-an - Việc chia đất |
17. Bình hương - Ông A-ha-ron
chuyển cầu - Cây gậy của ông A-ha-ron - Vai trò đền tội của tư tế |
35. Phần dành cho các
thầy Lê-vi - Các thành trú ẩn |
18. Phần dành cho tư tế
- Phần dành cho các thầy Lê-vi - Thuế thập phân |
36. Gia nghiệp của phụ
nữ có chồng |
2. Chương 1-12
a. Lời
khấn Na-dia (6,1-21)
Trước hết cần đặt bản
văn này trong bối cảnh Dân Chúa chuẩn bị vào Đất Hứa. Trong bối cảnh đó, sách
Dân Số nhấn mạnh đến sự thánh thiện và thanh khiết của cộng đoàn đức tin. Do
đó, tác giả lồng vào đây bản văn về lời khấn na-dia, tức là nói đến sự thánh
hiến, sự tận hiến hoàn toàn của những cá nhân cho Chúa. Người khấn na-dia dâng
mình cho Đức Chúa (câu 21) trong một thời gian (câu 4,5,6,8,12,13). Truyền
thống giữ lời khấn này còn được duy trì rất lâu trong dân Chúa, ví dụ trường
hợp Sam-sôn (Tl 13,5) và Sa-mu-en (1Sm 1,11). Truyền thống này vẫn được tiếp
tục đến thời thánh Gioan Tẩy giả (Lc 1,15) và thánh Phaolô (Cv 18,18;
21,23-26). Bản văn về lời khấn nadia (6,1-21) gồm ba đoạn độc lập: các câu 3-8
mô tả những điều kiện và lề luật người khấn na-dia phải giữ, các câu 9-12 nói
đến việc thanh tẩy trong trường hợp bị ô uế, và các câu 13-21 đưa vào nghi thức
cử hành khi thời gian khấn chấm dứt. Ở đây ta chỉ tập trung vào đoạn 1 (6,3-8),
theo đó người khấn na-dia phải tuân giữ ba điều liên quan đến ăn uống, cắt tóc
và tránh xác chết. Người khấn na-dia phải kiêng rượu và men nồng, “không được uống mọi thứ nước nho, không được
ăn nho tươi cũng như nho khô” (câu 3-4). Rượu nho tượng trưng cho văn hoá
thành thị, đời sống ổn định tiện nghi với mức sống cao, tức là những khoái lạc
ngược với lối sống thanh đạm (Amos 4,1; 6,6). Kế đó, “dao cạo không được đụng đến đầu... phải để cho tóc mọc tự nhiên”
(câu 5) vì tóc được coi là dấu chỉ của sự thánh hiến, dấu chỉ phân biệt người
dâng mình cho Chúa. Ở đây nên nhớ đến câu truyện về Sam-sôn bị cạo đầu và mất
sức mạnh. Người khấn nadia còn “không
được tới gần xác chết... kể cả cha mẹ hay anh chị em qua đời” (câu 6-7).
Thời xưa người ta tin rằng có mối liên hệ mật thiết giữa chết chóc và sự ác. Sự
ác phát xuất từ xác chết và làm cho bất cứ ai chạm đến xác chết bị ô uế, do đó
không xứng đáng với Thiên Chúa. Sự hiện diện của những người khấn na-dia là lời
nhắc nhớ thường xuyên cho tất cả cộng đồng rằng họ phải hiến dâng chính mình
cho Chúa như thế nào. Cũng vì thế, có nhiều người khó chịu về sự hiện diện đó
và tìm cách gài bẫy họ như A-mốt nhắc tới, “Các
ngươi đã bắt các na-dia uống rượu, và ra lệnh cho các tiên tri: các ông không
được nói tiên tri” (Am 2,12).
Những ghi nhận về lời
khấn na-dia khiến ta liên tưởng đến những người sống đời thánh hiến ngày nay,
những anh chị em sống theo ba lời khấn: khó nghèo, khiết tịnh, và vâng phục. Sự
hiện diện của người sống đời thánh hiến là lời nhắc nhớ cho tất cả cộng đoàn
Hội Thánh rằng chính Thiên Chúa và Nước Trời mới là kho tàng quý giá nhất mà ta
phải kiếm tìm, là nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu, và phụng sự Chúa chính
là đường dẫn đến tự do đích thực. Đồng thời sự hiện diện của những người sống
đời thánh hiến cũng là dấu chỉ phản kháng lối sống duy vật và hưởng thụ, và mời
gọi con người tìm lại những giá trị tinh thần cao quý, gắn liền với phẩm giá
con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa.
b. Cột mây (9,15-23)
Trong Thánh Kinh, mây
là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Mây đã dẫn dân ra khỏi Ai Cập (Xh 13,21-22)
và che giấu họ khi quân Ai Cập tới gần (Xh 14,19.24). Mây cũng dẫn đường cho
dân trong suốt hành trình sa mạc. Mây che phủ Nhà Tạm ban ngày, và ban đêm
trông như lửa (9,15-16). Với hình tượng cột mây như dấu chỉ hiện diện của Chúa,
sách Dân Số nhấn mạnh sự hiện diện của Chúa trong hành trình sa mạc, đồng thời
nhấn mạnh hai điều. Một là chính cột mây quyết định dân sẽ dừng lại hay đi tiếp
(câu 19-22); như thế, việc lên đường hay dừng lại không do dân quyết định mà là
do Chúa. Kế đến, Đức Chúa nói với dân qua đám mây. Qua đám mây, họ nhận ra lệnh
của Đức Chúa (câu 18,19,23) và làm theo. Sau khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy,
người Kitô hữu bước vào hành trình dài tiến về Nước Trời. Trong hành trình đó,
ta không đi một mình nhưng chính Chúa đồng hành với ta như Người đã đồng hành
với dân Ít-ra-en trong sa mạc. Sự hiện diện và đồng hành của Chúa được thể hiện
qua nhiều dấu chỉ. Liệu ta có đủ tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ đó không,
và ta đáp trả những dấu chỉ đó như thế nào?
3. Chương 13-24
a. Ít-ra-en nổi loạn và Thiên Chúa nổi giận
(14,1-19)
Khi
nghe những người do thám trở về tường thuật về miền đất chảy sữa và mật nhưng
khó lòng chiếm được vì dân cư quá hùng mạnh, cả cộng đồng cằn nhằn trách móc
Môsê và A-ha-ron, và họ cho rằng thà trở về Ai Cập hay chết trong sa mạc còn
hơn (câu 3-4). Như thế là họ phủ nhận chính Chúa, Đấng giải thoát họ. Môsê và A-ha-ron
không biết phải giải quyết thế nào. Ca-lép và Giô-suê ra sức thuyết phục dân
nhưng vô hiệu. Họ đòi ném đá các ông nếu Chúa không can thiệp (câu 10). Thiên Chúa than phiền với Môsê
về thái độ cứng lòng của dân, dù Người đã làm biết bao dấu lạ (câu 11). Và
Người đe doạ sẽ dùng ôn dịch mà đánh phạt dân (câu 12). Chính ở đây, ta gặp
được chân dung của Môsê, nhà lãnh đạo tuyệt vời của Dân Chúa. Ông can ngăn Chúa
đừng xử phạt dân bằng những lời lẽ thống thiết nhất, và ông khẳng định rằng
quyền năng Chúa không được tỏ hiện qua việc trừng phạt nhưng qua “kiên nhẫn và giàu ân nghĩa, chịu đựng lỗi
lầm và tội ác nhưng không dung tha điều gì”(câu 17-18). Dù đã chứng kiến bao kỳ công Chúa thực hiện, dù đã cảm nghiệm tình
thương che chở của Thiên Chúa, khi gặp phải thử thách, dân Ít-ra-en lập tức
than phiền trách móc và đòi trở về miền đất nô lệ, nghĩa là họ vẫn không tin
vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Kinh nghiệm này được lập lại
trong đời sống đức tin của mỗi người. Dù vẫn nghĩ là mình tin Chúa và cảm
nghiệm được tình thương của Người, ta vẫn không thực sự tin tưởng và phó thác
đời mình trong tay Chúa, đặc biệt là khi phải đối diện với những gian nan thử
thách. Và vì thiếu niềm tin, ta dễ dàng đi tìm những phương thế và sức mạnh
trần gian để cậy dựa cuộc đời mình. Vì thế trình thuật về sự nổi loạn của dân Ít-ra-en
trong sa mạc phải là tấm gương phản chiếu cho ta suy nghĩ lại thái độ sống đức
tin của mình.
b. Rắn đồng (21,4-9)
Đây là câu truyện cổ xưa nhằm giải thích tại sao lại có con rắn
đồng trong Đền thờ Giêrusalem. Sách Các Vua kể rằng vua Khít-ki-gia đã ra lệnh
“đập tan con rắn đồng Môsê đã làm vì cho
đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó” (2V 18,4). Trình thuật về rắn đồng cũng
diễn ra giống như những trình thuật về sự nổi loạn của dân Ít-ra-en: nổi loạn –
hình phạt – can thiệp – tha thứ (x.11,1-3; 12,2-16; 17,6-15; 21,4-9). Dân chúng
lại than phiền vì không có bánh ăn và nước uống, và chỉ mong trở lại Ai Cập
(câu 5). Đức Chúa bèn ra hình phạt bằng cách để cho rắn độc xuất hiện, và nhiều
người phải chết. Dân lại chạy đến với Môsê xin ông can thiệp. Đức Chúa nhận lời
cầu khẩn của Môsê và sai ông làm một con rắn, treo lên một cây cột. Những ai bị
rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, sẽ được sống. Ở đây không phải là chuyện con
rắn mà là chuyện của đức tin và vâng phục. Nhìn lên con rắn đồng mà chính Chúa
đã truyền cho Môsê làm là thái độ diễn tả sự vâng phục đối với mệnh lệnh của
Chúa và tin vào Người. Điều đặc biệt đáng quan tâm là Thiên Chúa đã không dùng
một phương thế nào khác để chữa lành cho dân, nhưng đã lấy chính hình tượng con
rắn là con vật gây bệnh tật và chết chóc, để chữa lành cho họ.
Chúa Giêsu đã nhắc lại hình ảnh rắn đồng để nói về ơn cứu độ, “Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc
thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào
Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14). Và khi kể lại việc một người lính
lấy ngọn giáo đâm vào cạnh sườn Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, thánh
Gioan đã nhắc lại lời Thánh kinh, “Họ sẽ
nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37). Thiên Chúa đã thực hiện công
trình cứu độ bằng đường lối thật lạ lùng. Thập giá vốn bị coi là hình phạt nặng
nề dành cho những phạm nhân ghê gớm lại trở thành phương thế cứu độ nhân loại
nếu ta biết nhìn lên Đấng chịu đóng đinh với tất cả tin yêu và hy vọng. Quả
thật, “trong khi người Do thái đòi những
điềm thiêng dấu lạ, còn người Hi lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại
rao giảng Đấng Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không
thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1Cr 1,22-23).
4. Chương 25-36
a. Giô-suê kế nhiệm Môsê (27,12-23)
Giai
đoạn lãnh đạo của Môsê sắp chấm dứt. Đức Chúa ra lệnh cho Môsê đi đến dãy núi
A-va-rim, đến Ho là nơi A-ha-ron đã qua đời (20,22-26) để từ đó nhìn thấy Đất
Hứa (x.Đnl 32,48-52; 33,47; 34,1-6). Đức Chúa cũng cho biết Môsê sẽ không được
vào Đất Hứa vì sự bất trung của dân tại Mơ-ri-va (x. 20,2-13). Mối quan tâm cuối cùng của Môsê
là làm sao dân Chúa có người lãnh đạo “để
cộng đồng của Đức Chúa đừng giống như đàn chiên không có mục tử chăn dắt”
(27,17). Môsê quả là vị lãnh đạo mẫu mực. Ông không nghĩ đến bản thân mình. Dù
không được đặt chân vào Đất Hứa sau bao nhiêu khó nhọc phải chịu vì dân, ông
cũng không buồn phiền khó chịu, mà chỉ nghĩ đến ích lợi của dân, ước mong dân
có được người lãnh đạo tốt nhất. Theo nguyên văn, vị lãnh đạo này là người sẽ “ra vào trước họ và dẫn họ ra vào”
(27,17). Đây là những từ chuyên môn để mô tả vai trò lãnh đạo về chính trị và
quân sự (x.1Sm 18,13.16; 29,6; Gs 14,10-11). Như thế, người kế vị Môsê sẽ dẫn
dắt dân trong những cuộc chiến chinh phục đất đai và định cư trên vùng đất mới.
Người được chọn là Giô-suê, con của Nun. Ông là người có thần khí
nơi mình và đã chứng tỏ có khả năng lãnh đạo (x.11,28; 14,6.30.38). Nghi thức
trao quyền cho thấy sự phân biệt giữa vai trò của tư tế và vai trò của nhà lãnh
đạo chính trị. Giô-suê đứng trước mặt tư tế E-la-da và toàn thể cộng đồng, và Môsê
đặt tay trên ông (27,18), một cử chỉ nói lên việc trao quyền bính cho người kế
vị. Tuy nhiên, nếu Môsê là người đã lãnh nhận những chỉ thị trực tiếp từ Đức
Chúa (x. 12,6-8), thì Giô-suê sẽ nhận sự hướng dẫn qua vị tư tế. Tư tế sẽ “đến trước nhan Đức Chúa mà xin thẻ xăm Urim”
cho Giô-suê; nhờ đó Giô-suê biết được quyết định của Chúa. Với nghi thức này, Giô-suê lãnh nhận quyền bính từ Môsê, để “toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nghe lời
ông’ (27,20). Thế nhưng Giô-suê và bất cứ vị lãnh đạo nào sau này cũng
không thể sánh với Môsê được. Những chi tiết trong trình thuật muốn diễn tả vai
trò đặc biệt của Môsê trong toàn bộ lịch sử Ít-ra-en. Trình thuật này cũng cho
thấy từ thời Giô-suê, có sự phân biệt giữa quyền bính của các tư tế và quyền
lực chính trị. Đây là vấn đề được quan tâm nhiều trong thời hậu lưu đày (x. Ed
45,17; 46,2). Trình thuật này giúp ta ý thức về vai trò của
các vị lãnh đạo trong Giáo Hội. Sự tuyển chọn không đến từ con người nhưng đến
từ chính Thiên Chúa. Môsê đã không tự chọn, ông chỉ nói lên tâm nguyện của
mình, và chính Chúa sai Môsê chọn Giô-suê. Việc chọn lựa này phát xuất từ tấm
lòng yêu thương của Chúa dành cho dân để họ không phải bơ vơ như đoàn chiên
không có người chăn dắt. Do đó người lãnh đạo được chọn không để thoả mãn bất cứ
tham vọng cá nhân nào của họ nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ dân, và đó cũng là
thước đo giá trị của việc lãnh đạo.
b. Phân
chia đất Ca-na-an (33,50-56)
Nhiệm vụ đầu tiên khi qua sông Gio-đan và vào đất Ca-na-an là đuổi
mọi dân cư ở đó ra khỏi đất, và phá hủy mọi “hình ảnh, tượng đúc, nơi cao” của họ (33,51). Ngày nay, trong một
thời đại đề cao sự khoan dung tôn giáo, ta cảm thấy mệnh lệnh này thật khó hiểu
và khó chấp nhận. Thiết nghĩ phải đặt mệnh lệnh này vào trong đúng bối cảnh của
nó. Tác giả nhấn mạnh đây là miền đất Đức Chúa ban cho Ít-ra-en làm gia nghiệp,
và đó cũng là dấu chỉ giao ước giữa Đức Chúa và dân Ít-ra-en (33,54). Tương
quan giao ước đòi hỏi tình yêu và sự trung thành tuyệt đối. Vì thế trên miền
đất của giao ước, không thể tồn tại bất cứ cái gì không thuộc về Thiên Chúa của
Ít-ra-en. Cũng vì thế, nếu mệnh lệnh này
không được tuân giữ thì dân sẽ phải chịu lời nguyền rủa: “Nếu các ngươi không đuổi các dân cư trong xứ cho khuất mắt, thì những
kẻ các ngươi để sót lại sẽ nên như gai chọc mắt, như mũi nhọn đâm sườn; chúng
sẽ quấy rối các ngươi trên đất các ngươi ở. Và bấy giờ, Ta sẽ đối xử với các
ngươi như Ta đã định đối xử với chúng” (33,55-56). Sau này, trong cảnh lưu
đày, dân Ít-ra-en sẽ thấm thía những lời này hơn bao giờ. Đức Chúa cũng ra những chỉ thị cụ thể về việc phân chia đất: “Các ngươi sẽ bắt thăm để chia nhau đất ấy
làm gia nghiệp…” (33,54). Việc bắt thăm làm nổi bật ý nghĩa đây là miền đất
Thiên Chúa ban cho Ít-ra-en chứ không phải do họ tự chiếm được. Riêng chi tộc
Lê-vi, vì không có phần đất riêng làm gia nghiệp, nên mỗi chi tộc phải nhường
một số thành của mình làm nơi ở và sinh sống cho những người thuộc chi tộc Lê-vi
(35,2-5). Như thế, nội dung căn bản ở đây là đòi hỏi trung thành triệt để và
không khoan nhượng. Đã ký kết giao ước với Thiên Chúa, dân phải sống tương quan
giao ước đó cách triệt để và trọn vẹn. Âu cũng là đòi hỏi tất yếu của bất cứ
tương quan tình yêu nào. Tình yêu vợ chồng tự nó lại chẳng hàm chứa đòi hỏi
triệt để và trọn vẹn như thế sao? Nếu ta đọc bản văn này từ tầm nhìn của giao
ước tình yêu như thế, đây sẽ là bản văn rất đáng để suy gẫm cho đời sống đức
tin, cho tương quan giao ước mà ta đã ký kết với Thiên Chúa, để xem mình đã
sống tương quan đó ra sao, và cần phải sửa đổi những gì.
CUỐN SÁCH 5
SÁCH ĐỆ NHỊ LUẬT (Đnl)
1.
Tổng quát
Đệ
nhị luật là một trong những cuốn sách quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn trong
Thánh Kinh Cựu Ước. Nội dung chính của sách là ba diễn từ của Môsê nói với dân Ít-ra-en
trước khi họ qua sông Gio-đan tiến vào Đất Hứa. Mục đích là củng cố niềm tin
của dân vào Thiên Chúa và kêu gọi họ trung thành với giao ước đã ký kết với
Thiên Chúa. Đệ nhị luật có nghĩa là luật thứ nhì. Người ta gọi vậy vì trong
Thánh Kinh, luật này đến sau bộ luật trong các Sách Lê-vi và Dân số. Các tác
giả Đệ Nhị Luật là những vị tư tế và các ngôn sứ đã tóm lược trong các trang
sách những kinh nghiệm mà dân đã từng trải qua trong lịch sử. Sách này biên
soạn khởi đầu vào thế kỷ VII TCN. Sách Đệ Nhị Luật gồm có 34 chương.
Chương |
Chương |
1.
Những diễn từ mở đầu: Khung cảnh thời gian và không gian - Những chỉ thị cuối
cùng ở núi Khô-rếp - Ở Ca-đê, dân không chịu tin vào ĐỨC CHÚA - Huấn thị của
ĐỨC CHÚA tại Ca-đê |
18. Hàng tư tế Lê-vi -
Các ngôn sứ |
2. Từ Ca-đê đến thung
lũng Ác-nôn - Chúng ta đã qua thung lũng De-rét - Đánh chiếm vương quốc vua
Xi-khôn - |
19. Kẻ sát nhân và các
thành làm nơi ẩn náu - Các ranh giới - Các nhân chứng |
3. Đánh chiếm vương
quốc vua Ốc - Chia đất bên kia sông Gio-đan - Chỉ thị cuối cùng của ông Mô-sê |
20. Chiến tranh và các
chiến binh - Đánh chiếm các thành |
4. Giữ luật Chúa là
khôn ngoan - Mặc khải tại núi Khô-rếp - Dân sẽ bị phạt và trở về với Chúa -
Được Chúa chọn là một hồng ân - Ba thành làm nơi ẩn náu |
21. Trường hợp không tìm
ra kẻ sát nhân - Cưới phụ nữ bị bắt trong chiến tranh - Quyền trưởng nam -
Đứa con bất trị - Những chỉ thị khác |
5. Mười điều răn - Ông
Mô-sê làm trung gian - Yêu mến Chúa: điểm chủ yếu của lề luật |
22. Xúc phạm đến danh dự
một thiếu nữ - Ngoại tình và thông dâm |
6. Kêu gọi trung thành |
23. Những người không
được tham dự đại hội - Giữ trại cho thanh sạch - Luật xã hội và luật phượng tự |
7. Ít-ra-en, một dân
được tách riêng ra - Chúa chọn và ưu đãi Ít-ra-en - Quyền lực của Thiên Chúa |
24. Ly dị - Biện pháp
bảo vệ |
8. Thử thách trong sa
mạc - Đề phòng các cám dỗ khi vào đất hứa |
25. Luật về anh em chồng
- Không được khiếm nhã trong khi ẩu đả |
9. Chiến thắng là nhờ
Chúa, chứ không phải vì Ít-ra-en công chính - Dân phạm tội tại núi Khô-rếp.
Ông Mô-sê cầu thay cho dân. |
26. Sản phẩm đầu mùa
–Những diễn từ kết thúc: Ít-ra-en là dân của ĐỨC CHÚA |
10. Chúa truyền làm Hòm
Bia. Chi tộc Lê-vi được chọn - Cắt bì trong tâm hồn |
27. Ghi khắc Luật vào
đá. Các nghi lễ. |
11. Kinh nghiệm của
Ít-ra-en |
28. Các lời chúc phúc - Các
lời nguyền rủa |
12. Bộ Đệ nhị luật: Chỉ dẫn về việc dâng lễ tế - Đừng bắt chước các
việc tế tự của người Ca-na-an |
29. Ôn lại lịch sử -
Viễn tượng lưu đày |
13. Đề phòng kẻo bị lôi
cuốn thờ thần ngoại |
30. Trở về từ chốn lưu
đày. Trở lại với Chúa - Hai con đường |
14. Cấm một vài tập tục
tang chế - Loài vật thanh sạch và loài vật ô uế - Thuế thập phân hàng năm -
Thuế thập phân ba năm một lần |
31. Sứ mạng của ông
Giô-suê - Nghi thức công bố luật - Huấn thị của ĐỨC CHÚA - Bài ca làm chứng -
Đặt Luật bên Hòm Bia - Tập hợp dân để nghe bài ca |
15. Năm sa-bát - Người
nô lệ - Các con đầu lòng |
32. BÀI CA CỦA ÔNG MÔ-SÊ |
16. Các đại lễ: lễ Vượt
Qua, lễ Bánh Không Men - Các đại lễ khác - Các thẩm phán |
33. Những lời chúc phúc
của ông Mô-sê |
17. Các thẩm phán Lê-vi
- Các vua |
34. Ông Mô-sê qua đời |
2. Chương 1-11
–
1,1–4,43: Diễn từ thứ nhất của Môsê. Môsê khuyến cáo dân phải học bài học của
quá khứ nếu muốn vững chắc trong tương lai. Trung tín sẽ được ân thưởng, ngược
lại, bất trung sẽ mang lại án phạt.
–
4,44 –11,32: Phần đầu trong diễn từ thứ hai của Môsê trước khi trình bày bộ Đệ
Nhị Luật. Phần này có nhiều điểm quan trọng: Mười điều răn (5,1-6,3), Tình yêu
của Chúa (6,4-25), Ít-ra-en là dân thánh (7,6-26), Điều răn lớn (10,12– 11,32).
a. Ít-ra-en, dân được thánh hiến (Đnl
7,1-12)
Môsê
nói với dân, “Anh em là một dân được
thánh hiến cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa đã chọn anh em từ giữa
muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người” (Đnl 7,6). Trong phần trước (7,1-5), Môsê
đưa ra những chỉ thị cấm dân Ít-ra-en quan hệ với các dân khác. Việc cấm đoán
này không phát xuất từ sự tự mãn nhưng từ ý thức rằng Ít-ra-en đã được Thiên
Chúa tuyển chọn, và nếu không cố gắng, họ sẽ không thể chu toàn trách nhiệm
trước mặt Chúa. Thánh hiến là được tách riêng ra để thuộc
quyền sở hữu của Chúa. Ít-ra-en đã được tách riêng ra khỏi các dân. Lề luật
được ban cho họ nhằm giúp họ duy trì mối quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Nền
tảng của mối quan hệ này không phải là những phẩm chất cao quý của họ nhưng
chính là tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, Đấng đã chọn một dân nhỏ bé
trong các dân. Vì thế được tuyển chọn chính là một hồng ân (x. Đnl 4,32-38).
Kitô
hữu là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân
thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng
đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1Pr
2,9-10). Việc tuyển chọn này cũng không phát xuất từ những ưu điểm về mặt nhân
loại của ta, nhưng hoàn toàn phát xuất từ tình thương vô điều kiện của Thiên
Chúa. Ý thức này thúc đẩy ta sống đời Kitô hữu trong tâm tình tạ ơn và khiêm
tốn. Hơn ai hết, Mẹ Maria chính là mẫu mực cho ta sống những tâm tình này như
Mẹ diễn tả trong lời kinh tạ ơn (Magnificat).
b. Kinh
nguyện hồi tưởng (Đnl 8,1-20)
Môsê nhấn mạnh đến việc “nhớ lại” những hành động yêu thương của
Chúa, “Anh em phải nhớ lại tất cả con
đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm
nay trong sa mạc” (8,2). Nhớ lại hành động giải thoát của Chúa khi đưa dân
khỏi Ai cập cũng như sự quan phòng của Người trong suốt hành trình sa mạc là
điều tối quan trọng, vì nhờ đó, dân mới cảm nhận tình thương của Chúa và gắn bó
với Người, vâng phục Người. Ngược lại, nếu quên đi những hồng ân đó, dân sẽ dần
dần bất tuân và bất tín với Thiên Chúa. Kinh nghiệm sa mạc giúp cho Ít-ra-en thấy rõ cuộc sống của họ hoàn
toàn lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa. Kinh nghiệm về sự thiếu thốn và đói khát
đến độ chỉ có thể sống nhờ man-na, kinh nghiệm đó giúp dân thấy rõ họ sống được
là nhờ Chúa: “Thiên Chúa đã bắt anh em
phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng
biết…. ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm
bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Đnl 8,3). Bây giờ
khi bước vào vùng đất mới với lương thực đầy đủ, người ta dễ cho rằng sự phong
phú đó là do nỗ lực của con người chứ không do Thiên Chúa. Cho nên Môsê nhấn
mạnh, “Anh em hãy ý tứ đừng quên Đức
Chúa… Khi anh em được ăn, được no nê, xây nhà đẹp đẽ… thì anh em đừng kiêu ngạo
mà quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai cập, khỏi cảnh nô lệ”
(8,11-13).
Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, ta cần nhìn lại và nhớ lại
cuộc đời mình trong ánh sáng của Chúa, nhờ đó ta cảm nhận sự hiện diện và tình
thương của Chúa trong cuộc đời mình cách cụ thể và rõ ràng. Có thể gọi là kinh
nguyện hồi tưởng. Cách cụ thể, hãy đặt mình trước
mặt Chúa và nhớ lại. Hãy nhớ lại những khoảnh khắc đặc biệt khiến ta cảm nhận
rõ ràng sự can thiệp của Chúa. Hãy nhớ lại những người đã làm ơn cho ta và ghi
đậm dấu ấn trong đời ta vì chính Chúa ban ơn cho ta qua họ. Hãy nhớ lại những
biến cố lớn trong đời. Hãy nhớ lại những thương tích còn lại trong tâm hồn, và
xin Chúa chữa lành. Hãy nhớ lại những người mà ta gây thương tích cho họ, dù vô
tình hay hữu ý, và xin Chúa chữa lành họ. Nhớ lại tất cả những điều trên
trong ánh sáng của Chúa giúp ta cảm nhận tình thương của Chúa trong đời mình,
giúp ta được chữa lành khỏi những thương tích trong tâm hồn, và giúp ta vững
bước đi về phía trước trong tin yêu và phó thác.
3. Chương 12-26
a. Đời sống hôn nhân gia đình (Đnl 24,1-4)
Trong Tin Mừng Mátthêu, khi được hỏi, “Người ta có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?” Chúa Giêsu
đã trả lời, “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá
đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: Vì thế, người ta sẽ lìa cha
mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt
19,3-5). Nhưng người Pharisêu đặt vấn đề với Chúa Giêsu, “Tại sao ông Môsê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?” (Mt
19,7). Đặt câu hỏi như thế là dựa vào
Đnl 24,1-4: “Nếu một người đàn ông đã lấy
vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì
người ấy thấy nơi nàng có điều gì đáng ruồng bỏ, thì sẽ viết cho nàng một chứng
thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà”. Theo đó, người phụ nữ hoàn
toàn ở thế thụ động, bị coi như một vật sở hữu của người đàn ông. Hơn nữa,
người ta có thể giải thích lề luật theo ý muốn và sở thích ích kỷ của mình,
chẳng hạn đã có những cách giải thích khác nhau về cụm từ “điều gì đáng ruồng bỏ” và “điều
không đẹp lòng”. Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt
trên luật Môsê và đưa người ta trở về với ý định ban đầu của Thiên Chúa, “Vì các ông lòng chai dạ đá nên Môsê đã cho
phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có thế đâu” (Mt 19,8). Về lời
khẳng định của Chúa Giêsu, “Tôi nói cho
các ông biết: ngoại trừ hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là
phạm tội ngoại tình” (Mt 19,9). Theo Lê-vi 18,6-18, (đối chiếu với Cv 15,
20,29) đó là hôn nhân giữa những người cùng chung huyết thống (họ máu, họ kết
bạn).
b. Những ngày lễ lớn (Đnl 16,16)
“Mỗi năm ba lần, tất cả đàn
ông con trai của anh em phải đến trình diện Đức Chúa, ở nơi Người chọn: vào dịp
lễ Bánh Không Men, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều” (Đnl 16,16). Ở nguồn gốc, đây là những lễ
hội nông nghiệp, rồi được tôn giáo hoá để tưởng nhớ những biến cố lớn trong
lịch sử Dân Chúa. Lễ Bánh Không Men được cử hành vào mùa Xuân để tưởng nhớ cuộc
xuất hành khỏi Ai Cập. Lễ Ngũ Tuần là lễ của các tuần lễ (Xh 34,22; Đnl 16,10),
ở khoảng giữa lễ Vượt Qua và lễ Lều. Sau này được cử hành để tưởng nhớ việc Thiên
Chúa ban Lề Luật trên núi Xi-nai. Trong Kitô giáo, có những ngày
lễ tương tự những ngày lễ của dân Ít-ra-en như lễ Phục Sinh, lễ Hiện Xuống.
Cách nào đó, những ngày lễ này tiếp nối những ngày lễ của dân Ít-ra-en nhưng
lại mang ý nghĩa mới mẻ và sâu xa hơn. Việc cử hành các ngày lễ trên
đóng vai trò quan trọng trong đời sống đức tin của Dân Chúa, vừa tưởng niệm
những kỳ công Chúa thực hiện trong lịch sử, vừa thúc đẩy tín hữu sống đức tin.
Ngày nay, một số ngày lễ lớn của Kitô giáo đang có nguy cơ bị tục hoá, vd. lễ
Giáng Sinh nhiều khi chỉ còn là cơ hội ăn chơi và mua sắm. Vì thế, Kitô hữu
càng cần phải cử hành những ngày lễ tôn giáo cách ý thức hơn.
4. Chương 27-34
a. Tổng kết: Chọn lựa sự sống (Đnl
30,15-20)
Trong
diễn từ thứ ba của Môsê, sau khi đã ôn lại lịch sử của Dân Chúa, Môsê nói với
dân, “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh
em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ…”
(Đnl 30,15-20). Lời này cho thấy viễn tượng bao
trùm toàn bộ lề luật Thiên Chúa ban cho con người chính là sự sống. Lề luật
Thiên Chúa ban là để cho con người được sống và hạnh phúc chứ không nhằm hủy diệt
và giết chết như nhiều người ngày nay nghĩ tưởng. Chỉ có điều quy luật của sự
sống là “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được
nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Đó là quy luật tự nhiên của sự sống nhưng con
người lại cho đó là nghịch lý. Họ chỉ muốn sự sống tức thời và cụ thể trước mắt
chứ không chấp nhận quy luật của hy sinh và từ bỏ. Vì thế họ lao vào việc tìm
thoả mãn những sở thích và đam mê của mình bằng mọi cách để rồi chỉ thấy sự sống
đích thực nơi mình mỗi ngày mỗi nghèo nàn và trống vắng. Dân Ít-ra-en đã phải
học bài học này trong suốt hành trình sa mạc, và mỗi chúng ta cũng phải học bài
học đó. Chọn lựa căn bản của người Kitô hữu là chọn Chúa, cũng là chọn sự
sống. Nhưng ta cần thể hiện chọn lựa căn bản đó xuyên qua những chọn lựa nhỏ bé
và cụ thể hằng ngày. Và không thể quên quy luật của sự sống mà Chúa Giêsu đã
nhấn mạnh bằng chính cuộc sống và cái chết của Ngài.
CUỐN SÁCH 6
SÁCH GIÔ-SUÊ (Gs)
1. Tổng quát
Giô-suê
là trợ tá của Môsê và được chọn để kế tục sự nghiệp của Môsê lãnh đạo Dân Chúa.
Trong tiếng Do thái, Giô-suê có nghĩa là “Thiên Chúa cứu” hay “Xin Thiên Chúa
cứu”. Vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên, Giô-suê đưa dân Ít-ra-en tiến vào
Đất Hứa. Sau khi vượt qua sông Gio-đan và chiếm đất Ca-na-an, họ lấy Ghin-gan
làm bản doanh và Si-khem làm nơi thờ phượng. Giô-suê đã triệu tập tất cả các
chi tộc Ít-ra-en tại Si-khem và lập thoả
thuận với họ. Sách Giô-suê như ta có ngày nay là sự thu thập những lời truyền
khẩu về Miền Đất Hứa, và chỉ được hoàn thành sau thời lưu đày Babylon. Sách Giô-suê
gồm có 24 chương chia làm ba phần chính:
- Chinh phục đất Ca-na-an
(chương 1 – 12)
- Phân chia đất (chương
13-21)
- Các chi tộc bên kia
sông Gio-đan trở về và diễn từ cuối cùng của Giô-suê (chương 22 – 24)
Mục
đích chính của sách là chứng minh sự trung tín của Thiên Chúa với lời Người đã
hứa, đặc biệt là lời hứa sẽ ban cho dân miền đất chảy sữa và mật. Niềm tin vào
sự trung tín của Thiên Chúa là điểm tựa cho Dân, để dù sống giữa cảnh lưu đày,
họ vẫn một niềm tin tưởng vào sự hiện diện và chăm sóc của Thiên Chúa, Đấng sẽ
giải thoát họ và đưa họ về miền Đất Hứa. Đồng thời, Dân Chúa phải ý thức rằng
họ sẽ có thể sống mãi trong miền đất Thiên Chúa đã ban cho họ, với điều kiện là
họ trung thành tuân giữ tất cả những điều Môsê đã truyền qua Lề Luật: “Anh em phải thật cương quyết tuân giữ và
thực hành tất cả những gì ghi trong Sách Luật Môsê, không đi trệch bên phải bên
trái” (23,6).
Chương |
Chương |
1.
Chuẩn bị chiếm đất hứa: Mời gọi qua Đất Hứa - Trung tín với Lề Luật: điều kiện
để được Thiên Chúa phù trợ - Các chi tộc bên kia sông Gio-đan tiếp tay |
13.
Phân chia đất đai cho các chi tộc: Mệnh lệnh của Thiên Chúa – các chi tộc bên
kia sông Gio-đan: Nhìn
tổng quát - Chi tộc Rưu-vên - Chi tộc Gát- Nửa chi tộc Mơ-na-se - |
2. Ông Giô-suê sai
người đi do thám Giê-ri-khô - Giao kèo giữa các người do thám và cô Ra-kháp -
Các người do thám trở về |
14. Ba
chi tộc lớn ở phía tây sông Gio-đan: Phần đất của ông Ca-lếp |
3. Chuẩn bị qua sông -
Những chỉ thị cuối cùng - Qua sông |
15. Chi tộc Giu-đa -
Danh sách các thành của chi tộc Giu-đa |
4. Mười hai bia kỷ niệm
- Sau khi qua sông - Tới Ghin-gan |
16. Con cái ông Giu-se -
Chi tộc Ép-ra-im |
5. Các dân miền tây
sông Gio-đan kinh hãi - Người Híp-ri chịu cắt bì ở Ghin-gan - Cử hành lễ Vượt
Qua – Thần hiện |
17. Chi tộc Mơ-na-se -
Con cái ông Giu-se khiếu nại |
6. Chiếm Giê-ri-khô -
Giê-ri-khô bị án tru hiến - Nhà cô Ra-kháp thoát nạn |
18. Chia đất cho bảy chi
tộc khác - Chi tộc Ben-gia-min - Các thành của chi tộc Ben-gia-min |
7. Tội không thi hành
án biệt hiến - Thất bại ở thành Ai - Ông Giô-suê cầu nguyện - ĐỨC CHÚA trả
lời - Tìm được thủ phạm và ra hình phạt |
19. Chi tộc Si-mê-ôn -
Chi tộc Dơ-vu-lun - Chi tộc Ít-xa-kha - Chi tộc A-se - Chi tộc Náp-ta-li -
Chi tộc Đan |
8. Thiên Chúa truyền
lệnh cho ông Giô-suê - Mưu kế của ông Giô-suê - Cuộc đánh chiếm thành Ai - Án
tru diệt và cuộc tàn phá thành Ai - Bàn thờ bằng đá nguyên vẹn - Đọc Sách
Luật Mô-sê |
20. Các
thành đặc biệt - Các
thành trú ẩn |
9. Hiệp
ước giữa dân Ít-ra-en và người Ghíp-ôn: Liên minh chống Ít-ra-en - Mưu của
người Ghíp-ôn - Quy chế cho người Ghíp-ôn |
21. Các thành của người
Lê-vi - Phần dành cho người Cơ-hát - Phần dành cho các con ông Ghéc-sôn -
Phần dành cho các con ông Mơ-ra-ri -
Kết luận về việc phân chia đất đai |
10.
Liên minh với vua E-mô-ri đánh chiếm niềm nam Pa-lét-tin: Năm vua đánh Ghíp-ôn
- Ông Giô-suê đến cứu viện Ghíp-ôn - Ơn trên phù hộ - Năm vua trốn trong hang
Mác-kê-đa - Chiếm các thành miền nam Ca-na-an - Tổng kết về các cuộc chinh
phục miền nam |
22.
Cuối đời ông Giô-suê - Đưa quân của các chi tộc bên kia sông Gio-đan trở về -
Xây bàn thờ trên bờ sông Gio-đan - Con cái Ít-ra-en trách móc các chi tộc ở
phía tây- Các chi tộc bên kia sông Gio-đan tự biện hộ - Hai bên thoả hiệp với
nhau |
11.
Chinh phục niềm bắc Pa-lét-tin: Các vua miền bắc liên minh với nhau - Chiến
thắng ở Mê-rôm - Chiếm Kha-xo và các thành khác ở phía bắc - Tổng kết về các
cuộc chinh phục miền băc |
23. Ông Giô-suê tóm kết
công trình của mình - Phải sống thế nào giữa các dân ngoại |
12.
Tổng kết các cuộc chiến thắng các vua hai bên sông Gio-đan: Các vua bại trận ở
phía đông sông Gio-đan - Các vua bại trận ở phía tây sông Gio-đan - |
24. Đại
hội Si-khem - Ít-ra-en
chọn ĐỨC CHÚA - Giao ước Si-khem - Ông Giô-suê qua đời - Hài cốt ông Giu-se.
Tư tế E-la-da qua đời. |
2. Qua sông Gio-đan
(3,1 – 5,12)
a.
Chuẩn bị (3,1-13)
Trình thuật này mô tả
việc qua sông Gio-đan như một cuộc rước trọng thể trong phụng vụ. Mục đích là
để cho thấy chính Thiên Chúa hằng sống là Chúa của toàn thể cõi đất đã đưa dân Ít-ra-en
vào Đất Hứa. Như thế, dân đang sống cảnh lưu đày vững tin vào quyền năng Chúa
là Đấng sẽ giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày.
b. Qua sông (3,14-17)
Trong
cuộc rước trọng thể, dân đi theo các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước và khi nước
dừng lại thì dân đi qua sông. Rõ ràng trình thuật này muốn nhắc lại việc dân Ít-ra-en
qua Biển Đỏ; như thế làm nổi bật ý nghĩa: việc vào Đất Hứa chính là sự kết thúc
hành động Thiên Chúa giải thoát Dân, đã được bắt đầu từ cuộc Xuất hành. Xuất
Hành trở thành điểm quy chiếu qua đó thấy được hành động giải thoát của Chúa.
c. Bia kỷ niệm (4,1-9)
Các
tấm bia là sự nhắc nhớ cụ thể rằng “nước sông Gio-đan đã bị chặn lại trước Hòm
Bia Giao Ước của Đức Chúa khi Hòm Bia qua sông Gio-đan”. Như thế, chính Chúa
chứ không ai khác, đã đưa dân qua sông.
d. Hoàn tất việc qua sông (4,10-18)
Việc
qua sông Gio-đan vừa khép lại một giai đoạn trong lịch sử Ít-ra-en vừa mở ra
một giai đoạn mới. Trình thuật này mô tả bước chuyển tiếp giữa hai giai đoạn.
Trình thuật này được đóng khung bằng hai sự kiện mang tính phụng vụ: Giô-suê
dựng mười hai tảng đá lấy từ sông Gio-đan (4,20-24) và việc cử hành lễ Vượt Qua
(5,10-12).
3. Diễn từ cuối cùng
của Giô-suê (chương 23 & 24)
Biết
rằng ngày ra đi của mình đã gần kề, Giô-suê triệu tập dân lại để nhắc nhở họ về
mọi điều đã xảy ra, đồng thời khuyến khích họ trung thành với giao ước. Ông
cũng khuyến cáo dân về những hậu quả khôn lường nếu họ bất trung và chống lại
Chúa.
4. Liên quan đến Tân
Ước
- Giô-suê, hình bóng của Chúa Kitô, Đấng đưa
dân vào Nước Thiên Chúa.
- Việc
qua sông Gio-đan là hình bóng của bí tích Thánh Tẩy.
- Đất
Hứa là hình bóng của Vương quốc Thiên Chúa.
CUỐN SÁCH 7
SÁCH THỦ LÃNH (Tl)
1. Thần học về lịch sử
a. Biên soạn sách Thủ Lãnh
Các
Thủ Lãnh là những người đã đóng vai trò hướng dẫn Dân Chúa trong suốt 150 năm
sau ông Giô-suê (1200-1050 trước Công nguyên). Tuy nhiên sách Thủ Lãnh đã chỉ
được biên soạn trong thời Lưu đày, nghĩa là sau đó khoảng 400-500 năm. Như thế,
Sách được biên soạn không chỉ nhằm mục đích ghi lại những sự kiện lịch sử nhưng
còn trình bày một cái nhìn thần học về lịch sử. Sách Thủ lãnh gồm có 21 chương:
Chương |
Chương |
1. Cuộc định cư của
Giu-đa, Si-mê-ôn, Ca-lếp và Kê-ni - Chiếm Bết Ên - Các chi tộc phía bắc |
12. Chiến tranh giữa
Ép-ra-im và Ga-la-át. Ông Gíp-tác qua đời - ÔNG ÍP-XAN - ÔNG Ê-LÔN - ÔNG
ÁP-ĐÔN |
2. Thần sứ của ĐỨC CHÚA
cho Ít-ra-en biết trước những điều bất hạnh - Cuối đời ông Giô-suê - Ý nghĩa
tôn giáo thời các thủ lãnh - Lý do tồn tại của chư dân |
13. ÔNG SAM-SÔN - Truyền
tin ông Sam-sôn ra đời - Thiên sứ hiện ra lần thứ hai |
3. SỰ TÍCH CÁC THỦ
LÃNH: ÔNG ÓT-NI-ÊN - ÔNG Ê-HÚT - ÔNG SAM-GA |
14. Ông Sam-sôn kết hôn
- Ông Sam-sôn ra câu đố |
4. BÀ ĐƠ-VÔ-RA VÀ ÔNG
BA-RẮC - Xi-xơ-ra bị đánh bại - Ít-ra-en được giải thoát |
15. Ông Sam-sôn đốt mùa
màng của người Phi-li-tinh - Hàm lừa |
5. Bài ca của bà
Đơ-vô-ra và ông Ba-rắc |
16. Chuyện xảy ra ở cổng
thành Ga-da - Ông Sam-sôn bị Đa-li-la phản trắc - Ông Sam-sôn trả thù rồi
chết |
6. Thiên Chúa gọi ông
Ghít-ôn - Người Ma-đi-an áp bức dân Ít-ra-en - Thần sứ của ĐỨC CHÚA hiện ra
với ông Ghít-ôn - Ông Ghít-ôn triệt hạ Ba-an - Kêu gọi chiến đấu - Lông cừu
làm điềm báo |
17. Nhà thờ tư của ông
Mi-kha |
7. ĐỨC CHÚA rút bớt
quân số của ông Ghít-ôn - Điềm báo thắng trận - Cuộc đột kích - Truy kích |
18. Những người thuộc
chi tộc Đan đi kiếm đất - Cuộc di dân của họ Đan |
8. Ép-ra-im kêu trách -
De-vác và Xan-mun-na bại trận - Ông Ghít-ôn báo thù - Cuối đời ông Ghít-ôn |
19. Người Lê-vi vùng
Ép-ra-im và cô tỳ thiếp - Tội ác của dân Ghíp-a |
9. Ngụ ngôn của ông
Giô-tham - Si-khem phản loạn chống A-vi-me-léc - Triệt hạ thành và tháp
Si-khem - A-vi-me-léc tấn công Tê-vết và bị tử trận |
20. Người Ít-ra-en trả
thù tội ác Ghíp-a - Người Ben-gia-min ngoan cố - Giao tranh đầu tiên -
Ben-gia-min bại trận |
10. ÔNG TÔ-LA - ÔNG GIA-IA - ÔNG GÍP-TÁC -
Ít-ra-en bị người Am-mon đàn áp
|
21. Người Ít-ra-en hối
hận - Các trinh nữ Gia-vết được trao cho người Ben-gia-min - Bắt cóc các cô
gái Si-lô |
11. Ông Gíp-tác đặt điều kiện - Ông Gíp-tác
điều đình với con cái Am-mon - Ông Gíp-tác khấn và thắng trận |
|
b. Thần học về lịch sử
Thần
học căn bản về lịch sử mà tác giả muốn trình bày là: tội lỗi dẫn đến hình phạt,
còn sám hối dẫn đến ơn tha thứ và giải thoát (đọc 6,1-10; 10,6-16). Ý nghĩa
thần học này rất quan trọng đối với dân lưu đày: họ đã mất quê hương vì tội lỗi
của họ, nhưng nếu họ biết ăn năn hối cải thì Thiên Chúa sẽ tha thứ và giải
thoát họ. Người Kitô hữu cũng cần tập nhìn những biến cố lịch sử bằng cặp mắt
đức tin để khám phá sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa ngay trong lịch
sử. Các thủ lãnh không phải là những vị thánh, theo nghĩa chúng ta hiểu bây
giờ. Tuy nhiên Ít-ra-en nhìn những người này như những vị cứu tinh mà Thiên
Chúa nhân từ gửi đến cho họ. Ám sát một thủ lãnh thù địch hay giết quân
Phi-li-tinh đối với chúng ta không còn phải là một hành vi tôn giáo nữa. Nhưng
nếu chúng ta xét đến thời đại và môi trường của họ, thì những con người đó đã
tỏ ra can trường và tin tưởng giữa bao kẻ hèn nhát. Khi lôi kéo anh em mình ra
khỏi tình trạng thụ động, những con người đó đã chuẩn bị một giai đoạn mới
trong lịch sử dân tộc mình. Cuốn sách này gồm 21 chương.
2. Những bài học lớn
cho đời sống đức tin
a. Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn
Dân
Ít-ra-en đã ký kết giao ước với Thiên Chúa; tuy nhiên họ đã không trung thành
với giao ước. Họ bỏ Chúa để chạy theo các ngẫu tượng mà dân địa phương tin rằng
mang lại sự thịnh vượng như Ba-an, A-sê-ra, Át-tô-rét... Họ còn bắt chước cả
những cách tế tự của dân địa phương, vd. giết người để dâng hiến làm của lễ. Về
phía Thiên Chúa, Ngài không bao giờ mất lòng kiên nhẫn. Dù dân có phản bội giao
ước, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương họ bằng tình yêu trung tín. Nếu tội lỗi
của dân dẫn đến án phạt thì cần nhìn những án phạt này trong viễn tượng của
tình yêu trung tín đó, nghĩa là Thiên Chúa trừng phạt dân không phải vì căm thù
mà vì tình yêu thương, để sửa dạy dân và kêu gọi họ trở về đường ngay nẻo
chính. Vậy người Kitô hữu có thể rút được bài học nào cho chính mình và cho
Giáo Hội?
b. Thiên Chúa sử dụng những con đường lạ
lùng.
Để
thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa sử dụng cả những con người yếu đuối
và tội lỗi, chẳng hạn những phụ nữ chân yếu tay mềm, hay Sam-sôn nặng nề xác
thịt... Điều này làm ta liên tưởng đến lời thánh Phaolô: “Những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục
những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém thì Thiên Chúa đã chọn
để hạ gục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể,
là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có hầu không một
phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” (1Cr 1,27-29). Đồng thời mỗi Kitô
hữu cần nhớ lại lời Thánh Kinh: “Ai tự
hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1Cr 1,31) và “Kho tàng ấy, chúng tôi chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ
quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng tôi”
(2Cr 4,7).
c. Ít-ra-en giữa dân ngoại: hình ảnh của
Giáo Hội ngày nay
So sánh với các dân Ca-na-an và Phi-li-tinh, Ít-ra-en vừa thua
kém về dân số vừa thua kém về khả năng. Trong thế giới ngày nay, xem ra càng
ngày Giáo Hội càng trở thành cộng đoàn thiểu số, đồng thời bị tấn công về nhiều
mặt. Tuy nhiên, dù sống trong hoàn cảnh nào, Dân Chúa vẫn có trách nhiệm làm
muối cho đời và ánh sáng cho trần gian (Mt 5,13). Điều quan trọng là phải xem
lại bản thân mình còn chất muối và ánh sáng không; nếu không sẽ trở thành vô
dụng và bị quăng ra ngoài cho người ta chà đạp.
3. Sách Thủ Lãnh và đời
sống Kitô hữu
- Bạn hãy đọc lại câu chuyện cuộc đời Sam-sôn
(chương 12-15), một vị thủ lãnh nổi tiếng trong lịch sử Ít-ra-en. Từ câu chuyện
này, bạn có thể rút ra điều gì cho đời sống thiêng liêng của mình?
CUỐN SÁCH 8
SÁCH RÚT (R)
1. Tổng quát
Trong dân Ít-ra-en ngày
xưa, dường như biện pháp tốt nhất để bảo vệ phẩm giá và quyền tự do của các gia
đình khiêm tốn nhất là bảo tồn phần gia tài của gia trưởng và tuyên bố là không
thể chuyển nhượng phần đất thuộc về ông trên lãnh thổ của chi tộc ông. Khi một
người đàn ông chết mà không có con, một người đàn ông họ hàng của với người ấy
có thể (và có bổn phận nếu có phương tiện) chuộc phần đất của người ấy và cho
người ấy một đứa con thừa kế được chính thức thừa nhận là dòng dõi của người ấy
(x. Mc 12,19 "Thưa Thầy, ông Môsê có
viết cho chúng ta rằng: "Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ
mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh
hay em mình". Chính tập tục này là chủ đề của Sách Rút.
Một truyền thống cổ xưa
kể lại rằng trong số những tổ tiên của vua Đa-vít có một bà người nước ngoài
miền Mô-áp tên là Rút. Đây là nhân vật chính của truyện lý thú này. Truyện này
được viết vào thế kỷ IV TCN, với một văn phong khoáng đạt và vượt lên trên chủ
nghĩa quốc gia. Trước đó không lâu, ông Ét-ra đã bắt ép người Do-thái rẫy bỏ
các bà vợ ngoại bang, vì các bà này có thể kéo theo họ đạo các bà. Ở đây thì
ngược lại, vai nữ chính lại là một bà ngoại bang. Bà Rút tin nhận Thiên Chúa
thật, tức là Thiên Chúa của Ít-ra-en, và được đón nhận vào cộng đồng dân Thiên
Chúa (Dẫn nhập sách Rút, Thánh Kinh Cựu
Ước & Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Rút gồm có 4 chương:
Chương |
Chương |
1. Rút và bà Na-o-mi |
3. Ông Bô-át nằm ngủ |
2. Cô Rút trong đồng
ruộng của ông Bô-át |
4. Ông Bô-át cưới cô
Rút - Gia phả vua Đa-vít |
2. Bà Na-o-mi và cuộc
vật lộn với Thiên Chúa
a. Từ
một phụ nữ đạo đức bình thường đến tâm trạng cay đắng
“Đừng gọi tôi là Na-o-mi nữa, hãy gọi tôi là Ma-ra” (1,20). Ma-ra có
nghĩa là Chúa giáng phạt: “Đấng Toàn năng
đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng”. Lý do dẫn bà Rút đến tâm trạng
cay đắng này là vì bà bị mất tất cả: “Tôi
ra đi, của cải dư đầy, Đức Chúa đem tôi về, hai bàn tay trắng”(1,21); không
những mất của cải mà còn rơi vào tình trạng góa bụa cô đơn.
b. Sự ác là nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng
vô thần và mất niềm tin
Thiên
Chúa bị coi là nguyên nhân mọi đau khổ: “Đức
Chúa đã làm cho tôi tủi nhục, Đấng Toàn năng đã để tôi đau khổ” (1,21); vì
thế không còn thấy được dung nhan Thiên Chúa tình yêu. Nhận xét này mời gọi ta
nhìn lại kinh nghiệm cá nhân của mình khi phải đối diện với đau khổ. Ta cũng
rất dễ đánh mất niềm tin và cậy trông vào Thiên Chúa khi phải đối diện với
những thử thách và đau khổ. Đây thực sự là một vấn nạn lớn, đúng hơn là một mầu
nhiệm và ta chỉ tìm được câu trả lời khi chiêm ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh.
3. Bà Rút và những nhân
đức trong đời sống gia đình
a. Gắn bó với gia đình chồng, kể cả trong niềm
tin tôn giáo
Bà Rút gắn bó với mẹ
chồng: “Mẹ đi đâu, con đi đó; mẹ ở đâu,
con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con”
(1,16). Bà lại là người có lòng nhân hậu, lo cho mẹ già: “Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng
sau khi chồng con mất...” (2,12).
b. Thánh Phaolô và đời sống gia đình
Tấm
gương của bà Rút làm ta liên tưởng đến lời nhắn nhủ của thánh Phaolô về đời
sống gia đình: “Kẻ làm con, hãy vâng lời
cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó
là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ
trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận nhưng hãy
giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,1-4).
Tấm
gương của bà Rút còn mời gọi ta nhìn lại mối quan hệ của ta với Thiên Chúa:
trong đời sống đức tin, liệu ta có gắn bó với Chúa trong mọi hoàn cảnh như bà Rút gắn bó với gia đình nhà chồng?
4. Đường lối cứu độ của
Thiên Chúa
a. Thiên
Chúa điều khiển mọi sự
Xem ra chính bà Na-o-mi
đã sắp xếp mọi sự và đã đạt được mục đích: chính bà khuyên Rút đến với ông Bô-át
(3,1-4) và bà đã có người bảo tồn dòng dõi (4,14-15). Tuy nhiên khi đạt kết quả
thì chính Thiên Chúa lại được ca tụng: “Chúc
tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu thốn người bảo tồn
dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Ít-ra-en” (4,14). Như thế,
tác giả đã nhìn mọi sự từ quan điểm đức tin. Chính Thiên Chúa là Chủ mọi sự.
Ngài vận dụng mọi sự nhằm mục đích cứu độ con người, kể cả thông qua những tính
toán tự nhiên của con người.
b. Chúa Kitô thuộc dòng dõi Đavít, có tổ tiên
là bà Rút (Đọc Rút 4, 17-22 // Mt 1,1-5)
Trong
gia phả của Chúa Giêsu, có tên của bốn phụ nữ và cả bốn phụ nữ này đều có vấn
đề trong đời sống riêng :
* Ta-ma (x. St 38,
15-20)
* Ra-kháp (x. Js 2,6.
22-25)
* Rút (x. Rút, chương
3)
* Bát-se-va (x. 2Sm,
chương 11)
Khi
Thiên Chúa làm người, Ngài đã chấp nhận có mặt trong một dòng dõi được ghi dấu
bởi tội lỗi; nhờ đó Ngài cứu nhân loại khỏi tội lỗi. Định hướng này được thể
hiện rõ nét trong suốt cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu: Ngài đồng bàn với
những người tội lỗi đến nỗi bị xã hội lên án. Ơn Cứu độ của Thiên Chúa không
loại trừ bất cứ ai. Vấn đề là mỗi người có sẵn sàng mở lòng ra để đón nhận Ơn
Cứu độ đó không.
CUỐN SÁCH 9
SÁCH SA-MU-EL I (1Sm)
1. Tổng quát
a. Tác phẩm
Ở
nguồn gốc, sách Sa-mu-en 1 & 2 chỉ là một nhưng khi dịch Thánh Kinh từ
tiếng Do thái sang tiếng Hi Lạp (bản 70) thì sách được chia ra làm hai. Các bản
dịch sang tiếng La Tinh và các ngôn ngữ khác cũng theo sự phân chia này. Sách Sa-mu-en
là tập hợp các bài tường thuật về lịch sử Ít-ra-en từ khi dân vào đất Ca-na-an
(thế kỷ 12) đến thời lưu đày (587 Trước Công nguyên). Sứ điệp chính của tác
phẩm là Thiên Chúa đã chọn Ít-ra-en làm dân riêng, và qua Môsê đã giải thoát họ
khỏi ách nô lệ Ai Cập và đã ký kết giao ước với họ. Lời Thiên Chúa ban qua Môsê
vẫn tiếp tục hướng dẫn Dân Chúa cũng như các vị lãnh đạo dân. Nếu dân trung
thành với luật giao ước thì sẽ thịnh vượng và bình an; ngược lại, họ sẽ phải
chịu hình phạt từ những tai họa thiên nhiên đến sự xâm lăng của quân thù và cả
sự lưu đày. Sách Sa-mu-en không phải là sách lịch sử theo nghĩa hiện đại cho
bằng trình bày thần học về lịch sử, nghĩa là nói đến mối quan hệ của Thiên Chúa
với dân Người. Sách Sa-mu-en quyển thứ nhất có 31 chương:
Chương |
Chương |
1. THỜI THƠ ẤU CỦA ÔNG
SA-MU-EN - Hành hương Si-lô - Bà An-na cầu nguyện - Ông Sa-mu-en sinh ra và
được thánh hiến |
17. Go-li-át thách thức
quân đội Ít-ra-en - Ông Đa-vít đến trại - Ông Đa-vít tình nguyện nhận lời
thách thức - Cuộc chiến tay đôi - Sau khi chiến thắng, Đa-vít ra trình diện
vua Sa-un |
2. Bài ca của bà An-na
- Các con trai ông Ê-li - Ông Sa-mu-en tại Si-lô - Lại nói về các con ông
Ê-li - Báo trước hình phạt |
18. Vua Sa-un bắt đầu
ghen tị - Ông Đa-vít cưới vợ |
3. Thiên Chúa gọi ông Sa-mu-en |
19. Ông Giô-na-than can
thiệp cho ông Đa-vít - Vua Sa-un toan sát hại ông Đa-vít - Bà Mi-khan cứu ông
Đa-vít - Vua Sa-un đến tìm ông Đa-vít tại nhà ông Sa-mu-en |
4. Ít-ra-en bị đánh bại
và Hòm Bia bị chiếm đoạt - Ông Ê-li qua đời - Vợ Pin-khát chết |
20. Ông Giô-na-than giúp
ông Đa-vít trốn thoát |
5. Người Phi-li-tinh
gặp rủi ro vì Hòm Bia |
21. Ông Đa-vít dừng lại ở
Nốp - Ông Đa-vít đến với người Phi-li-tinh |
6. Trả lại Hòm Bia -
Hòm Bia tại Bết Se-mét - Hòm Bia tại Kia-giát Giơ-a-rim |
22. Ông Đa-vít bắt đầu
cuộc sống nay đây mai đó - Các tư tế thành Nốp bị tàn sát |
7. Ông Sa-mu-en làm thủ
lãnh và cứu dân |
23. Ông Đa-vít đến
Cơ-i-la - Ông Đa-vít thoát tay vua Sa-un |
8. THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ
QUÂN CHỦ - Dân xin một vua - Những bất tiện của chế độ quân chủ |
24. Ông Đa-vít tha chết
cho vua Sa-un |
9. Ông Sa-un đi tìm lừa
của cha - Ông Sa-un gặp ông Sa-mu-en - Ông Sa-un được xức dầu phong vương |
25. Ông Sa-mu-en qua đời
- Ông Đa-vít lên đường và xuống sa mạc Pa-ran. |
10. Ông Sa-un trở về -
Ông Sa-un trúng thăm làm vua |
26. Ông Đa-vít tha chết
cho vua Sa-un |
11. Thắng người Am-mon -
Ông Sa-un được tôn làm vua |
27. Ông Đa-vít trốn đi
Gát - Ông Đa-vít làm chư hầu người Phi-li-tinh |
12. Ông Sa-mu-en nhường
chỗ cho ông Sa-un |
28. Người Phi-li-tinh đi
đánh Ít-ra-en - Vua Sa-un và bà đồng bóng tại Ên Đo |
13. NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA
TRIỀU ĐẠI SA-UN - Nổi dậy chống người Phi-li-tinh - Ông Sa-mu-en đoạn giao
với vua Sa-un - Chuẩn bị giao chiến |
29. Các người chỉ huy
Phi-li-tinh cho ông Đa-vít về |
14. Ông Giô-na-than tấn
công đồn Phi-li-tinh - Cuộc chiến lan rộng - Cuộc giao tranh vượt quá Bết
A-ven - Dân phạm lỗi về nghi thức - Ông Giô-na-than có lỗi nhưng được dân cứu
- Tóm tắt về triều đại vua Sa-un |
30. Ông Đa-vít tiến đánh
người A-ma-lếch |
15. Thánh chiến chống
người A-ma-lếch - Vua Sa-un bị ĐỨC CHÚA từ bỏ - Vua Sa-un xin tha thứ nhưng
không được - Vua A-gác bị giết. Ông Sa-mu-en ra đi |
31. Trận Ghin-bô-a. Vua
Sa-un tử trận. |
16. ÔNG ĐA-VÍT TRONG
TRIỀU ĐÌNH - Ông Đa-vít được xức dầu phong vương - Ông Đa-vít vào phục vụ vua
Sa-un |
|
b. Nhân
vật
Ba
nhân vật chính trong sách: Sa-mu-en và hai vị vua đầu tiên trong lịch sử Ít-ra-en:
Sa-un và Đavít. Những bài tường thuật về việc sinh hạ Sa-mu-en cũng như các
nhân vật khác cho thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử để cứu độ dân. Sa-un là
vị vua đầu tiên trong lịch sử Ít-ra-en. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn nhưng
sau đó lại bị ruồng bỏ vì không trung thành. Sự nghiệp của Sa-un kết thúc trong
cuộc chiến chống lại người Philitinh (1Sm 31). Đavít được phong vương từ rất
sớm (1Sm 16) nhưng ông phải trải qua nhiều thử thách và đau khổ mới thực sự nắm
trọn vương quyền. Ông được xem như vị minh quân mẫu mực của dân Ít-ra-en và
cuộc đời ông chất chứa nhiều bài học sống động cho đời sống đức tin của
ta.
c. Dàn bài tổng quát
Phần I (1Sm 1-3): Sa-mu-en
và nhà Ê-li
Phần II (1Sm 4-7): Hòm
bia Giao ước
Phần III (1Sm 8-15):
Vua Sa-un
Phần IV (1Sm 16-31): Sa-un
và Đavít
Phần V (2 Sm 1-8):
Chiến đấu giành vương quốc
Phần VI (2 Sm 9-20):
Vua Đavít
Phần VII (2Sm 21-24):
Phụ lục
2. Chương 1-15
a. Sinh
hạ Sa-mu-en
Trong lời cầu của bà An-na
(1,9-19a), bà hứa với Chúa là nếu bà sinh con trai, bà sẽ dâng con cho Chúa như
một na-dia (nazir) (x. Ds 6). Sam-sôn (Tl 13-16) cũng có lời khấn na-dia nhưng
do sứ thần đòi hỏi chứ không do mẹ ông hứa. Tên của Sa-mu-en có nghĩa là “người
đến từ Thiên Chúa.” Tên gọi này vừa nói lên sự đáp trả của Thiên Chúa trước lời
khấn xin tha thiết của bà mẹ vừa cho thấy sứ mạng của Sa-mu-en. Bài ca tạ ơn
của bà An-na (2,1-10) tương đương với Kinh Ngợi Khen của Mẹ Maria (Lc 1,46-55).
Cả hai bài ca đều diễn tả niềm vui khi sinh con, đều chúc tụng quyền năng Thiên
Chúa, đều nói đến việc hạ bệ kẻ giàu có và nâng cao người nghèo khó.
b. Ơn gọi của Sa-mu-en
Hình ảnh thầy cả Ê-li
với cặp mắt đã mờ (3,2) diễn tả đời sống đức tin của Ít-ra-en lúc đó: ngọn đèn
của Chúa, tức là Lời Chúa, đã bị dập tắt vì lối sống buông thả của hàng tư tế. Thiên
Chúa lên tiếng gọi Sa-mu-en nhưng cậu bé chỉ nhận ra tiếng Chúa gọi nhờ sự
hướng dẫn của thầy cả Ê-li. Sự kiện này cho thấy tầm quan trọng của việc phân định
thiêng liêng trong đời sống đức tin của ta. “Này con đây”: lời đáp trả của Sa-mu-en
gợi nhớ lời đáp trả của Áp-ra-ham khi Chúa gọi ông hiến dâng I-xa-ác (St
22,1-12). Thái độ sẵn sàng của Sa-mu-en tương phản với sự trì trệ của hàng tư
tế không muốn lắng nghe Lời Chúa (2,25). Sa-mu-en là vị tư tế trung tín, được
Chúa chọn để thay thế cho hàng tư tế bất trung.
c. Sa-mu-en
thi hành sứ vụ
Tại
Mizpah, dân Ít-ra-en cử hành sám hối gồm việc đổ nước, ăn chay, và xưng thú tội
lỗi. Sa-mu-en chính thức thi hành sứ vụ. Việc Samuel dựng bàn thờ kính Chúa nằm
trong truyền thống lâu đời của Nô-ê (St 8,20), Áp-ra-ham (St 12,7; 22,9), I-xa-ác
(St 26,25), Gia-cóp (St 35,7), Môsê (Xh 17,15)... Sa-mu-en là khuôn mặt duy
nhất trong Thánh Kinh vừa là tư tế vừa là tiên tri và thẩm phán (thủ lãnh). Từ
sau thời của ông, ơn gọi tiên tri và tư tế bắt đầu tách rời ra.
2. Đavít được xức Dầu
Phong Vương 16-31
a. Cách thế tuyển
chọn của Thiên Chúa
Sa-mu-en được Thiên
Chúa sai đến xức dầu phong vương cho một người con trai của ông Giê-sê. Thế
nhưng, những người mà Sa-mu-en nghĩ rằng Chúa sẽ chọn lại không phải là người
Chúa muốn. Và Người phán: “Người phàm chỉ
thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (16,7).
b. Học
cách nhìn của Chúa
Ở
mọi thời đại, cách riêng trong thời đại ngày nay, người ta chú trọng rất nhiều
đến dáng vẻ bên ngoài: trong sản xuất kinh doanh, trong việc đánh giá con
người, kể cả trong đường hướng giáo dục, ví dụ chủ nghĩa thành tích dẫn đến bao
nhiêu gian dối trong môi trường học đường. Càng sống trong một môi trường như
thế, người Kitô hữu càng cần phải tập sống chiều sâu nội tâm, trau dồi con
người bên trong, hơn là chỉ quan tâm đến những hình thức bên ngoài.
c.
Đavít chiến đấu chống
Go-li-át (đọc 17, 40-47)
Nhìn
từ bên ngoài, cuộc chiến giữa Đavít và Go-li-át quả là cuộc chiến không cân
sức. Tương tự như thế là cuộc chiến giữa Giáo Hội và thế gian. Thế nhưng trong
cuộc chiến khốc liệt đó, Đavít đã chiến thắng. Vậy bí quyết chiến thắng của
Đavít ở đâu? Lời tuyên bố của Đavít đã nói lên tất cả, “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với
mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mày
thách thức” (17,47). Cũng thế, trong cuộc chiến đấu với thế gian, khi nào
Giáo Hội chỉ tìm nương tựa vào sức mạnh quân sự hay kinh tế của người đời, Giáo
Hội sẽ thất bại. Ngược lại, khi Giáo Hội thực sự nương tựa vào Chúa thì Giáo
Hội sẽ chiến thắng. Đó không phải là chiến thắng theo nghĩa lợi lộc cá nhân
nhưng là chiến thắng của tình yêu và chân lý. Mỗi Kitô hữu cũng cần ghi nhớ bài
học này cho đời sống thiêng liêng của mình, nhất là khi phải chiến đấu chống
lại tội lỗi.
d. Vua Sa-un và tính ghen tị
Sau
khi Đavít chiến thắng tên Philitinh, dân chúng hò reo ca tụng Đavít, và Sách
Thánh ghi nhận rằng “Từ ngày đó về sau,
vua Sa-un nhìn Đavít với con mắt ghen tị” (18, 6-9). Sự ghen tị đó đã thúc
đẩy Sa-un nhiều lần tìm cách giết Đavít (x. 18, 10-12; 19,8-10).
Nguồn
gốc của sự ghen tị là tính ích kỷ, không nhìn thấy ích chung, chỉ thấy quyền
lợi và địa vị của mình. Từ đó, tìm cách hạ thấp thành công của người khác và
vui mừng trước thất bại của người khác. Khi không kềm chế được, sự ghen tị còn
có thể dẫn người ta đến chỗ phạm nhiều tội ác khác. Ghen tị là một thói xấu có
mặt nơi mỗi người và có thể gây nhiều tác hại cho đời sống chung cũng như công
việc chung, kể cả việc tông đồ. Điều quan trọng là phải ý thức và cố gắng vượt
qua. Để chữa trị thứ bệnh phổ biến này, cần tập nhìn vào ích chung và chương
trình của Chúa hơn là chỉ nghĩ đến quyền lợi và sở thích riêng của mình. Nếu ta
thực sự tha thiết với công trình của Chúa và ích lợi chung của mọi người, ta sẽ
vui mừng đón nhận và cộng tác với bất cứ ai phục vụ ích lợi chung và công trình
của Chúa.
e. Sự quảng đại của
Đavít
Đối
lại sự ghen tị của Sa-un, Sách Thánh làm nổi bật lòng quảng đại của Đavít.
Đavít đã sẵn lòng tha thứ cho kẻ làm hại mình (24,1-8). Động lực của lòng quảng
đại này không chỉ là những lý do tự nhiên nhưng sâu xa hơn, chính là tầm nhìn
đức tin của Đavít. Ông nhìn Sa-un là người được Chúa xức dầu, và vì thế không
thể ra tay sát hại (24,7). Tấm gương của Đavít làm nổi bật lời nhắn nhủ của
Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu
nguyện cho những người ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Hãy để Chúa xét xử mỗi
người theo việc họ làm. Hãy tập đặt mình vào hoàn cảnh người khác để có thể cảm
thông và chia sẻ hơn là lên án và trả thù.
CUỐN SÁCH 10
SÁCH SA-MU-EN II (2Sm)
Chương |
Chương |
1. Ông Đa-vít nghe tin
vua Sa-un chết - Ông Đa-vít làm văn tế khóc vua Sa-un và ông Giô-na-than |
13. Am-nôn làm nhục em
gái là Ta-ma - Áp-sa-lôm ám sát Am-nôn rồi trốn đi - Ông Giô-áp điều đình cho
Áp-sa-lôm trở về |
2. Ông Đa-vít được xức
dầu phong vương tại Khép-rôn - Vua Đa-vít sai sứ giả đi Gia-vết - Ông Áp-ne
tôn ông Ít-bô-sét làm vua Ít-ra-en - Giu-đa và Ít-ra-en giao chiến. Trận
Ghíp-ôn. |
14. Một vài chi tiết về
Áp-sa-lôm - Áp-sa-lôm được tha thứ |
3. Các con vua Đa-vít
sinh ra tại Khép-rôn - Ông Áp-ne đoạn giao với vua Ít-bô-sét - Ông Áp-ne điều
đình với vua Đa-vít - Ông Áp-ne bị giết |
15. Thủ đoạn của
Áp-sa-lôm - Áp-sa-lôm làm loạn - Vua Đa-vít chạy trốn - Hòm Bia ở lại
Giê-ru-sa-lem - Vua Đa-vít nhờ ông Khu-sai giúp |
4. Vua Ít-bô-sét bị
giết |
16. Vua Đa-vít và ông
Xi-va - Sim-y nguyền rủa vua Đa-vít - Ông Khu-sai đến với Áp-sa-lôm - Áp-sa-lôm
và các tỳ thiếp của vua Đa-vít |
5. Vua Đa-vít được xức
dầu tấn phong làm vua Ít-ra- - Chiếm Giê-ru-sa-lem - Các con vua Đa-vít sinh
ra tại Giê-ru-sa-lem - Chiến thắng quân Phi-li-tinh |
17. Ông Khu-sai làm hỏng
kế hoạch của A-khi-thô-phen - Được tin báo, vua Đa-vít qua sông Gio-đan -
Áp-sa-lôm qua sông Gio-đan. Vua Đa-vít tại Ma-kha-na-gim. |
6. Rước Hòm Bia về
Giê-ru-sa-lem |
18. Phe Áp-sa-lôm bại
trận - Áp-sa-lôm chết - Vua Đa-vít được tin Áp-sa-lôm chết |
7. Lời sấm của ông
Na-than - Vua Đa-vít cầu nguyện |
19. Vua Đa-vít khóc con
- Chuẩn bị đưa vua Đa-vít trở về - Trên đường về. Sim-y đón vua Đa-vít - Ông
Mơ-phi-bô-sét - Ông Bác-di-lai - Giu-đa và Ít-ra-en tranh nhau đón vua |
8. Các cuộc chiến tranh
thời vua Đa-vít - Việc cai trị vương quốc |
20. Se-va làm loạn - Ông
A-ma-xa bị giết - Cuộc nổi loạn chấm dứt - Các quan trong triều vua Đa-vít |
9. Vua Đa-vít xử tốt
với con trai ông Giô-na-than |
21. Nạn đói. Dòng dõi
vua Sa-un bị xử tử Các anh hùng trong cuộc chiến chống người Phi-li-tinh |
10. Người Am-mon làm
nhục sứ giả vua Đa-vít - Chiến dịch thứ nhất đánh người Am-mon - Thắng quân
A-ram |
22. Thánh vịnh của vua
Đa-vít |
11. Chiến dịch thứ hai
đánh người Am-mon. Vua Đa-vít phạm tội. |
23. Những lời cuối cùng
của vua Đa-vít - Các dũng sĩ của vua Đa-vít |
12. Ngôn sứ Na-than
trách vua Đa-vít. Vua hối hận - Con bà Bát Se-va chết. Vua Sa-lô-môn chào đời
- Hạ thành Ráp-ba |
24. Cuộc điều tra dân số
- Bệnh dịch. Thiên Chúa tha thứ - Vua Đa-vít dựng bàn thờ |
1. Chương 1-12
a. Thánh thiện và tội lỗi
Vua
Đavít được gọi là vua thánh Đavít nhưng trong thân phận con người, nhà vua cũng
đã phạm những lầm lỗi nặng nề. Trình thuật Thánh Kinh về tội của Đavít soi sáng
cho ta nhiều điều về ý nghĩa của tội lỗi cũng như đưa ra những cảnh giác cụ thể
về mối nguy hiểm của tội.
b. Sự kiện tội lỗi (11,1-5)
Vua
Đavít say mê bà Bát-se-va, vợ của tướng U-ri-gia, và tìm cách chiếm đoạt bà: “Vua sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng
đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô uế.
Rồi nàng trở về nhà. Nàng đã thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua Đa-vít
rằng: “Tôi có thai.”
c. Sự tàn phá của tội (11,6-26)
Tội
này lôi kéo theo tội khác. Khi nghe tin Bát-se-va đã có thai, nhà vua phải tìm
cách che giấu tội lỗi của mình. Trước hết, vua cho gọi U-ri-gia, chồng bà về
gặp vua, rồi ra lệnh cho ông về nhà nghỉ ngơi. Nếu U-ri-gia về thăm gia đình và
sau đó bà Bát-se-va có thai, âu cũng là chuyện bình thường. Nhưng “U-ri-gia nằm ở cửa đền vua với tất cả các
bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình,” và lý do ông đưa
ra thật đáng khâm phục, “Hòm Bia cũng như
Ít-ra-en và Giu-đa đang ở lều, chủ tướng tôi là ông Giô-áp và các bề tôi của
chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và
nằm với vợ tôi sao?” (11,11). Nhưng vua Đavít phải tìm mọi cách che giấu
tội lỗi của mình nên khi sử dụng trò gian dối không thành, nhà vua phải dùng
đến thủ đoạn tàn ác nhất. Ông viết thư cho tướng Giô-áp, căn dặn rằng: “Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng
nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết” (11,15). Oái ăm
thay, chính U-ri-gia lại là người cầm bản án tử cho mình để nộp cho Giô-áp(11,14).
Và Đavít đã toại nguyện. Bà Bát-se-va làm tang lễ cho chồng, sau đó vua Đavít
đón bà về làm vợ mình (11,23-27). Như
thế, trong trường hợp của vua Đavít, gian dâm dẫn đến gian dối rồi dẫn đến sát
nhân. Tội này kéo theo tội khác. Đây cũng là thực tế trong đời sống mỗi người,
có điều nhiều khi ta không đủ can đảm và khiêm tốn nhận ra sự thật này. Và vì
không thấy đúng sự thật nên không thấy rõ sự tàn phá của tội, cũng không đủ
quyết tâm để xa tránh tội.
d. Dịp tội
Khi
mô tả tội của Đavít, Sách Thánh ghi nhận, “Vào
một buổi chiều, vua Đavít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng
đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng có nhan sắc
tuyệt vời” (11,2). Sau đó nhà vua cho vời người phụ nữ đó vào cung. Như
thế, tội của Đavít khơi nguồn từ chỗ “nhìn thấy người phụ nữ đang tắm”. Giác
quan là cánh cửa cho tâm hồn mở ra với thế giới bên ngoài, nhờ đó nhận biết thế
giới, thiết lập tương giao, và làm cho đời sống thêm phong phú. Chính vì thế,
bị mất đi một giác quan, vd. khiếm thị hay khiếm thính, đều làm cho cuộc sống
trở thành nghèo nàn và khó khăn hơn. Tuy nhiên thế giới giác quan cũng có thể
trở thành cửa ngõ cho những ham muốn tội lỗi. Vì thế, các nhà đạo đức mới nói đến
việc canh chừng ngũ quan. Xa hơn, phải nói đến những dịp tội. Không phải vô lý
khi trong kinh ăn năn tội, người Công giáo nói đến quyết tâm xa tránh dịp tội,
vì bất cứ tội nào ta phạm cũng đều có dịp của nó. Không xa tránh dịp tội, sẽ
khó lòng tránh được chính tội lỗi. Một người nghiện rượu sẽ khó tránh được
chuyện uống rượu nếu hẹn hò với bạn bè trong quán nhậu. Hai bạn trẻ sẽ khó
tránh được quan hệ xác thịt khi hẹn nhau nơi tăm tối và kín đáo. Quyết tâm
không chỉ là những ý hướng tốt chung chung, nhưng một quyết tâm chân thành hàm
chứa nỗ lực xa tránh dịp tội, nhờ đó có thể giữ mình khỏi tội lỗi.
Vua Đavít được gọi là
vua thánh, và quả thật, cuộc đời ông là tấm gương sáng cho các nhà lãnh đạo
cũng như cho từng người tín hữu về nhiều phương diện. Thế nhưng con người tốt
lành đó cũng đã có những giây phút sa ngã trầm trọng, từ một đam mê nhất thời
dẫn đến nhiều hậu quả trầm trọng. Âu cũng là lời nhắc nhớ cho ta về sự thật
hiển nhiên mà Chúa Giêsu đã dạy, “Tinh
thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41). Ý thức đó sẽ giúp
ta khiêm tốn hơn, nhờ đó biết cảnh giác trước những cám dỗ trong đời sống đức
tin.
2.
Chương 13-24
a. Biết mình: khởi điểm của hành trình sám hối
(12,1-15)
Đavít phạm tội và tìm cách che giấu tội lỗi. Có lẽ ông đã thành
công vì âm mưu của ông khéo léo quá và vì ông là vua nên không ai dám đụng tới.
Nhưng hành động của ông không thể qua mắt Thiên Chúa (11,27). Ngài sai tiên tri
Na-than đến để giúp Đavít nhận ra sự thật mà ông đang tìm cách che giấu. “Bạn
hãy biết chính mình”. Người Hi Lạp coi đây là khởi điểm của triết học, và thực
sự đây là chân lý căn bản nhất trong đời người nhưng cũng lại là chân lý bị
lãng quên nhiều nhất. Đavít cũng không dễ dàng nhận ra sự thật về chính mình.
Ông vẫn tỏ ra là một vị minh quân sáng suốt và đầy tình nhân ái. Vì thế khi
nghe tiên tri Na-than kể chuyện về một người giàu có đã ức hiếp người nghèo đến
độ bắt cả con chiên duy nhất của người nghèo mà làm tiệc đãi khách của mình,
Đavít đã hùng hồn tuyên bố, “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật
đáng chết” (12,5). Nhưng trong khi ông sáng suốt nhận diện sự bất công mà tên
nhà giàu gây ra cho đồng loại, thì ông vẫn không nhận ra sự bất công trầm trọng
chính ông đã gây ra. Trong khi ông hùng hồn lên án tên nhà giàu, ông không biết
rằng ông đang tuyên án chính mình! Chỉ đến khi tiên tri Na-than thẳng thắn công
bố, “Kẻ đó chính là ngài” (12,7), ông mới ngỡ ngàng. Đavít đã không thể biết
mình khi chỉ dựa trên dư luận. Ông chỉ nhận ra sự thật khi đối diện với Thiên
Chúa và Lời của Ngài. Cũng vậy, người Công giáo có thói quen xét mình để nhận
ra sự thật về mình. Nhưng ta sẽ không nhận ra sự thật đó khi xét mình dựa vào
dư luận xã hội, dựa vào sự đánh giá của người đời, hoặc tự so sánh mình với
người khác. Ta chỉ có thể biết rõ về mình khi đối diện với Thiên Chúa và Lời
của Ngài: “Lạy Chúa, trong ánh sáng Chúa, chúng con nhìn thấy ánh sáng”.
b. Đền tội
Khi nghe tiên tri Na-than kể về một trường hợp bất công, Đavít đã
tuyên án: “Nó phải đền gấp bốn con chiên
cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót” (12,6). Lời
tuyên án này báo trước chính hình phạt ông phải chịu, tức là mất bốn người con.
Đau đớn nhất cho Đavít là ở chỗ những cái chết này lại do chính anh em trong
nhà sát hại lẫn nhau:
- 12,18: con bà Bát-se-va chết,
- 13,28: Am-nôn chết dưới tay Áp-sa-lôm,
- 18,15: Áp-sa-lom chết dưới tay quân sĩ của Đavít,
- 1V 2,24-25: A-đô-ni-gia-hu chết dưới tay Sa-lô-môn.
Theo lẽ công bằng, nếu tội lỗi đã gây ra những bất công trầm trọng
cho tha nhân, thì người phạm tội cũng phải chịu hình phạt cho cân xứng. Phải
chăng sự trừng phạt của Thiên Chúa cũng chỉ nhằm tái lập sự công bằng? Chắc
chắn là thế nhưng còn hơn thế. Từng bước một, Thiên Chúa giúp Đavít khám phá
dung nhan đích thực của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
c. Đỉnh cao: khám phá lòng thương xót
Áp-sa-lôm là đứa con phản loạn. Anh ta đã giết Am-nôn (13,23-29)
cho dù với lý do xem ra chính đáng là để báo thù cho em gái mình đã bị Am-nôn
làm nhục! Sau đó, dù đã được vua Đavít tha thứ, anh ta vẫn tìm cách tạo vây
cánh (15,1-5) và làm loạn chống lại chính vua cha (15,7-12) đến độ vua Đavít
phải bỏ cả hoàng cung mà chạy trốn. Áp-sa-lôm còn làm những hành vi xúc phạm
trầm trọng đến cha già (16,20-22).
Dù con cái ngỗ nghịch như thế, vua Đavít vẫn một niềm tha thứ.
Đavít đã chấp nhận cho Áp-sa-lôm trở về sau khi anh ta đã giết Am-môn(14,1-21).
Hơn thế nữa, dù Áp-sa-lôm làm loạn khiến Đavít phải bỏ cả hoàng cung mà chạy,
ông vẫn không muốn giết con. Ông yêu cầu các tướng sĩ của mình nương tay với Áp-sa-lôm
(18,5). Đến khi được tin Áp-sa-lôm tử trận, không những ông không vui mừng mà
còn than lan khóc lóc, đòi được chết thay cho con: “Vua Đavít run rẩy, đi lên lầu trên cửa thành và khóc. Vua vừa đi vừa
nói: Áp-sa-lôm con ơi, Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay cho con!”
(19,1-5).
Đây quả là đỉnh cao của câu chuyện thương tâm và cũng là đỉnh cao
của tình phụ tử. Nhưng cũng chính từ kinh nghiệm làm cha như thế, vua Đavít
khám phá dung nhan đích thực của Thiên Chúa là Cha. Trước kia, Đavít có lẽ chỉ
thấy được một Thiên Chúa công bằng vì tuy Người tha thứ nhưng vẫn bắt đền tội
nặng nề cho xứng với tội nhà vua đã phạm. Thế nhưng kinh nghiệm ông có trước
cái chết của Áp-sa-lôm đã giúp ông khám phá dung mạo đích thực của Thiên Chúa
là Cha giàu lòng thương xót. Mặc cho ông ngỗ nghịch đến đâu, mặc cho ông tội
lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn một niềm thương xót. Tình thương của Chúa lớn hơn
mọi tội lỗi con người đã phạm. Và đối với người Kitô hữu, kinh nghiệm này lại
chẳng trở thành chân lý sống động nơi thập giá Chúa Giêsu đó sao? Ở đó, Thiên
Chúa không chỉ nói, “Con ơi, phải chi Cha chết thay cho con,” nhưng là “Này
đây, Cha chấp nhận chết thay cho con.” Bạn có cảm nhận được điều đó khi chiêm
ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh?
CUỐN SÁCH 11
SÁCH CÁC VUA I (1V)
1. Tổng quát
Sách Các Vua 1 & 2
ghi lại những diễn tiến trong lịch sử Ít-ra-en từ cuối triều đại Đavít đến biến
cố Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, tổng cộng khoảng 410 năm. Sách Các Vua 1 gồm
có 22 chương. Có thể trình bày lược đồ tổng quát của sách như sau:
- 1V chương 1-2 : Những ngày cuối đời của vua
Đavít
- 1V chương 3-10 : Thời cực thịnh của vua Sa-lô-môn
- 1V chương 11 : Vua Sa-lô-môn suy tàn Sa-lô-môn
- 1V chương 12-13 : Đất nước phân chia
- 1V chương 14-22 :Vương quốc Giuđa (Nam) và Ít-ra-en
(Bắc)
Sách Các Vua ghi lại
những sự kiện lịch sử nhưng lại trình bày những sự kiện đó từ quan điểm tôn
giáo. Bao lâu dân Ít-ra-en thờ phượng Thiên Chúa của giao ước thì bấy lâu họ sẽ
được hưởng an bình thịnh vượng. Trong thực tế, dân Israel đã gạt bỏ Thiên Chúa
sang một bên và chạy theo các ngẫu tượng ngoại giáo, đặc biệt là thần Ba-an của
dân Canaan. Chính vì thế, Thiên Chúa đã thiết lập các tiên tri để họ kêu gọi
dân trở về với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.
Thời các vua là giai
đoạn quan trọng nhất trong lịch sử thánh, cũng là thời kỳ được biết đến một
cách chính xác nhất. Khởi đầu hai quyển Sách
Các Vua chỉ là một. Tác phẩm này là thành quả sự suy niệm của các ngôn sứ và
công việc biên soạn được hoàn tất trong thời lưu đầy ở Ba-by-lon (Dẫn nhập sách Các Vua, Thánh Kinh Cựu Ước &
Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).
Chương |
Chương |
1. Tuổi già của vua
Đa-vít và những âm mưu của A-đô-ni-gia-hu - Âm mưu của ông Na-than và bà Bát
Se-va - A-đô-ni-gia-hu khiếp sợ |
12. CUỘC LY KHAI VỀ CHÍNH
TRỊ VÀ TÔN GIÁO - Đại hội tại Si-khem - Ly khai về chính trị - Ly khai về tôn
giáo |
2. Di chúc của vua Đa-vít
- Ông A-đô-ni-gia-hu bị giết - Số phận ông Ép-gia-tha và ông Giô-áp- Sim-y
thất lời và bị giết - |
13. Kết án bàn thờ tại
Bết Ên - Người của Thiên Chúa và vị ngôn sứ - |
3. SA-LÔ-MÔN, CON NGƯỜI
KHÔN NGOAN - Tiểu dẫn - Giấc mộng ở Ghíp-ôn - Vua Sa-lô-môn xử kiện |
14. LỊCH SỬ HAI VƯƠNG
QUỐC CHO TỚI THỜI NGÔN SỨ Ê-LI-A - Giai đoạn kế tiếp triều đại vua Gia-róp-am
I |
4. Các viên chức cao
cấp của vua Sa-lô-môn |
15. Triều đại vua
A-vi-giam tại Giu-đa - Triều đại vua A-xa tại Giu-đa - Triều đại vua Na-đáp
tại Ít-ra-en - Triều đại vua Ba-sa tại Ít-ra-en |
5. Danh tiếng vua
Sa-lô-môn - Chuẩn bị xây Đền Thờ |
16. Triều đại vua Ê-la
tại Ít-ra-en - Triều đại vua Dim-ri tại Ít-ra-en - Triều đại Om-ri tại
Ít-ra-en - Dẫn vào triều đại vua A-kháp |
6. Xây cất Đền Thờ -
Trần thiết bên trong - Nơi Cực Thánh - Các Kê-ru-bim |
17. TRUYỆN NGÔN SỨ
Ê-LI-A -CƠN ĐẠI HẠN - Báo trước tai
ương |
7. Cung điện vua
Sa-lô-môn - Ông thợ đồng Khi-ram - Các trụ đồng - Giàn lăn và bồn nước bằng
đồng |
18. Cuộc gặp gỡ giữa ông
Ê-li-a và ông Ô-vát-gia-hu - Ngôn sứ Ê-li-a và vua A-kháp - Hy lễ trên núi
Các-men - Thời đại hạn chấm dứt |
8. Di chuyển Hòm Bia
Giao Ước - Thiên Chúa ngự xuống Đền Thờ - Vua Sa-lô-môn cầu nguyện - Cầu cho
dân - Kết thúc lời nguyện - Chúc lành cho dân |
19. NGÔN SỨ Ê-LI-A TẠI
KHÔ-RẾP - Trên đường lên núi Khô-rếp - Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa - Ê-li-sa được
gọi |
9. Thiên Chúa lại hiện
ra với vua Sa-lô-môn - Buôn bán với vua Khi-ram - Dân công để xây cất - Phục
vụ Đền Thờ - Vua Sa-lô-môn, người tổ chức thương thuyền |
20. CÁC CUỘC CHIẾN VỚI
NGƯỜI A-RAM - Vây hãm Sa-ma-ri - Chiến thắng của Ít-ra-en - Chiến thắng tại
A-phếch - Một ngôn sứ lên án cách cư xử của vua A-kháp |
10. Cuộc viếng thăm của
nữ hoàng Sơ-va - Sự giàu sang của vua Sa-lô-môn - Xa mã của vua Sa-lô-môn |
21. VƯỜN NHO CỦA ÔNG
NA-VỐT - Ông Na-vốt từ chối, không chịu nhượng vườn nho của mình - Ông Na-vốt
bị giết - Ngôn sứ Ê-li-a tuyên cáo án lệnh của Thiên Chúa - Vua A-kháp hối
hận |
11. Các hậu phi của vua
Sa-lô-môn - Cuộc nổi dậy của Gia-róp-am |
22. Vua A-kháp quyết
định tấn công Ra-mốt Ga-la-át - Các ngôn sứ tiên báo thành công - Ngôn sứ
Mi-kha-giơ-hu báo trước cuộc thất trận - Vua A-kháp tử trận tại Ra-mốt
Ga-la-át - Kết thúc triều vua A-kháp - Triều đại vua Giơ-hô-sa-phát ở Giu-đa
– A-khát-gia-hu vua Ít-ra-en và ngôn sứ Ê-li-a. |
2. Chương 1-11
a. Lời
cầu xin của Sa-lô-môn (1V 3,4-15)
Sa-lô-môn được xức dầu
tấn phong làm vua vào năm 970 trước Công nguyên. Khi lên ngôi vua, ông đã cầu
xin Chúa “ban cho ông một tâm hồn biết
lắng nghe, để cai trị dân Chúa và biết phân biệt phải trái” (3,9). Lời cầu
xin của ông đẹp lòng Thiên Chúa, và Ngài đã ban cho ông sự minh triết khiến ông
nổi tiếng là khôn ngoan và được coi như hình mẫu của sự khôn ngoan trong lịch
sử dân Ít-ra-en. Lời cầu xin của Sa-lô-môn đẹp lòng Chúa vì ông không cầu xin
cho cá nhân ông nhưng chỉ nhằm phục vụ Dân Chúa. Lời cầu xin đó phát xuất từ
tâm hồn khiêm tốn, ý thức rằng sẽ không thể chu toàn trách nhiệm lớn lao được
trao phó nếu không có ơn Chúa phù trì. Lời cầu xin đó cũng cho thấy tầm quan trọng
của sự lắng nghe, lắng nghe tiếng Chúa và lắng nghe tiếng dân, vì nếu không
lắng nghe thì sẽ không nhận ra sự thật và không thể đáp trả những nguyện vọng
của Dân Chúa. Điều đáng tiếc là Sa-lô-môn đã không trung thành mãi với ý nguyện
ban đầu. Ông đã không còn lắng nghe tiếng Chúa, cũng chẳng nghe tiếng than thở
của dân (chương 9), càng ngày càng sa đà vào lối sống của dân ngoại, và vì thế
đưa đất nước đến chỗ suy vong.
Lời cầu xin của Sa-lô-môn
có giúp bạn nhìn lại việc cầu nguyện của bạn không? Bạn có ý thức rằng việc
quan trọng nhất khi cầu nguyện không phải là nói mà là lắng nghe? Bạn có thái
độ lắng nghe tâm tư của người khác hay chỉ muốn người khác lắng nghe nỗi lòng
của mình?
b. Xây dựng đền thờ (chương 5-11)
Vua Đavít ước mong xây
dựng Đền thờ Sa-lô-môn kính Đức Chúa, nhưng ước nguyện này chỉ được hoàn thành
dưới triều Sa-lô-môn. Vào năm thứ tư triều đại của ông, Sa-lô-môn đã bắt đầu
công trình xây dựng đền thờ, và sau bảy năm, công trình được hoàn thành (chương
6). Sau khi hoàn thành, nhà vua đã cho kiệu Hòm Bia của Đức Chúa vào Đền thờ,
và vinh quang Đức Chúa tràn ngập Đền thờ. Trong dịp này, vua Sa-lô-môn đã thưa
lên Chúa những lời thật sâu sắc, “Có thật
Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi
Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây?” (8,29).
Quả thật, Thiên Chúa
chẳng lệ thuộc vào một ngôi nhà bằng gạch đá. Ngài chỉ hiện diện ở đó vì tình
thương đối với Dân Ngài. Khi dân không còn trung tín nữa thì ngay cả sự hiện
diện của Đền thờ cũng không cần thiết! Sách Các Vua đã kết thúc với sự kiện bi
đát là Đền thờ bị phá huỷ và dân bị đem đi lưu đày. Chính Chúa đã cảnh báo Sa-lô-môn
từ trước, “Nếu ngươi và con cháu các
ngươi tráo trở bỏ đường lối Ta…. Thì Ta sẽ tiêu diệt Ít-ra-en khỏi phần đất Ta
đã ban cho chúng. Còn Đền thờ Ta đã thánh hoá để kính Danh Ta, Ta sẽ loại trừ
khỏi nhan Ta, và Israel trở thành bia miệng cho mọi dân tộc đàm tiếu”
(9,2).
Những điều này lại
chẳng giúp chúng ta suy nghĩ về nhà thờ của ta và về việc thờ phượng ngày nay
sao? Những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ của ta có đi đôi với đời sống thờ
phượng chân thành và đời sống luân lý tốt đẹp không?
3. Chương 12-22
a. Chính trị và Tôn
giáo
Sau cuộc ly khai về
chính trị, Gia-róp-am làm vua toàn Ít-ra-en, chỉ còn Giuđa theo nhà Đavít
(12,20). Gia-róp-am quyết định đặt 2 bò mộng bằng vàng ở Bết-ên và Đan nhằm mục
đích chính trị là để dân khỏi phải lên Giêrusalem để làm việc thờ phượng, và
như thế ông giữ dân ở lại với mình (12,26-33). Như thế, tôn giáo đã bị lợi dụng
để phục vụ cho ý đồ chính trị. Đây là điều tái diễn thường xuyên trong lịch sử
nhân loại. Hãy thử nhớ lại tôn giáo thờ hoàng đế trong đế quốc Roma. Hãy thử
nhớ đến chính sách trong các chế độ độc tài khi người ta tìm cách thần thánh
hoá một con người để thay thế Thiên Chúa đích thực, hoặc sử dụng tôn giáo như
công cụ cho ý đồ chính trị của mình. Thiên Chúa không còn là Đấng được tôn thờ
nhưng chỉ là phương tiện phục vụ những tính toán quyền lực của con người. Đương
nhiên Thiên Chúa không thể chấp nhận điều đó (13, 1-5), và Hội Thánh phải luôn
luôn cảnh giác trước nguy cơ này.
b. Trung thành với Lời Chúa
Sách
1V 13,11-32 kể lại một câu chuyện thật khó hiểu. Người của Thiên Chúa đã trung
thành với Lời Chúa đến nỗi khước từ lời mời của nhà vua, thế rồi một người khác
cũng tự xưng là tiên tri đã đến khuyến dụ và người của Thiên Chúa đã nghe theo.
Cũng vì thế mà ông phải chịu hình phạt khủng khiếp là bị sư tử vồ. Tại sao
Thiên Chúa lại khó khăn và độc ác như thế? Người ta bị lừa dối chứ đâu phải cố
tình làm trái mà bị Thiên Chúa trừng phạt? Ta có thể nêu lên những câu hỏi
tương tự, tuy nhiên bài học cần quan tâm ở đây là sự trung thành tuyệt đối với
Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh. Bài học này cần thiết cho các tín hữu ngày nay
hơn bao giờ. Ngày nay ta đang đối diện với cơn cám dỗ thoả hiệp với thế gian và
sự thoả hiệp này được biện minh bằng những lý do hết sức tốt đẹp. Chẳng hạn,
tại sao Giáo Hội không cho phép ly dị, bắt người ta phải sống trong cảnh đau
khổ mãi? Tại sao Giáo Hội không cho phép sử dụng những phương tiện ngừa thai để
hạn chế sinh sản và bảo vệ hạnh phúc cho nhân loại? Tại sao Giáo Hội lại loại
trừ những người đồng tính luyến ái, không biết cảm thông với họ? ... Cũng ở
đây, ta mới hiểu tại sao Giáo Hội Công giáo cương quyết trong nhiều lập trường
về đức tin và luân lý, là vì Giáo Hội muốn trung thành với Lời Chúa trong mọi
hoàn cảnh, và xác tín rằng chỉ có Lời Chúa mới đem lại sự sống đích thực và
vĩnh cửu cho con người.
c. Tập
trung vào tiên tri Ê-li-a
c.1. Một vài ghi nhận về Ê-li-a
Tên gọi của tiên tri Ê-li-a có nghĩa: Gia-vê là Thiên Chúa
của tôi. Ta không có đầy đủ những sử liệu về việc sinh hạ và thiếu thời của
tiên tri. Tuy nhiên, ta biết chắc rằng tiên tri Ê-li-a đã hoạt động dưới thời các vua A-kháp, A-vi-gia, và Gia-róp-am
(873-843 BC). Các vua thời đó thờ phượng Thiên
Chúa nhưng cũng chạy theo các thần ngoại (Ba-an và A-sê-ra) để cầu mưa nhằm làm
tươi tốt đất đai. Nhiều tiên tri và tư tế khác cũng chạy theo, nhưng Ê-li-a cương quyết đòi hỏi một niềm tin
trọn vẹn và tinh tuyền vào Gia-vê. Hoàng hậu I-de-ven là người Phoenician, cũng
là người đỡ đầu cho những việc thờ cúng ngoại giáo này, và tiên tri Ê-li-a đã gặp nhiều khó khăn với bà
hoàng hậu này.
c.2. Lòng nhiệt thành của Ê-li-a
Sách
Các Vua kể lại việc tế lễ trên núi Các-men (18, 20-40). Với con người ngày nay,
có nhiều chi tiết trong câu chuyện này khó được chấp nhận, ví dụ tiên tri Ê-li-a thách đấu với các tư tế Ba-an,
cuối cùng đã ra lệnh bắt và giết họ... Thiết nghĩ cần vượt lên trên những chi
tiết trên để nắm bắt ý nghĩa chính của câu chuyện. Dân Chúa lúc đó là những kẻ
hai lòng, đi khập khiễng (18,20-21), và tiên tri Ê-li-a đã làm mọi cách để lôi kéo mọi người về với niềm tin đích
thực là niềm tin vào Thiên Chúa của giao ước. Tất cả làm nổi bật lòng nhiệt
thành của vị tiên tri đối với công việc của Chúa (19,4).
Lòng
nhiệt thành của tiên tri Ê-li-a chất
vấn đức tin và lương tâm Kitô giáo của mỗi chúng ta. Tình trạng mà Ê-li-a gọi là khập khiễng, hai lòng,
nghĩa là không toàn tâm toàn ý với Chúa, không phải là không có trong đời sống
đức tin của ta. Ta cũng không dám chiến đấu cho chính nghĩa của Chúa như Ê-li-a đã chiến đấu, chủ yếu là vì sợ
hãi, sợ mất quyền lợi, địa vị hay một thứ gì khác... trong khi điều đáng sợ
nhất là đánh mất chính Chúa thì lại không sợ!
c.3. Nỗi chán nản của vị tiên tri
Vì
nhiệt thành với công việc Nhà Chúa, tiên tri Ê-li-a phải đối diện với mối đe doạ đến từ chính bà hoàng I-de-ven,
và phải chạy trốn (19, 1-3). Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở
với Chúa, “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ
xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (19,4).
Nỗi chán nản của Ê-li-a khiến ta nhớ
đến tâm trạng của thánh Gioan Tẩy giả trong ngục thất (x. Lc 7,18-23) và của
chính Chúa Giêsu trong Vườn Ghếtsêmani.
Trong
đời sống đức tin, người Kitô hữu cũng có những giây phút mệt mỏi, chán nản, đôi
khi ngã lòng và sinh ra nghi nan vì thấy mình phải chịu nhiều thiệt thòi trên
đường theo Chúa, và dường như Chúa không hành động gì cả. Trong những giây phút
đó, hãy nhớ đến Ê-li-a, Gioan Tẩy giả
và chính Chúa Giêsu để gặp được ở đó những người bạn đồng hành.
c.4. Chúa luôn đồng hành với tôi tớ Ngài
Chúa
vẫn luôn đồng hành với Ê-li-a. Khi vị
tiên tri mỏi mệt và chán nản, có thiên sứ đem bánh và nước đến cho ông (19,
5-8) để ông có sức đi tiếp hành trình đến núi của Thiên Chúa. Ở đó vị tiên tri
đã gặp gỡ Chúa không phải trong cơn động đất kinh hoàng hay lửa cháy bừng bừng
nhưng trong tiếng gió hiu hiu (19,12).
Cũng
thế, Chúa không bao giờ bỏ rơi ta trong hành trình đức tin. Người luôn đồng
hành với ta và ban sức mạnh cho ta. Bánh Thánh Thể chính là lương thực thần
linh cho lữ khách trên đường hành hương, là nguồn sức mạnh cho người chiến sĩ
trong cuộc chiến của đức tin. Hình ảnh Ê-li-a
gặp gỡ Chúa trong tiếng gió hiu hiu cũng là lời mời gọi ta biết trở về trong
tĩnh lặng; ở đó ta có thể gặp gỡ Chúa và lắng nghe tiếng gọi thầm kín của
Người.
CUỐN SÁCH 12
SÁCH CÁC VUA II (2V)
Chương |
Chương |
1. Sau khi vua A-kháp
qua đời |
14. Vua A-mát-gia-hu cai
trị Giu-đa - Vua Gia-róp-am II cai trị Ít-ra-en |
2. Ngôn sứ Ê-li-a được
đem đi. Ông Ê-li-sa thay thế - Hai phép lạ của ông Ê-li-sa |
15. Vua A-dác-gia cai
trị Giu-đa - Vua Mơ-na-khêm cai trị Ít-ra-en - Vua Pơ-các-gia cai trị
Ít-ra-en - Vua Pe-các cai trị Ít-ra-en - Vua Giô-tham cai trị Giu-đa - Chính
vua đã xây Cửa Trên của Nhà ĐỨC CHÚA. |
3. CUỘC CHIẾN CHỐNG
MÔ-ÁP - Thời vua Giô-ram cai trị Ít-ra-en - |
16. Vua A-khát cai trị
Giu-đa |
4. VÀI PHÉP LẠ CỦA ÔNG
Ê-LI-SA - Dầu của bà goá - Ông Ê-li-sa và mẹ con người phụ nữ Su-nêm - Nồi
cháo độc |
17. Vua Hô-sê cai trị
Ít-ra-en - Sa-ma-ri thất thủ - Suy gẫm về vương quốc Ít-ra-en suy tàn - Nguồn
gốc người Sa-ma-ri |
5. Ông Na-a-man được
chữa khỏi bệnh phung hủi |
18. Dẫn nhập vào triều
vua Khít-ki-gia - Nhắc lại chuyện Sa-ma-ri thất thủ - Cuộc xâm lăng của vua
Xan-khê-ríp - Sứ mạng của quan chánh chước tửu |
6. Cái rìu đã mất lại
tìm thấy - Ông Ê-li-sa tóm gọn một toán quân A-ram - Nạn đói trong thành
Sa-ma-ri bị bao vây - Ông Ê-li-sa báo tin cơn thử thách sắp chấm dứt |
19. Cầu cứu ngôn sứ
I-sai-a - Viên chánh chước tửu trở về - Ông I-sai-a can thiệp - Vua
Xan-khê-ríp bại trận và chết |
7. Trại quân A-ram bỏ
trống - Hết cuộc bao vây và hết nạn đói |
20. Vua Khít-ki-gia lâm bệnh
và được khỏi - Các sứ giả của vua Mơ-rô-đác Ba-la-đan - Kết thúc triều vua
Khít-ki-gia |
8. Kết thúc truyện
người phụ nữ Su-nêm - Ông Ê-li-sa và ông Kha-da-ên thành Đa-mát - Vua Giô-ram
cai trị Giu-đa |
21. HAI VUA BẤT TRUNG -
Vua Mơ-na-se cai trị Giu-đa - Vua A-môn cai trị Giu-đa |
9. Xức dầu phong vương
cho ông Giê-hu - Ông Giê-hu được tôn làm vua - Ông Giê-hu chuẩn bị tiếm quyền
- Vua Giơ-hô-ram bị sát hại - Vua A-khát-gia bị sát hại - Bà I-de-ven bị sát
hại |
22. VUA GIÔ-SI-GIA VỚI
VIỆC CẢI CÁCH TÔN GIÁO - Dẫn nhập vào triều vua Giô-si-gia - Tìm thấy sách
Luật - Thỉnh ý nữ ngôn sứ Khun-đa |
10. Hoàng tộc Ít-ra en
bị sát hại - Các ông hoàng Giu-đa bị hạ sát - Ông Giê-hu và ông Giơ-hô-na-đáp
- Sát hại các tín đồ thần Ba-an và phá huỷ đền thờ - Ông Giê-hu làm vua
Ít-ra-en |
23. Đọc sách Luật - Việc
cải cách tôn giáo ở Giu-đa - Việc cải cách lan rộng tới vương quốc miền Bắc |
11. Truyện bà A-than-gia
- |
24. Dẫn vào triều vua
Giơ-hô-gia-khin - Cuộc lưu đày thứ nhất |
12. Vua Giô-át cai trị
Giu-đa |
25. Giê-ru-sa-lem bị vây
hãm - Giê-ru-sa-lem bị cướp phá. Cuộc lưu đày thứ hai - Ông Gơ-đan-gia-hu,
tổng trấn xứ Giu-đa - Vua Giơ-hô-gia-khin được ân xá |
13. Vua Giơ-hô-a-khát
cai trị Ít-ra-en - Vua Giô-át cai trị Ít-ra-en - Vua Giô-át chiến thắng quân
A-ram |
|
1. Ơn gọi của Ê-li-sê (2V 1,1-25)
Trong trình thuật về ơn
gọi của Ê-li-sê, nên quan tâm đến một vài chi tiết: Áo choàng của Ê-li-a là
biểu tượng quyền năng của vị tiên tri (x.2V 2, 8.14: đập áo choàng rẽ biển). Ê-li-a đã đáp lại lời mời gọi bằng cách
giết bò và lấy cày làm củi. Hành động này diễn tả quyết tâm dứt khoát từ bỏ mọi
sự để theo thầy. So sánh với Chúa Giêsu (đọc Lc 9, 57-62), Người còn đòi hỏi
nhiều hơn đến độ “để kẻ chết chôn kẻ chết”.
Chúa Giêsu không coi nhẹ quan hệ gia đình nhưng Người muốn cho thấy tính tuyệt
đối của Nước Trời.
Những
trình thuật trên giúp ta thấy rõ hơn đòi hỏi từ bỏ trong đời sống Kitô hữu,
không chỉ trong đời tu mà đối với mọi tín hữu, mọi ơn gọi. Sự từ bỏ này không
những được thể hiện trong những chọn lựa quan trọng của đời sống mà còn cần
được thể hiện ngay trong những chọn lựa hằng ngày.
2. Quyền năng của Lời
Thiên Chúa
a. Ê-li-sê làm nhiều phép lạ
Tiên tri Ê-li-sê làm nhiều phép lạ: những phép lạ
trên sự vật như chữa lành nước uống, lượng dầu của bà goá nghèo khổ; những phép
lạ trên bệnh tật và cả thần chết. Điều cần nhấn mạnh ở đây là quyền năng của
Lời Chúa, Lời chữa lành, Lời ban sự sống. Ý nghĩa này được thể hiện cách cụ thể
qua phép lạ chữa lành Na-a-man.
b. Phép lạ chữa lành Na-a-man (5,1-17)
Vua
Ít-ra-en bất lực trước cơn bệnh của Na-a-man. Dù thương mến vị tướng này hết
sức, nhà vua không thể giúp gì được. Như thế, quyền lực chính trị và quân sự
không phải là tất cả. Rộng hơn nữa, mọi thứ quyền lực con người có trong tay
đều có những giới hạn của nó. Sự giới hạn này gắn liền với chính thân phận hữu
hạn của loài thụ tạo. Không biết nhìn nhận những giới hạn này là không sống
đúng với sự thật về con người, và có thể dẫn đến những hành động tai hại. Thái
độ của Na-a-man: Ông từ chối đi tắm ở sông Gio-đan theo yêu cầu của tiên tri Ê-li-sê vì lập luận rằng có nhiều dòng
sông ở quê ông còn tốt hơn. Chính ở đây, độc giả khám phá ý nghĩa của bản văn:
vấn đề không phải là dòng sông mà là lời của vị tiên tri dạy, đúng hơn là Lời
Thiên Chúa phán qua miệng vị tiên tri. Chính Lời Thiên Chúa làm cho nước sông
Giođan có khả năng chữa lành, chính Lời Thiên Chúa chữa lành và ban sự sống.
Những chi tiết trên
giúp ta suy nghĩ về đức tin và đời sống Kitô hữu của mình. Nước sông Gio-đan là
hình ảnh nước rửa tội: Bệnh phong là hình ảnh của tội lỗi (thân phận người
phong trong Ít-ra-en mô tả ý nghĩa của
tội lỗi: mất hiệp thông với Thiên Chúa, với cộng đoàn, bị xa cách). Na-a-man
nhờ nước sông Gio-đan mà được sạch, da thịt trở nên đẹp đẽ như da đứa trẻ. Cũng
vậy, nước rửa tội ban cho ta ơn tái sinh, dẫn ta vào sự hiệp thông đã mất.
Ý nghĩa của cử hành bí
tích: Trong mọi cử hành bí tích đều có Lời và chất liệu như nước, dầu, bánh...
Đây chỉ là những chất liệu bình thường trong cuộc sống nhưng Lời Thiên Chúa
(qua thừa tác viên) làm cho chất liệu mang nội dung mới. Cả linh mục cũng như
giáo dân đều cần quan tâm đến ý nghĩa này để cử hành bí tích với ý thức đức
tin, không biến bí tích thành ma thuật. Một chi tiết cần lưu ý vì có thể gây
thắc mắc là câu chuyện Ê-li-sê nguyền
rủa đám trẻ con khiến chúng chết. Hành động đó không phát xuất từ sự độc ác của
vị tiên tri nhưng để làm nổi bật lời cảnh giác: đừng coi nhẹ lời ngôn sứ.
3. Trung tín với Lời
Chúa
Tiên
tri là người được Chúa sai đi để công bố Lời Chúa cho dân, vì thế các ngài nhấn
mạnh rất nhiều đến việc trung tín với Lời Chúa. Có thể lấy một vài câu chuyện
trong Sách Các Vua để minh hoạ.
a. Truyện Hoàng hậu I-de-ven (1V,21)
Vì
lòng tham, vua A-kháp sử dụng mọi thủ đoạn tồi tệ nhất để chiếm đoạt vườn nho
của Na-vốt. Na-vốt bị tố cáo tội phạm thượng đến Thiên Chúa và Đức Vua, và ông
bị ném đá chết. Và nhà vua ung dung chiếm đoạt vườn nho của Na-vốt (1V 21,
4-15). Thế nhưng tiên tri Ê-li-sê
được Chúa sai đến tuyên án lệnh của Thiên Chúa, một án lệnh khủng khiếp: “Ta sẽ giáng tai hoạ xuống trên ngươi, Ta sẽ
xoá sạch hậu duệ ngươi… Chó sẽ ăn thịt I-de-ven…” (1V 21,23). Và án lệnh đã
được thi hành: vì vua A-kháp bày tỏ lòng sám hối nên Chúa phán, “Vì nó đã hạ mình trước mặt Ta, nên Ta sẽ
không giáng họa trong buổi sinh thời của nó, nhưng đến đời con nó, Ta sẽ giáng
họa xuống nhà nó” (21,29). Nhưng bà I-de-ven đã phải chịu hình phạt như Lời
Chúa phán (2V 9, 30-37).
b.Truyện Vua A-kháp (2V1)
Nhà
vua đau ốm và sai người đi thỉnh ý thần Ba-an xem có qua nổi cơn bệnh không (2V
1,2). Quả là một cử chỉ tỏ tường cho thấy nhà vua đã bỏ Chúa để tin theo các
thần tượng ngoại giáo. Vì thế Chúa phán qua miệng tiên tri Ê-li-a: “Ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay sao, mà
các anh lại đi thỉnh ý Ba-an… Vì thế Đức Chúa phán thế này: ngươi sẽ không
xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào ngươi cũng chết” (2V 1,
3-4). Và án lệnh của Thiên Chúa đã được thi hành (2V 1,17).
Hai câu truyện trên và
nhiều sự kiện khác trong sách đều nhằm làm nổi bật đòi hỏi trung tín với Thiên
Chúa và với giao ước. Đây không phải là lời đe doạ nhưng là lời mời gọi cho tất
cả các tín hữu, để mỗi người cố gắng sống trung tín với ơn gọi đã lãnh nhận: ơn
gọi Kitô hữu, ơn gọi gia đình, ơn gọi linh mục tu sĩ. Cuộc sống ta sẽ chỉ có
hạnh phúc thật sự sâu xa và bền vững khi sống sự trung tín này.
CUỐN SÁCH 13&14
SỬ BIÊN NIÊN I & II (1Sb & 2Sb)
1. Tổng quát
Các học giả cho rằng
sách Sử biên niên I & II là sách viết lại lịch sử Ít-ra-en từ quan điểm của
các tư tế thời hậu lưu đày. Các học giả cũng đồng ý rằng hai sách này được viết
lịch sử trong sách Đệ Nhị Luật, và có lẽ được biên soạn sau khi những người lưu
đày đã trở về Giuđa. Nói chung, sách bàn đến những vấn đề liên quan đặc biệt
đến các tư tế, bao gồm việc giữ ngày sabát, những chỉ dẫn về nghi lễ, những vật
dụng dùng trong Đền thờ và những điều tương tự. Tại sao sách lại nhấn mạnh
những điều này? Dân được Chúa tuyển chọn, dân có Chúa là vua và là chiến binh
(x. Xh 15,3,18), dân đã được lãnh nhận lời hứa về đất đai và sự sung túc mầu
mỡ… dân ấy hiện nay ra sao? Thưa là một dân đã mất chủ quyền dân tộc. Những lời
hứa tốt đẹp đã thuộc về quá khứ, còn hiện tại chỉ là sự thống trị của đế quốc
Ba Tư. Vậy nếu có cái gì đó để dựa vào mà hy vọng cho tương lai, thì cái gì đó
chỉ có thể là chính căn tính của Ít-ra-en xét như là dân của Chúa. Chính vì
thế, cần nhấn mạnh đến sự hiện diện của Chúa ở giữa dân. Chính vì thế, cần nhấn
mạnh đến Đền thờ cũng như các tư tế của Chúa. Hiểu như thế, sách Sử biên niên
là lời an ủi và khích lệ dành cho dân: mọi sự không phải đã mất hết. Họ vẫn là
dân của Chúa, và chính ở đó mà tương lai rộng mở.
Mặc dù được viết theo
lịch sử trong sách Đệ nhị luật, tác giả sách Sử biên niên có những điểm nhấn
khác, đặc biệt là khi nói đến các vua của Giuđa, Đavít và Sa-lô-môn được đề cao
tối đa. Khi kể về Đavít, tác giả không nói đến chuyện gian dâm với bà Bát-sa-ve,
không có lời tiên tri kết án vua, không có chuyện con trai phản nghịch vua cha,
cũng không có âm mưu ám hại vua. Nghĩa là tác giả muốn trình bày Đavít như một
vị vua lý tưởng. Về Salomon cũng thế. Không thấy tác giả nói đến việc Sa-lô-môn
có 700 bà vợ ngoại giáo, từ đó dẫn đến việc thờ các thần ngoại giáo. Cũng giống
như vua cha, Sa-lô-môn được trình bày như một tín hữu tuyệt đối trung thành với
Thiên Chúa. Lý do là vì tác giả muốn trình bày một quá khứ thật tốt đẹp, và đó
là nền tảng cho hy vọng vào tương lai. Những người dân thời hậu lưu đày cần
nhìn lại quá khứ để học bài học trung tín với Thiên Chúa của giao ước. Vì chúng ta nên cần có cái nhìn tổng quát về
nội dung.
SỬ BIÊN NIÊN I GỒM 29 CHƯƠNG
Phần I: Các bản gia phả
(1,1 – 9,34)
Phần II: Lịch sử vua
Đavít (9,35 – 29,29)
SỬ BIÊN NIÊN II GỒM 36 CHƯƠNG
Phần I: Triều đại của
Sa-lô-môn (1,1 – 9,31)
Phần II: Thời quân chủ
trước vua Rơ-kháp-am (10,1 – 27,9)
Phần III Cuộc cải cách
của A-khát và Giơ-hô-a-khát (28,1 – 36,1)
Phần IV Chấm dứt vương
quốc (36,2-23)
Chương |
Chương |
1. DÒNG HỌ VUA ĐA-VÍT:
CÁC GIA PHẢ - TỪ A-ĐAM ĐẾN ÍT-RA-EN - Gốc tích của ba nhóm |
15. Chuẩn bị di chuyển -
Nghi thức rước kiệu |
2. Các con của ông
Ít-ra-en: Rưu-vên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Ít-xa-kha, Dơ-vu-lun, Đan,
Giu-se, Ben-gia-min, Náp-ta-li, Gát, A-se. |
16. Các thầy Lê-vi phục
vụ trước Hòm Bia - |
3. NHÀ ĐA-VÍT - Các con
của vua Đa-vít - Các vua Giu-đa - Hoàng tộc sau thời lưu đày |
17. Lời sấm của ông
Na-than - Vua Đa-vít cầu nguyện |
4. CÁC CHI TỘC MIỀN NAM
- Ngành ông Giu-đa. Ông Sô-van |
18. Các cuộc chiến tranh
thời vua Đa-vít - |
5. CÁC CHI TỘC BÊN KIA
SÔNG GIO-ĐAN - Ngành ông Rưu-vên - CHI TỘC LÊ-VI - Tiền bối của các thượng tế |
19. Sứ giả của vua
Đa-vít bị nhục mạ - Chiến dịch thứ nhất đánh người Am-mon - Thắng quân A-ram |
6. Con cháu ông Lê-vi -
Nơi sinh sống của con cháu A-ha-ron |
20. Chiến dịch thứ hai
đánh người Am-mon - Chiến công đánh bại quân Phi-li-tinh |
7. CÁC CHI TỘC MIỀN BẮC - Ngành ông Ít-xa-kha -
Ngành ông Ben-gia-min - Ngành ông Mơ-na-se - Ngành ông Ép-ra-im - Ngành ông
A-se
|
21. TIẾN TỚI VIỆC XÂY
ĐỀN THỜ - Thống kê dân số - Bệnh dịch. Thiên Chúa tha thứ - Dựng bàn thờ |
8. Con cháu ông
Ben-gia-min - Ông Sa-un và gia tộc của ông |
22. Chuẩn bị xây Đền
Thờ |
9. Giê-ru-sa-lem, thành
của Ít-ra-en và là Thánh Đô - VUA SA-UN, NGƯỜI TIỀN NHIỆM CỦA VUA ĐA-VÍT -
Lai lịch vua Sa-un |
23. Chia nhóm và phân
công cho các thầy Lê-vi |
10. Trận Ghin-bô-a. Vua
Sa-un bị tử thương - |
24. Các nhóm tư tế |
11. Vua Đa-vít được
phong làm vua Ít-ra-en - Chiếm Giê-ru-sa-lem - Các dũng sĩ của vua Đa-vít |
25. Các ca viên |
12. Những người đầu tiên
hợp tác với vua Đa-vít - Ông Đa-vít kết nạp và đặt họ vào cấp chỉ huy quân
đội. |
26. Các người giữ cửa |
13. Cung nghinh Hòm Bia
từ Kia-giát Giơ-a-rim về |
27. Tổ chức dân sự và
quân sự |
14. Vua Đa-vít tại
Giê-ru-sa-lem. Cung điện và con cái vua |
28. Vua Đa-vít ra chỉ
thị về Đền Thờ |
|
29. Các của dâng cúng -
Vua Đa-vít cảm tạ Thiên Chúa - Vua Sa-lô-môn lên ngôi vua Đa-vít băng hà |
SỬ BIÊN
NIÊN CUỐN 2 |
|
1. Vua Sa-lô-môn được
ơn Khôn Ngoan |
19. Cải tổ nền tư pháp |
2. Những chuẩn bị cuối
cùng. Ông Khu-ram thành Tia |
20. Một cuộc thánh chiến
- Cuối triều vua Giơ-hô-sa-phát |
3. Tiến hành công việc |
21. Vua A-khát-gia,
hoàng hậu A-than-gia-hu và vua Giô-át |
4. Tiến hành công việc
(tiếp) |
22. Triều vua
A-khát-gia-hu - Tội ác của bà A-than-gia-hu |
5. Di chuyển Hòm Bia
Giao Ước - Thiên Chúa ngự xuống Đền Thờ |
23. Vua Giô-át lên ngôi.
Bà A-than-gia-hu chết - Cuộc cải cách của tư tế Giơ-hô-gia-đa |
6. Vua Sa-lô-môn hiệu
triệu dân chúng - Cầu cho dân |
24. Vua Giô-át trùng tu
Đền Thờ - Sự yếu đuối của vua Giô-át. Thiên Chúa trừng phạt - Quân A-ram đã
trị tội vua Giô-át |
7. Lễ cung hiến - Thiên
Chúa phán với vua Sa-lô-môn |
25. Vua A-mát-gia-hu lên
ngôi - Cuộc chiến chống Ê-đôm - Chiến tranh với Ít-ra-en - Cuối triều
A-mát-gia-hu |
8. Hoàn tất các công
trình xây cất - Vinh quang của vua Sa-lô-môn |
26. Khởi đầu triều đại
vua Út-di-gia-hu - Thế lực của vua Út-di-gia-hu - Vua Út-di-gia-hu kiêu ngạo
và bị trừng phạt |
9. Vinh quang của vua
Sa-lô-môn (tiếp) |
27. Triều đại vua
Giô-tham |
10. NHỮNG CUỘC CẢI CÁCH
ĐẦU TIÊN THỜI QUÂN CHỦ - Ly khai |
28. Tổng quát về triều
đại vua A-khát - Cuộc xâm lăng - Những lỗi lầm và cái chết của vua A-khát |
11. Hoạt động của vua
Rơ-kháp-am - Hàng tư tế về quy thuận vua Rơ-kháp-am - Gia đình vua Rơ-kháp-am |
29. CÔNG CUỘC PHỤC HƯNG
CỦA VUA KHÍT-KI-GIA - Thanh tẩy Đền Thờ - Dâng lễ tạ tội - Tái lập nền phụng
tự |
12. Vua Rơ-kháp-am bất
trung với ĐỨC CHÚA |
30. Họp mừng lễ Vượt Qua
- Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men - |
13. VUA A-VI-GIA VỚI
HÀNG TƯ TẾ GIÊ-RU-SA-LEM - Chiến tranh - Vua A-vi-gia thuyết phục đối phương
- Giao tranh - Cuối triều vua A-vi-gia |
31. Cải tổ việc phụng tự
- Chấn chỉnh hàng giáo sĩ |
14. Bình an dưới thời
vua A-xa - Dưới triều đại vua, xứ sở được yên hàn trong mười năm - Cuộc xâm
lăng của De-rác |
32. Cuộc xâm lăng của
Xan-khê-ríp - Tóm tắt triều đại vua Khít-ki-gia |
15. Lời kêu gọi của ông
A-dác-gia-hu và cuộc cải cách |
33. SỰ BẤT TRUNG CỦA CÁC
VUA MƠ-NA-SE VÀ A-MÔN - Vua Mơ-na-se phá huỷ công trình của vua Khít-ki-gia -
Vua Mơ-na-se trở lại |
16. Cuộc chiến với
Ít-ra-en - Cuối triều vua A-xa |
34. CUỘC CẢI CÁCH DƯỚI
TRIỀU VUA GIÔ-SI-GIA-HU - Những cuộc cải cách đầu tiên - Công trình tu bổ Đền
Thờ - Tìm thấy sách Luật - Lời sấm của nữ ngôn sứ - Tái lập giao ước |
17. Quyền lực vua
Giơ-hô-sa-phát - Mối bận tâm đối với Lề Luật |
35. Chuẩn bị lễ Vượt Qua
- Đại lễ - Triều đại Giô-si-gia-hu kết thúc |
18. Hiệp ước với vua
A-kháp và sự can thiệp của các ngôn sứ - Cuộc giao tranh. Một ngôn sứ can
thiệp |
36. TÌNH HÌNH ÍT-RA-EN
CUỐI THỜI QUÂN CHỦ - Vua Giơ-hô-a-khát - Vua Giơ-hô-gia-kim - Vua
Xít-ki-gia-hu - Dân tộc - Sụp đổ lư đày Ba-bi-lon - Hướng về tương lai. |
2. Giáo huấn
Tác
giả viết lại lịch sử Ít-ra-en từ quan điểm tôn giáo: đòi hỏi phải trung thành
với Giavê, với những lề luật của giao ước, với Lời Chúa được các tiên tri loan
báo. Bất trung sẽ dẫn đến án phạt, và cuối cùng là Đền thờ bị phá huỷ, mất quê
hương và lưu đày. Không có vị vua nào là tối cao cả. Chính Giavê là vua. Vua
Đavít cũng như các vị vua kế vị ông sau này chỉ là những đại diện của Thiên
Chúa mà thôi chứ không là gì khác, và một vị vua nhân loại chỉ trung thành với
Chúa khi tuân giữ giao ước và lời Chúa phán qua các tiên tri. Cũng vì thế, sách
nhấn mạnh đến Đền thờ hơn là nhà vua, và cho rằng vua có trách nhiệm phải sửa
sang Đền thờ và canh tân đời sống thờ phượng vì Thiên Chúa ở trong Đền thờ mang
thánh danh Người.
Theo tác giả, nếu không
biết lịch sử, sẽ lại vướng vào những sai lầm của quá khứ. Vì thế ông viết lại
lịch sử để những người sống trong hiện tại và tương lai có thể rút ra được
những bài học hữu ích từ đó. Cũng vì thế, những gì tác giả trình bày là những
sự kiện, nhưng cũng là những “giải thích thần học” về sự kiện. Nếu dân không
muốn một tương lai u ám, bị kết án và lưu đày, thì phải tôn thờ Chúa cho nghiêm
túc, cụ thể là vâng phục và trung thành với giao ước. Những bài học lịch sử này
không chỉ cần thiết cho dân Chúa sau thời lưu đày, nhưng còn là dịp cho dân
Chúa ngày nay suy nghĩ về đời sống Giáo Hội.
CUỐN SÁCH 15&16
SÁCH ÉT-RA VÀ NƠ-KHE-MI-A (Er & Nkm)
1. Lịch sử
Bối cảnh của sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a là thời kỳ 200 năm của đế quốc Ba
Tư. Thời kỳ này bắt đầu từ năm 539 TCN khi Ky-rô đại đế của Ba Tư nắm quyền kiểm
soát toàn vùng Cận Đông, cho đến năm 333 trước Công nguyên là lúc Alexander đại
đế của Hy Lạp giành quyền thống trị. Sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a tập trung vào
hai giai đoạn: (1) giai đoạn thứ nhất (538-515) khi những người lưu đày đầu
tiên trở về Giuđa dưới quyền lãnh đạo của Na-bu-cô-nô-xo và tái thiết Đền thờ
dưới sự lãnh đạo của Dơ-rúp-ba-ven và Giê-su-a, và (2) giai đoạn thứ hai
(445-398) với việc xây dựng tường thành Giêrusalem và cải tổ tôn giáo dưới quyền
lãnh đạo của Nơ-khe-mi-a
a. Hồi hương và tái thiết Đền thờ (538-515 TCN)
Trong năm đầu tiên của triều đại vua Ky-rô
(538), nhà vua ra chiếu chỉ cho phép dân Do Thái lưu đày được trở về quê hương.
Nhưng không phải mọi người dân lưu đày đều trở về. Một số người cảm thấy thoải
mái với cuộc sống trên miền đất lưu đày, có người lại làm ăn phát đạt, đang khi
đó quê hương họ (Giuđa) vẫn còn là miền đất nghèo khổ và bị tàn phá. Do đó lúc
ban đầu chỉ có một số ít người trở về, sau này sẽ đông hơn.
Sau khi vua Ky-rô qua đời (530), Xéc-xét lên ngôi và đã có công chinh phục
được Ai Cập. Tuy nhiên ông bị lật đổ và Đa-ri-ô I lên ngôi trị vì từ 522-485
trước Công nguyên. Trong thời Đa-ri-ô, cộng đồng Do thái ở Giuđa đã phát triển
rất nhanh. Dưới sự lãnh đạo của Dơ-rúp-ba-ven (một nhà lãnh đạo dân sự) và Giê-su-a
(một tư tế), Đền thờ đã được tái thiết và được cung hiến bằng một nghi lễ trọng
thể năm 515. Đây là ngôi Đền thờ thứ hai sau Đền thờ do vua Sa-lô-môn xây và đã
bị tàn phá. Ngôi Đền thờ này đã trở thành trung tâm đời sống của người Do Thái
cho đến khi bị quân Rôma tàn phá vào năm 70
SCN. Việc tái thiết Đền thờ là công trình lớn lao đầu tiên mà dân thực
hiện, và được coi là đá nền cho việc tái thiết cộng đồng.
b. Tái thiết tường thành Giêrusalem và cải cách tôn giáo (445-398 TCN)
Sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a hầu như không nói gì đến giai đoạn 70 năm từ
khi tái thiết Đền thờ đến khi bắt đầu sứ vụ của Nơ-khe-mi-a (515-445). Sau khi
vua Đa-ri-ô qua đời, Xéc-xét lên ngôi trị vì từ 485-465, kế đó là Ác-tắc-sát-ta
I (465-425). Chính trong triều đại của Ác-tắc-sát-ta, cộng đồng Do Thái lại một
lần nữa phát triển rất mạnh.
Trong thời lưu đày, Nơ-khe-mi-a đã trở thành một viên chức cao cấp trong
triều đình nhà vua. Năm 445 ông được Ác-tắc-sát-ta sai đến Giuđa lãnh đạo cộng
đồng Do Thái (Nkm 2,1). Trong nhiệm kỳ đầu làm người lãnh đạo Giuđa, Nơ-khe-mi-a
đã tiến hành việc xây dựng tường thành chung quanh Giêrusalem mặc dù bị một số
người chống đối. Khi hoàn thành công việc này, ông đã trở lại Ba Tư năm 443
nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, ông quay lại Giuđa. Trong nhiệm kỳ thứ hai,
ông tiến hành nhiều cuộc cải cách nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh của cộng
đồng Do Thái, không chỉ vì cộng đồng này mà còn vì ích lợi của Ba Tư.
Ét-ra là hậu duệ của A-ha-ron và là một ký lục. Khi cuộc hồi hương bắt đầu,
ông được nhà vua trao trách nhiệm hoà giải người Giuđa và người Samari. Là một
ký lục, ông đã thu thâp những bản thảo Thánh Kinh và Truyền Thống để làm thành
một tổng thể dễ hiểu. Ông chủ trương tách biệt người Do Thái với người nước
ngoài, và cố gắng kêu gọi dân chúng tuân theo những nguyên tắc sống của Do Thái
giáo. Sách Ét-te gồm có 10 chương còn Sách Nơ-khe-mi-a có 13 chương:
SÁCH
ÉT-RA |
|
Chương |
Chương |
1. HỒI HƯƠNG SAU THỜI
LƯU ĐÀY. TÁI THIẾT ĐỀN THỜ - Dân Xi-on trở về - |
6. Về vấn đề Nhà Thiên
Chúa ở Giê-ru-sa-lem - Lễ Vượt Qua năm 515 |
2. Danh sách những người
Xi-on hồi hương |
7. CÁC ÔNG ÉT-RA VÀ
NƠ-KHE-MI-A TỔ CHỨC CỘNG ĐOÀN - Thân thế và sứ mạng ông Ét-ra - Sắc chỉ của
vua Ác-tắc-sát-ta |
3. Tái lập việc phụng
tự |
8. Cuộc hành trình của
ông Ét-ra từ Ba-by-lon đến Pa-lét-tin |
4. Dưới thời vua Ky-rô,
người Sa-ma-ri cản trở việc tái thiết |
9. Huỷ bỏ hôn nhân với
người ngoại |
5. Xây Đền Thờ |
10. Danh sách những
người phạm lỗi |
SÁCH NƠ-KHE-MI-A |
|
1. Ơn gọi của ông
Nơ-khe-mi-a: sứ mạng của ông đối với Giu-đa |
8. Danh sách những
người đầu tiên trở về Xi-on (tiếp) |
2. Quyết định xây dựng
lại tường thành Giê-ru-sa-lem |
9. Nghi thức sám hối |
3. Những người tình
nguyện lo việc xây cất - Phản ứng của kẻ thù người Do-thái |
10. Biên bản những lời
cam kết của cộng đoàn |
4. Phản ứng của kẻ thù
người Do-thái (tiếp) |
11. Ông Nơ-khe-mi-a phân
bố cư dân - Dân Do-thái ở Giê-ru-sa-lem - Người chỉ huy họ là Dáp-đi-ên, con
của Ha-gơ-đô-lim - Dân Do-thái ở ngoài Giê-ru-sa-lem |
5. Những khó khăn về
mặt xã hội dưới thời ông Nơ-khe-mi-a. Ông biện hộ cho cách điều hành công
việc của ông. |
12. Các tư tế và thầy
Lê-vi trở về dưới thời ông Dơ-rúp-ba-ven và Giê-su-a - Gia phả các thượng tế
từ năm 520 đến năm 405 - Các tư tế và các thầy Lê-vi thời thượng tế
Giô-gia-kim - Khánh thành tường thành Giê-ru-sa-lem - Một thời kỳ lý tưởng |
6. Địch thù âm mưu
chống lại ông Nơ-khe-mi-a. Công việc tu bổ tường thành hoàn tất. |
13. Chuyến đi thứ hai
của ông Nơ-khe-mi-a |
7. Đưa dân trở về định
cư tại Giê-ru-sa-lem - Danh sách những người đầu tiên trở về Xi-on |
|
2. Nội
dung thần học
a. Lịch sử và những sách viết về lịch sử
Trong toàn bộ Thánh Kinh Do Thái, có ba khối sử liệu trình bày về những
biến cố lớn trong lịch sử Ít-ra-en: (1) Bốn sách đầu tiên của Thánh Kinh trình
bày giai đoạn từ khi hình thành nhân loại đến khi con cái Ít-ra-en chuẩn bị đặt
chân vào Đất Hứa, (2) từ sách Đệ nhị luật cho đến sách Các Vua II trình bày
giai đoạn từ khi dân vào Đất Hứa rồi qua thời quân chủ cho đến khi lưu đày bên
Babylon, và (3) sách Biên Niên Sử và sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a trình bày giai
đoạn từ khi vua Đavít nổi lên cho đến khi tái thiết Đền thờ thời hậu lưu đày. Tất
cả những sử liệu này không chỉ mang tính biên niên sử nhưng còn nhắm mục đích
trình bày ý nghĩa thần học. Đối với sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a cũng vậy. Tuy hai
sách này cung cấp nhiều thông tin về mặt lịch sử nhưng mục đích chính vẫn là
tuyển chọn và sắp xếp các tư liệu cho phù hợp với mối quan tâm thần học của tác
giả. Hãy thử nhìn lại cách sắp xếp trong hai sách này:
- Phần I (Er 1-6): Tái thiết Đền thờ
- Phần II (Er 7-10): Củng cố việc
thờ phượng của cộng đoàn
- Phần III (Nkm 1-7): Tái thiết
Đền thờ Giêrusalem
- Phần IV (Nkm 8-13): Củng cố cộng
đoàn chung quanh lề luật
Nền tảng của Do thái giáo thời hậu lưu đày là Đền thờ và việc thờ phượng.
Do đó phần I tập trung vào việc tái thiết Đền thờ cho dù cả Ét-ra và Nơ-khe-mi-a
đều không phải là những người dấn thân vào việc này từ đầu. Việc thờ phượng tại
Đền thờ đòi hỏi dân Chúa phải thanh sạch, phải là dân được tách riêng ra cho
Chúa. Vì thế phần II nhấn mạnh đến cuộc cải cách do Ét-ra khởi xướng nhằm bảo vệ
dân khỏi những ảnh hưởng ngoại lai. Giêrusalem được gọi là thành thánh vì có
Chúa hiện diện, mà như thế thành phải có sức mạnh và được bảo đảm. Do đó phần
III nói đến việc xây dựng tường thành dưới quyền lãnh đạo của Nơ-khe-mi-a. Tất
cả những công việc trên đều nhằm mục đích củng cố cộng đồng Dân Chúa sống theo
Lề luật, và đó là trọng tâm của phần IV. Nhìn như thế, ta sẽ thấy rõ ý hướng thần
học của tác giả khi sắp xếp các sử liệu trong sách.
b. Những ý tưởng thần học chính
Công
trình của Thiên Chúa và sự trợ giúp của người Ba Tư: Giống như các tác giả thời
trước, những người biên soạn sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a cho rằng chính Giavê,
Thiên Chúa của Ít-ra-en, điều khiển lịch sử thế giới. Kể cả sự sụp đổ của dân tộc
và tình trạng lưu đày cũng là việc Chúa làm. Bây giờ cũng chính Thiên Chúa đem
dân lưu đày trở về. Sự trợ giúp của chính quyền Ba Tư trong việc tái thiết đất
nước được trình bày như là do Chúa sắp xếp.
Đền thờ và việc phụng tự: Sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a chú trọng đặc biệt đến
Đền thờ và việc thờ phượng, do đó việc tái thiết Đền thờ được trình bày như mục
tiêu chính yếu của dân lưu đày. Đồng thời những chi tiết về tế lễ cũng như tư tế
được quan tâm đặc biệt trong sách này. Một dân được tách riêng ra cho Chúa: Trước
thời lưu đày, dân Ít-ra-en- có căn tính rất rõ ràng. Họ là một dân độc lập, có
lãnh thổ riêng với thủ đô là Giêrusalem, có các vua của mình từ Đavít cho đến
các vua khác, có Đền thờ là nơi Chúa ngự. Thế nhưng họ đã đánh mất tất cả khi bị
đem đi lưu đày. Bây giờ khi được trở về, họ cố gắng xây dựng lại căn tính của
dân tộc trong hoàn cảnh mới bằng cách bảo vệ tính riêng biệt của mình so với
các dân khác. Từ đó ta hiểu được tại sao có những quy định khắt khe, vd. không
được kết hôn với người nước ngoài. Tất cả nhằm bảo vệ căn tính của dân tộc
mình. Ngày nay khi đọc sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a, cần đặt mình trong bối cảnh
trên để hiểu được tâm tư ý hướng của tác giả.
Tính liên tục: Sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a tìm cách khẳng định rằng dân Do
Thái giáo sau lưu đày và Ít-ra-en trước lưu đày chỉ là một. Ít-ra-en ngày xưa
được làm thành từ 12 chi tộc, bây giờ hầu hết những người từ lưu đày trở về
cũng định cư ở những vùng đất tổ tiên họ đã ở. Đền thờ cũng được xây trên nền
cũ. Việc tế tự cũng được trao cho hậu duệ của những vị tư tế ngày xưa. Sinh hoạt
phụng tự cũng lấy lại những nghi thức cũ, và lề luật hướng dẫn cộng đồng là luật
Môsê. Tất cả đều nhấn mạnh tính liên tục giữa cộng đoàn sau lưu đày và Ít-ra-en
trước thời lưu đày.
3. Những
bài học quan trọng
Có thể rút ra nhiều bài học cần thiết cho đời
sống đức tin khi đọc sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a. Ở đây chỉ xin nêu ra hai bài học
lớn:
a. Củng cố căn tính tôn giáo
Dân Ít-ra-en từ miền đất lưu đày trở về đã
cô gắng củng cố căn tính tôn giáo của dân tộc họ là dân được tách riêng ra để
dành cho một mình Chúa. Để thực hiện công việc này, họ được mời gọi:
- trung thành với việc cử hành các ngày lễ tôn giáo (lễ Vượt Qua, lễ Lều,
lễ Ngũ Tuần...)
- quy tụ mỗi ngày sabat để nghe Lời Chúa và giữ luật sabat
- cầu nguyện hằng ngày
Trong thời đại tục hoá ngày nay, căn tính Kitô giáo nơi nhiều Kitô hữu
đang bị đe doạ. Liệu người Kitô hữu có quan tâm đến việc bảo vệ căn tính của
mình không, và nếu quan tâm, ta có thể rút ra được những bài học nào khi đọc
sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a?
b. Gia đình, môi trường chuyển giao đức tin
Ngoài
việc tuân giữ những lề luật tôn giáo như đã trình bày, sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a
cho thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc chuyển giao đức tin từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Chính vì thế, cộng đoàn sau lưu đày chủ trương không kết
hôn với người nước ngoài bởi vì nếu người mẹ không cùng tôn giáo, làm sao bà có
thể giúp con cái duy trì và phát triển đời sống đức tin? Chủ trương này có thể
không còn phù hợp với hoàn cảnh ngày nay, tuy nhiên vẫn hàm chứa một sứ điệp
quan trọng về tầm quan trọng của gia đình trong việc giáo dục đức tin, nhất là
trong hoàn cảnh ngày nay khi đời sống gia đình bị tan rã rất nhiều. Hơn bao giờ
hết, các gia đình công giáo – nhất là những gia đình trẻ – cần ý thức điều này,
và các lớp chuẩn bị hôn nhân cần xem đây là một chủ đề phải được nhấn mạnh.
CUỐN SÁCH 17
SÁCH TÔ-BI-A (Tb)
1. Tổng quát
Sách Tô-bi-a được viết khoảng đầu thế kỷ II trước Công nguyên. Lúc đó
quyền lực của Alexandre đại đế trải rộng khắp vùng Cận Đông, và Palestine nằm
dưới sự thống trị của ông từ năm 332. Khi Alexandre đại đế qua đời vào năm 323,
đế quốc của ông bị phân quyền: Syria dưới quyền Seleucids và Ai Cập dưới quyền
Ptolemies. Palestine nằm giữa hai quyền lực này, lúc đầu do Ptolemies kiểm
soát, sau đó dưới quyền Seleucids từ năm 198.
Thời kỳ này đánh dấu tiến trình Hy Lạp hoá. Ngôn ngữ cũng như tập quán của
người Hy Lạp càng lúc càng trở nên thông dụng trong dân Do thái. Đứng trước sự
đe doạ của văn hóa Hy Lạp, người Do thái có những phản ứng khác nhau. Có nhóm
chống đối quyết liệt và có nhóm tìm cách thích nghi, dùng ngôn ngữ cũng như triết
học Hy Lạp phục vụ cho Do thái giáo. Sách Tô-bi-a được viết ra trong bối cảnh
này nhằm trả lời vấn nạn làm sao trung thành với Thiên Chúa giữa những áp lực
văn hoá ngoại lai.
Tác giả sách Tô-bi-a đưa ra câu trả lời qua một câu chuyện mô tả sự
trung tín của Chúa cũng như lòng can đảm của các tín hữu. Tô-bi-a cũng như Xa-ra
trong truyện đều chạy đến với Chúa trong cơn khốn quẫn, và lời cầu nguyện của họ
đã được nhận lời khi Chúa sai thiên thần đến để chữa lành. Thế nhưng chính họ lại
không biết điều đó và vẫn phải lầm lũi bước đi trong đêm tối của đức tin. Chính
ở đây lại nổi bật lên niềm tin tín thác của Tô-bi-a và Xa-ra tin rằng Thiên
Chúa là Đấng trung tín và giàu lòng thương xót, đồng thời thể hiện niềm tin đó
qua lối sống đạo đức và bác ái. Sách Tô-bi-a gồm có 14 chương và có thể thấy bố
cục của sách Tô-bi-a như sau :
- Phần I: Nỗi đau khổ của Tô-bi-a và Xa-ra
(1,1 – 3,17)
- Phần II: Hành trình (4,1 –
6,18)
- Phần III: Tô-bi-a và Xa-ra được
chữa lành (7,1 – 11,18)
- Phần kết: Khám phá ý định của
Thiên Chúa (12,1– 4,15)
Chương |
Chương |
1. Ông Tô-bít bị lưu
đày |
8. Đào huyệt |
2. Ông Tô-bít bị mù |
9. Hôn lễ |
3. Cô Xa-ra |
10. Hôn lễ (tiếp) |
4. Cậu Tô-bi-a |
11. Chữa mắt ông Tô-bít |
5. Người bạn đồng hành |
12. Thiên sứ Ra-pha-en |
6. Con cá |
13. Xi-on |
7. Ông Ra-gu-ên |
14. Ni-ni-vê |
2. Sức
mạnh của Lời cầu nguyện (2,1 – 3,17)
a. Lời cầu nguyện của Tô-bi-a và Xa-ra
Lời cầu của Tô-bi-a (2,1 - 3,6): một đời làm việc lành phúc đức nhưng lại
bị tai hoạ ập xuống, đến cả người thân cũng trách móc, “Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó,
ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi!” (2,14). Tô-bi-a xin Chúa cho
được chết, “Quả thật, chết đối với con
còn hơn sống, vì con đã nghe những lời nhục mạ dối gian, khiến con phải buồn
phiền quá đỗi” (3,1-6).
Lời cầu của Xa-ra (3,7-15): đối diện với thảm họa trong đời, Xa-ra cầu
xin Chúa hoặc cho cô chết đi, “Xin Chúa phán,
thì con sẽ được biến khỏi mặt đất và không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa”
(3,13), hoặc cho cô một phương thế giải thoát khỏi bế tắc, “Nếu Chúa không ưng làm cho con chết, thì lạy
Chúa, xin đoái nghe con kể lể nỗi nhục nhằn” (3,15).
b. Cầu nguyện, hơi thở của đời sống đức tin
Đừng ngại trình bày với Chúa những tâm tư ước
nguyện của mình, kể cả những suy nghĩ có vẻ tiêu cực! Cả Tô-bi-a và Xa-ra đều
xin Chúa cho được chết vì chết còn hơn là sống mà phải chịu quá nhiều đau khổ
và nhục nhã. Đồng thời hãy phó thác trọn vẹn nơi Chúa vì tin rằng Chúa là Cha
toàn năng, nhân từ và giàu lòng thương xót. Dù bị nhận chìm trong đau khổ, cả Tô-bi-a
và Xa-ra đều ngước nhìn lên Chúa, và lời cầu nguyện của họ tràn đầy tín thác: “Lạy Chúa, Ngài là Đấng công chính, mọi việc
Ngài làm đều chính trực” (3,2), “Chúc
tụng Danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Ngài phải chúc tụng Ngài
muôn muôn thuở” (3,11).
3. Giáo
dục con cái (4,1-18)
Lời căn dặn của Tô-bít dành cho con trai trước
khi lên đường hàm chứa những định hướng căn bản trong việc giáo dục con cái.
Ông dạy con sống lòng hiếu thảo: “Hãy thảo
kính mẹ con và đừng bỏ rơi người bao lâu người còn sống. Con hãy ăn ở đẹp lòng
người và đừng làm điều chi phiền lòng người” (4,3). Ông cũng dạy con sống
theo lề luật của Chúa, “Hãy tưởng nhớ
Chúa mọi ngày, đừng phạm tội và làm trái mệnh lệnh của Người” (4,5). Sống
theo lề luật Chúa là sống theo sự thật và sẽ thành công (4,6), sống tình bác ái
và như thế là tích lũy kho tàng vững chắc (4,7-11.16-17), xa tránh thói dâm ô
(4,12-13), sống khiêm tốn và lắng nghe lời khôn ngoan (4,18).
4. Thiên
thần, người bạn đồng hành (12,1-22)
Thiên sứ Ra-pha-en tỏ mình ra cho cha con
Tô-bi-a và nói, “Phần tôi, tôi đã ở với
các ngươi không do lòng tốt của tôi, mà do ý muốn của Thiên Chúa. Vậy ngày ngày
các ngươi hãy chúc tụng Thiên Chúa, hãy ngợi khen Người” (12,18). Bạn có
tin rằng Chúa vẫn không ngừng che chở hướng dẫn bạn như thế không? Có bao giờ bạn
cảm nghiệm được sự hướng dẫn chở che đó chưa?
CUỐN SÁCH 18
SÁCH GIU-ĐI-THA (Gđt)
1. Tổng
quát
Sách Giu-đi-tha được viết vào thế kỷ II nhằm
trả lời cho cuộc khủng hoảng đe dọa các tín hữu Do Thái ở Palestine. Sách
Giu-đi-tha kể một chuyện đạo đức. Chuyện này, Thiên Chúa dùng tay một phụ nữ
tên là Giu-đi-tha viết ra, Giu-đi-tha có nghĩa là “cô gái Do thái”. Năm 175 trước
Công nguyên, Antiochus IV Epiphanes chiếm đóng Syria và Palestine. Ông ép buộc
người Do thái không những phải chấp nhận văn hoá và phụng tự theo Hy Lạp, mà
còn phải bỏ những thực hành truyền thống của họ như cắt bì và những luật lệ về
chay tịnh. Ở đỉnh cao của cuộc bách hại này (năm 167), ông Mattathias là một
người Do thái can đảm, khi bị ép buộc phải dâng lễ tế trên bàn thờ ngoại giáo,
đã giết sứ giả của nhà vua rồi cùng với 5 đứa con chạy trốn lên núi. Những người
Do thái khác đã đi theo ông, bắt đầu phong trào chống đối của nhà Ma-ca-bê (tên
gọi Ma-ca-bê bắt nguồn từ biệt danh của Giuđa, con ông Mattathias). Nhà Ma-ca-bê
đã chiếm lại Đền thờ và thánh hiến lại năm 164. Sau thời gian chiến tranh, cuối
cùng người Do thái được hưởng nền độc lập tương đối dưới quyền nhà Hasmorean là
hậu duệ của Mattathias.
Sách Giu-đi-tha được viết trong thời kỳ chống Hy Lạp của nhà Ma-ca-bê.
Câu truyện kể về một thành Ít-ra-en bị Hô-lô-phéc-nê chiếm đóng. Ông này là chỉ
huy trưởng quân đội Át-sua. Các vị lãnh đạo của thành này thất vọng vì không thấy
Chúa trợ giúp nên quyết định sẽ đầu hàng nếu trong 5 ngày mà Chúa không giải
thoát họ. Khi nghe biết quyết định này, một người Do thái đạo đức và cũng là một
goá phụ có nhan sắc đã lên án những nhà lãnh đạo là thiếu đức tin. Bà cầu nguyện
và phó thác mọi sự cho Chúa. Cuối cùng bà quyết định dùng chính nhan sắc của bà
làm khí giới chống lại quân thù. Bà đã chặt đầu tướng Hô-lô-phéc-nê và giải
thoát cho toàn dân. Câu truyện muốn đề cao sứ điệp: chiến thắng không do sức mạnh
loài người nhưng do quyền năng Thiên Chúa. Cho dù đường lối Chúa xem ra thật
khó hiểu và người tin Chúa có thể bị coi là điên rồ, nhưng chính những kẻ không
dám phó thác vào Chúa mới là kẻ điên rồ. Sách Giu-đi-tha gồm có 16 chương:
Chương |
Chương |
1. CUỘC VIỄN CHINH CỦA
HÔ-LÔ-PHÉC-NÊ - Na-bu-cô-đô-nô-xo và Ắc-phắc-xát - Chiến tranh chống
Ắc-phắc-xát |
9. Lời cầu nguyện của
bà Giu-đi-tha |
2. Chiến tranh ở phương
Tây - Các trạm nghỉ của đạo quân Hô-lô-phéc-nê |
10. Bà Giu-đi-tha đến
trại tướng Hô-lô-phéc-nê |
3. Các trạm nghỉ của
đạo quân Hô-lô-phéc-nê (tiếp) |
11. Hội ngộ lần đầu giữa
bà Giu-đi-tha và tướng Hô-lô-phéc-nê |
4. Giu-đê náo động -
Cầu khẩn |
12. Bà Giu-đi-tha dự
tiệc với tướng Hô-lô-phéc-nê |
5. Hô-lô-phéc-nê bàn kế
hoạch giao chiến |
13. Bà Giu-đi-tha đem
thủ cấp tướng Hô-lô-phéc-nê về Bai-ty-lu-a |
6. Ông A-khi-ô bị nộp
cho người Ít-ra-en |
14. Người Do-thái vây
hãm doanh trại quân Át-sua |
7. Chinh phạt Ít-ra-en |
15. Tạ ơn |
8. BÀ GIU-ĐI-THA - Tiểu
sử bà Giu-đi-tha - Bà Giu-đi-tha và các kỳ mục |
16. Tuổi già và cái chết
của bà Giu-đi-tha |
2. Giu-đi-tha,
người tín hữu mẫu mực
a. Giu-đi-tha,
người đại diện của Chúa (8,1-8)
Cuộc chiến bùng nổ giữa Đức Chúa và Na-bu-cô-nô-xo (tự coi mình như thần
linh). Đại diện của ông là Hô-lô-phéc-nê, còn đại diện của Đức Chúa là bà Giu-đi-tha.
Trong tiểu sử của bà có bản gia phả 16 đời, nhằm mục đích chứng minh bà thực sự
thuộc dòng dõi Áp-ra-ham. Bà Giu-đi-tha được coi là người tín hữu mẫu mực. Theo
tập tục, bà kết hôn trong dòng tộc, sống đạo đức (chay tịnh, mặc áo nhặm, kính
sợ Chúa). Nhan sắc của bà, theo Thánh Kinh, là sự phản ánh nhân đức (St 29,17;
39,6). Bà lại là người goá bụa, và trong Thánh Kinh, người goá bụa nương tựa
hoàn toàn nơi Chúa. Nhiều bà goá đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Dân
Chúa, vd. Ta-ma (St 38), hoặc bà Rút.
b. Bà Giu-đi-tha và các trưởng lão (8,9-36)
Trong cuộc trao đổi với các trưởng lão, bà Giu-đi-tha nhấn mạnh hai điều:
(1) Dân thiếu đức tin vào Chúa nên dám thử thách Chúa (8, 12), và (2) Dân không
tự tin vào chính mình nên thất vọng chán nản (8,18-20). Từ đó, bà nói với mọi
người: Thiên Chúa hoàn toàn tự do, không phải hành động theo đường lối của loài
người; và dân phải tuyệt đối tin cậy vào Chúa.
c. Bà Giu-đi-tha chuẩn bị cuộc chiến
c.1. Chuẩn bị bằng cầu nguyện
(9,1-14)
Thái độ cầu nguyện: cầu nguyện vào giờ dâng hương trong đền thờ, như thế
bà nối kết lời cầu nguyện của mình với lời cầu của Dân Chúa. Bà cầu nguyện với
lòng khiêm tốn (phủ phục) và sám hối (rắc tro). Lời cầu nguyện của bà Giu-đi-tha
phản ánh những xác tín căn bản: (1) phó thác nơi Chúa chứ không tin tưởng vào sức
mạnh người đời, (2) quyền năng của Chúa vượt trên quyền năng con người, (3) chiến
thắng thuộc về những người khiêm hạ vì họ chỉ nương tựa một mình Chúa. Khi đối
đầu trực tiếp với Hô-lô-phéc-nê, bà Giu-đi-tha thường xuyên cầu nguyện (x.
12,4-6). Mỗi người Kitô hữu cần tự hỏi: Trong cuộc chiến đấu chống lại các cơn
cám dỗ, tôi có thường xuyên cầu nguyện?
c.2. Chuẩn bị bằng trang điểm nhan sắc (10,1-10)
10,1-4 nói đến việc bà Giu-đi-tha trang điểm
rất kỹ trước khi đến gặp Hô-lô-phéc-nê. Bà hiểu rằng nhan sắc là do Chúa ban và
là điều tốt đẹp. Bà cũng biết rằng nhan sắc bên ngoài cần đi đôi với vẻ đẹp bên
trong mới làm nên giá trị và sức mạnh thực sự. Nhan sắc Chúa ban là để phục vụ
Chúa; ở đây Chúa dùng nhan sắc của bà để giải thoát dân Người. Ngày nay, bạn
quan niệm thế nào về nhan sắc và dùng nhan sắc để làm gì?
CUỐN SÁCH 19
SÁCH ÉT-TE (Et)
Sách Ét-te là cuốn sách tiểu thuyết
đi sát với sự thật hơn nhiều sách lịch sử. Cho dù những biến cố ở đâu là hư cấu,
chúng nói lên được những lo âu oán hận và hy vọng của người Ít-ra-en tản mát bốn
phương đã từng ấp ủ qua bao nhiêu thế kỷ, cách riêng vào những thời bách hại. Họ
vừa sợ vừa khinh các dân ngoại sống chung quanh. Trong hoàn cảnh như thế họ
luôn tìm cách lấy lòng những người quyền thế, rồi kêu lên Thiên Chúa là Đấng
không thể nào cho phép Dân Người tiêu vong và họ sống tình liên đới chặt chẻ với
các anh em Do thái, mong đợi ngày họ sẽ có thể phục thù để làm cho danh Thiên
Chúa được rạng rỡ nhất. Trong bối cảnh con người chưa biết Tin Mừng này, Sách
Ét-te làm nổi bật lòng thành tín của một Thiên Chúa trước sau chỉ có một lời:
Dân Do thái tất phải sinh tồn để Đức Kitô đến với trần gian (Dẫn nhập Sách Ét-te, Nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ).
Sách Ét-te gồm có 10 chương:
Chương |
Chương |
1. Giấc chiêm bao của
ông Moóc-đo-khai - Âm mưu chống lại vua - Bữa tiệc của vua A-suê-rô -Vụ hoàng
hậu Vát-ti |
6. Ha-man thất bại nhục
nhã |
2. Bà Ét-te trở thành
hoàng hậu - Ông Moóc-đo-khai và quan Ha-man |
7. Ha-man thất bại nhục
nhã (tiếp) |
3. Sắc chỉ tru diệt
người Do-thái |
8. Vua đổi lòng, mến
chuộng dân Do-thái - Sắc chỉ phục hồi quyền của người Do-thái |
4. Ông Moóc-đo-khai và
hoàng hậu Ét-te đẩy lui hiểm hoạ - Lời cầu nguyện của ông Moóc-đo-khai - Lời
cầu nguyện của hoàng hậu Ét-te |
9. Ngày Pu-rim - Thiết
lập ngày Pu-rim |
5. Hoàng hậu Ét-te vào
chầu vua |
10. Ca ngợi ông
Moóc-đo-khai |
1. Nội dung
a. Bản văn tiếng Hípri
Câu
chuyện kể về ông Moóc-đo-khai, một người Do thái phục vụ trong triều vua A-suê-rô.
Ông đã báo cho nhà vua biết một âm mưu sát hại nhà vua, nhờ đó vua thoát nạn;
nhưng vua quên ban phần thuởng cho ông. Sự kiện kế tiếp là vua chọn một hoàng hậu
mới. Ông Moóc-đo-khai có cơ hội tiến cử Ét-]te là cháu ông và cô đã được chọn làm hoàng hậu. Ét-te
được biết về một âm mưu của Ha-man nhằm tiêu diệt dân Do thái vì ông ghét người
Do thái, cách riêng là Moóc-đo-khai. Một đêm kia, vua nhớ lại Moóc-đo-khai và công trạng của
ông, và vua gọi Ha-man vào, yêu cầu ông tôn vinh người đã cứu nhà vua thoát chết
(đúng lúc Ha-man chuẩn bị sẵn giá treo cổ cho Moóc-đo-khai).
Ét-te đã có cơ hội trình bày với nhà vua về âm mưu của Ha-man nhằm tiêu
diệt dân Do thái. Ha-man phải đến năn nỉ Ét-te nhưng chính lúc ấy nhà vua bước
vào, cho rằng Ha-man tìm cách xâm phạm hoàng hậu nên đã quyết định treo cổ ông
ta bằng chính giá treo ông đã dọn sẵn cho người khác. Nhà vua ban sắc chỉ phục
hồi quyền của người Do thái và ngày này đã trở thành ngày hội lớn của toàn dân.
b. Bản văn tiếng Hi Lạp
Bản Hy Lạp thêm vào một số đoạn. Những đoạn
này được đánh dấu theo thứ tự từ A đến F. Bản dịch tiếng Việt của Nhóm PVCGK
đánh dấu theo các chương và thêm mẫu tự alphabet. Những phần thêm vào ở chương
đầu và chương cuối nói về giấc mơ, một loại văn chương Khải Huyền. Các phần
thêm khác là những lời cầu nguyện.
2. Đọc
và suy niệm một số đoạn văn
a. Sắc chỉ tru diệt người Do thái (3,7-9.13b-13g)
Những lời lên án trong sắc chỉ về lối sống của người Do thái khiến ta nhớ
đến những cuộc bách hại trong lịch sử Giáo Hội:
- Đế quốc Rôma: những thú vui
chơi như nhà tắm công cộng, hí trường Cô-lô-sê. Người Kitô hữu xa lánh những
nơi và những kiểu vui chơi đó, thì lại bị lên án.
- Tại Việt Nam: nhớ đến cuốn Gia
Tô Bí Lục lên án Đạo Chúa (móc mắt, gian dâm... và đủ thứ tội). Lý do sâu xa là
sự ghen ghét và thù nghịch với Tin Mừng Chúa Kitô.
- Nhớ đến Lời Chúa: “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ
vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần
thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12). Và lời thánh
Phêrô: “Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa
dân ngoại, để ngay cả khi họ vu khống, coi anh em là người gian ác, họ cũng thấy
các việc lành anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Ngài đến viếng thăm”
(2Pr 2,12).
b. Lời cầu nguyện của ông Moóc-đo-khai (4,17a-17h)
Lý do ông Moóc-đo-khai không chịu cúi đầu trước vua: “Không
phải vì xấc xược, kiêu kỳ hoặc háo danh mà con làm thế… nhưng con đã làm thế để
khỏi đặt cái vinh của người phàm trên vinh quang Thiên Chúa”. Các Kitô hữu
trong đế quốc Rôma cũng thế, họ không chịu thờ hoàng đế vì hoàng đế cũng chỉ là
con người nhưng lại xưng mình là “Đấng cứu thế” và bắt mọi người phải thờ phượng
như thần thánh. Các Kitô hữu tại Việt Nam cũng vậy, họ không chấp nhận bỏ Đạo
dù là lệnh vua ban xuống, và dù phải chấp nhận tù tội, gông cùm, kể cả cái chết.
Lịch sử để lại cho ta bài học này: khi con người phủ nhận Thiên Chúa, họ
lại có khuynh hướng tôn sùng một cá nhân hay cái gì đó thay cho Thiên Chúa. Vào
thời quân chủ hoặc trong những chế độ độc tài, người ta tôn thờ vua chúa hoặc
suy tôn lãnh tụ. Trong thời đại ngày nay, người ta lại tôn thờ tiền bạc, hưởng
thụ... Tất cả những loại ngẫu tượng đó chỉ làm cho con người vong thân và tha
hoá vì thay thế Thiên Chúa vinh quang bất tử bằng hình tượng người phàm là những
loài phải chết (x. Rm 1,23).
c. Giấc chiêm bao của ông Moóc-đo-khai (1,1d-1k; 10,3a-3k)
Trình thuật về giấc chiêm bao vận dụng văn
chương khải huyền là thể loại sử dụng ngôn ngữ hình tượng để diễn tả đức tin.
Chúng ta có thể gặp thứ ngôn ngữ này trong lời rao giảng của các tiên tri,
trong những diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu, nhất là trong sách Khải huyền.
Có cả trong Phúc âm. Cách giải thích của Moóc-đo-khai nhấn mạnh đến quyền
năng của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa mới là Chủ của lịch sử: “Thấy mình sắp bị tiêu diệt, họ kêu lên cùng
Thiên Chúa. Từ tiếng kêu cứu đó, người ta thấy như từ dòng suối nhỏ phát ra một
con sông lớn, nước đầy tràn. Mặt trời mọc lên, toả lan ánh sáng. Kẻ thấp hèn được
cất nhắc lên và nuốt sống người cao sang quyền thế”.
CUỐN SÁCH 20
MA-CA-BÊ I (2Mcb)
1. Bối cảnh lịch sử
a. Hy Lạp hoá
Sách Ma-ca-bê mô tả cuộc xung đột giữa truyền thống tôn giáo Do thái và
văn hoá Hy Lạp. Nền văn hóa này có tầm ảnh hưởng rất lớn tại Cận Đông kể từ khi
Alexander đại đế qua đời năm 323 trước Công nguyên. Sau khi ông qua đời, đế quốc
của ông bị phân chia thành hai: nhà Pơ-tô-lê-mai ở Ai Cập và nhà An-ti-ô-khô ở
Syria. Dưới sự cai trị của nhà An-ti-ô-khô, văn hoá Hy Lạp bành trướng rất mạnh.
Cho nên, ngay giữa dân Do thái cũng có hai khuynh hướng khác nhau. Một số người
ủng hộ tiến trình Hy lạp hoá này, còn một số khác chống đối quyết liệt vì thấy
nguy cơ Do thái giáo bị tiêu diệt; từ đó dẫn đến cuộc nội chiến. Cuộc xung đột
này leo thang dưới thời vua An-ti-ô-khô IV (175-164 trước Công nguyên). Năm
169, ông cướp đoạt những đồ quý giá trong Đền thờ Giêrusalem. Sau đó ông còn cấm
những thực hành Do thái giáo và dựng bàn thờ kính Zeus ngay trong đền thờ.
b. Anh em nhà Ma-ca-bê
Sách Ma-ca-bê I kể lại câu chuyện của một
gia đình cương quyết chống lại ảnh hưởng của Hy Lạp. Họ chủ trương lấy bạo lực
đáp trả bạo lực. Cuộc chiến đấu này diễn ra dưới sự lãnh đạo của người cha
trong gia đình là ông Mát-tít-gai và sau đó là ba người con của ông. Khi Mát-tít-gai
qua đời, Giuđa Ma-ca-bê tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến đấu. Giuđa Ma-ca-bê Giuđa
đã giành được một số chiến thắng, thanh tẩy lại Đền thờ năm 164. Tuy nhiên ông
gặp phải nhiều khó khăn do những âm mưu của thượng tế Alcimus. Cuối cùng ông
qua đời trong một trận chiến và người anh em lên kế vị là Giô-na-than
(160-142). Dưới thời Giô-na-than, những nỗ lực quân sự bắt đầu được thay thế bằng
những tính toán chính trị. Giô-na-than đã từ từ lấy lại được một phần đất thuộc
vương quốc của Đavít và Sa-lô-môn ngày xưa, nhưng cuối cùng ông bị giết dưới
tay tướng Try-phôn của nhà Pơ-tô-lê-mai. Người thứ ba kế tục sự nghiệp nhà Ma-ca-bê
là Simon (142-134). Ông cũng theo đường lối chính trị của người đi trước, dần dần
mở rộng bờ cõi, nhưng cuối cùng bị chính người con rể ám sát. Kẻ sát nhân lại bị
người con thứ hai của Si-môn là Gioan Hyrcanus giết chết, và ông này tiếp tục sự
nghiệp của cha (134-105).
Gioan Hyrcanus I nổi tiếng là nhà quân sự tài ba. Năm 109 trước Công
nguyên, ông đã chiếm Samaria, phá hủy Đền thờ trên núi Garizim và ép buộc dân
Samari phải thờ phượng Chúa ở Giêrusalem. Những người Sađucê là hàng tư tế quý
tộc ủng hộ ông, trong khi những người Hasideans (tiền thân của Pharisêu) lại bất
bình. Tuy không mang danh hiệu là vua nhưng Hyrcanus tự xem mình như người tái
lập vương quốc Đavít nhờ chính sách bành trướng của ông. Sau khi Hyrcanus qua đời,
người con lớn của ông là Aristobulus I lên cầm quyền vào năm 104 trước Công
nguyên. Ông này nổi tiếng tàn ác vì đã bắt giam cả mẹ và anh em ruột, thậm chí
để mẹ chết đói trong tù. Ông lấy danh hiệu là vua nhưng ngay sau đó lại chết bất
ngờ, và người kế nghiệp là Alexander Jannaeus (103-76), người hết lòng ủng hộ
Hy Lạp. Sách Ma-ca-bê I gồm có 16 chương:
Chương |
Chương |
1. Vua A-lê-xan-đê và
các tướng kế vị - Vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê đưa văn hoá Hy-lạp vào Ít-ra-en
- Chinh phạt Ai-cập lần thứ nhất. Cướp phá Đền Thờ - Tướng A-pô-lô-ni-ô. Việc
kiến thiết đồn quân. |
9. ÔNG GIÔ-NA-THAN LÀM
THỦ LÃNH VÀ THƯỢNG TẾ - Trận Bê-rê-a. Ông Giu-đa Ma-ca-bê tử trận. - Đám tang
ông Giu-đa - Phe thân Hy-lạp thắng thế. Ông Giô-na-than, thủ lãnh phe kháng
chiến - Ông Giô-na-than hoạt động trong sa mạc Tơ-cô-a. Vụ thảm sát gần
Mê-đơ-va - Bắc-khi-đê tăng cường phòng thủ. An-ki-mô chết |
2. Ông Mát-tít-gia và
các con khơi dậy thánh chiến - Thử thách nhân dịp tế thần ở Mô-đin - Thử
thách nhân ngày sa-bát trong hoang địa - Hoạt động của ông Mát-tít-gia và
nhóm của ông - Di chúc. Ông Mát-tít-gia qua đời. |
10. Cuộc tranh giành ảnh
hưởng giữa vua A-lê-xan-đê Ba-la và vua Đê-mết-ri-ô - Vua Đê-mết-ri-ô I gửi
thư cho ông Giô-na-than - Ông Giô-na-than từ khước bổng lộc của vua
Đê-mết-ri-ô. Vua Đê-mết-ri-ô tử trận - Vua A-lê-xan-đê cưới công chúa Cơ-lê-ô-pát.
Ông Giô-na-than được cử làm quân sư và tổng trấn. |
3. ÔNG GIU-ĐA MA-CA-BÊ,
THỦ LÃNH NGƯỜI DO-THÁI (166-160) - Lời ca tụng ông Giu-đa Ma-ca-bê - Những
thắng lợi bước đầu - Vua An-ti-ô-khô chuẩn bị tấn công Ba-tư và Giu-đa Quan
nhiếp chính Ly-xi-a - Người Do-thái họp nhau ở Mít-pa |
11. Vua Pơ-tô-lê-mai VI
ủng hộ vua Đê-mết-ri-ô II. - Hiến chương mới thuận lợi cho người Do-thái -
Vua Đê-mết-ri-ô được ông Giô-na-than tiếp viện |
4. Trận chiến ở Em-mau
- Ông Ly-xi-a xuất chinh lần đầu - Lễ thanh tẩy và cung hiến Đền Thờ |
12. Ông Giô-na-than giao
hảo với người Rô-ma và Xi-pác-ta - Ông Giô-na-than đi tới miền Coi-lê Xy-ri.
Ông Si-môn đi tới miền duyên hải - Công trình phòng thủ Giê-ru-sa-lem - Ông
Giô-na-than sa vào tay quân thù |
5. Chinh phạt dân
I-đu-mê và dân Am-mon - Sơ lược về các trận chiến ở Ga-li-lê và Ga-la-át -
Thất trận ở Giam-ni-a - Thắng lợi ở miền I-đu-mê và Phi-li-tinh |
13. ÔNG SI-MÔN LÀM
THƯỢNG TẾ VÀ THỦ LÃNH DÂN DO-THÁI (143-134) - Ông Si-môn nắm quyền lãnh đạo -
Ông Si-môn đẩy lui Try-phôn khỏi miền Giu-đa - Ông Giô-na-than được mai táng
ở Mô-đin. Ông Si-môn xây mộ - Vua Đê-mết-ri-ô II ủng hộ ông Si-môn - Ông
Si-môn đánh chiếm Đô Thị ở Giê-ru-sa-lem |
6. Vua An-ti-ô-khô
Ê-pi-pha-nê chết - Vua An-ti-ô-khô V lên nối ngôi - Ông Giu-đa Ma-ca-bê bao vây
đồn quân ở Giê-ru-sa-lem - Cuộc chinh phạt của vua An-ti-ô-khô V và tướng
Ly-xi-a. Trận Bết Dơ-khác-gia - Bết Xua thất thủ. Núi Xi-on bị vây hãm -
Người Do-thái được tự do hành đạo |
14. Ca tụng ông Si-môn |
7. Đê-mết-ri-ô I lên
ngôi. Ông Bắc-khi-đê và ông An-ki-mô được cử đến miền Giu-đa - Tướng
Ni-ca-no. Trận Kha-phác-xa-la-ma - Ni-ca-no doạ đốt Đền Thờ - Tướng Ni-ca-no
ở Kha-đa-sa |
15. Bức thư của vua
An-ti-ô-khô VII. Cuộc bao vây thành Đô-ra - Các sứ giả từ Rô-ma trở về xứ
Giu-đê. Công bố giao ước với người Rô-ma - Vua An-ti-ô-khô vây hãm thành
Đô-ra và trở thành thù địch của ông Si-môn - Toàn quyền Ken-đê-bai-ô quấy phá
miền Giu-đê |
8. Ca tụng người Rô-ma
- Người Do-thái liên minh với người Rô-ma |
16. Các con ông Si-môn
đánh thắng tướng Ken-đê-bai-ô - Cái chết bi thảm của ông Si-môn ở pháo đài
Đốc. Ông Gio-an, con ông Si-môn lên thay. |
2. Thần
học của Sách Ma-ca-bê
a. Sách Ma-ca-bê I
Có thể nói thần học trong sách này là thần học về giao ước: dân được yêu
cầu tuân giữ Lề luật, và khi họ không tuân giữ thì Thiên Chúa trừng phạt họ.
Như thế những người không tuân giữ Lề luật bị coi là những thủ phạm dẫn đến những
đau khổ và mất mát mà dân phải chịu dưới sự thống trị của Hy Lạp. Đồng thời
sách Ma-ca-bê I nhấn mạnh những chính sách tàn ác của Hy Lạp nhằm xâm chiếm đất
đai và ngăn cấm người Do thái thực hành niềm tin tôn giáo của họ.
Một trong những đóng góp lớn của nhà Ma-ca-bê là việc tái lập Đền thờ,
và biến cố này vẫn được tưởng niệm hằng năm trong ngày lễ Hanukkah. Nhà Macabê
được coi là những người trung thành với Lề luật tuy có nhiều khi họ cũng chọn một
thái độ uyển chuyển cho phù hợp với hoàn cảnh. Tuy nhiên tác giả viết sách muốn
làm nổi bật ý tưởng rằng mọi chiến thắng và thành công là do ơn Chúa chứ không
do con người. Ngoài ra trong giáo huấn của các tiên tri, có một chủ đề quan trọng
được nhấn mạnh là chủ đề về Số Sót. Nhà Ma-ca-bê được giới thiệu như lãnh đạo số
sót này, những người trong cộng đồng cương quyết trung thành với Lề luật cho dù
phải chịu bắt bớ và bách hại. Cuối cùng, cho dù anh em nhà Ma-ca-bê bị giết chết
nhưng dân được hưởng tự do tương đối để sống theo Lề luật và truyền thống cha
ông. Một lần nữa, Thiên Chúa bày tỏ sự trung tín với dân của Người.
b. Sách Ma-ca-bê II
Sách này tập trung vào Đền thờ Giêrusalem và
kể lại những biến cố đã xảy ra cho Đền thờ: bị xúc phạm, được thanh tẩy và tái
thiết, rồi lại bị tấn công dưới thời Antiochus IV và con trai ông. Những gì xảy
ra cho Đền thờ cũng là những gì xảy ra cho dân tộc: chịu bách hại, được giải
thoát và tái thiết. Sách Ma-ca-bê II chủ yếu nhắm vào chính cộng đoàn Do thái.
Những cá nhân trong đó có cả các thượng tế đã đưa văn hoá ngoại giáo là Hy Lạp
vào đất nước, vào Giêrusalem và vào cả Đền thờ. Đây là điều không thể phù hợp với
việc thực hành Do thái giáo chân chính. Chính những tội lỗi này đã dẫn đến sự
trừng phạt của Chúa. Như thế, tư tưởng mà tác giả muốn đề cao là: tội lỗi sẽ dẫn
đến hình phạt, còn hoán cải dẫn đến ơn cứu độ. Điểm yếu của cách nhìn này là
không thể giải thích được nỗi đau của người vô tội (xem sách Gióp), đồng thời
khiến người ta có cái nhìn tiêu cực rằng mọi đau khổ đều là hình phạt của tội.
3. Khởi
đầu cuộc kháng chiến của gia đình Ma-ca-bê
a. Biến cố tại Mô-đin (2,15-28)
Bối cảnh: Mát-tít-gai và gia đình thuộc dòng dõi tư tế. Đứng trước chính
sách Hy Lạp hoá của vua An-ti-ô-khô cũng như tình trạng người Do thái hợp tác với
quân thù, phản ứng đầu tiên của họ chỉ là than khóc và buồn phiền (2,1-14). Tuy
nhiên biến cố tại Mô-đin đã khơi mào cho một phản ứng khác. Tại Mô-đin, các đại
diện của nhà vua đã thúc bách người Do thái, kể cả Mát-tít-gai và các con ông,
phải chối đạo. Vì Mát-tít-gai là người có thế giá trong cộng đoàn nên ông được
mời làm người đầu tiên thực hành chỉ dụ của vua là tế thần ngoại giáo. Dù được
hứa hẹn nhiều điều, Mát-tít-gai đã cương quyết khước từ những gì đi ngược với Lề
luật và truyền thống của cha ông. Không phải mọi người Do thái đều theo gương của
ông. Đã có người tiến lên tế thần và Mát-tít-gai đã giết chết người đó. Ở đây
tác giả nhắc lại hành động tương tự của Pin-khát (Ds 25,6-15) và như thế biện hộ
cho hành động của Mát-tít-gai. Sau đó Mát-tít-gai và gia đình phải trốn lên núi
để bảo vệ bản thân và chuẩn bị cuộc kháng chiến.
b. Suy nghĩ cho đời sống Kitô hữu
Ở bất cứ thời đại nào, luôn luôn có những sức
mạnh đối kháng với đức tin Kitô giáo, và lôi cuốn ta xa rời đức tin bằng hai
cách: (1) Cám dỗ: “Ông và các con sẽ được
kể vào số bạn hữu của đức vua, sẽ được danh giá, được nhiều vàng bạc và bổng lộc”
(2,18); (2) Đe doạ: “Ai không tuân lệnh
vua thì phải chết” (1,50). Thái độ của Mát-tít-gai và gia đình ông có thể
soi sáng điều gì cho chúng ta ngày nay? Phải trung thành với Chúa trong mọi
hoàn cảnh, hay cố gắng tìm cách thoả hiệp để bảo vệ sự sống thân xác hoặc những
lợi lộc mà thế gian hứa ban? Bản văn cũng nhấn mạnh đến lòng nhiệt thành của Mát-tít-gai
và so sánh với lòng nhiệt thành của Phinehas. Thánh Gioan tông đồ cũng nói đến
lòng nhiệt thành của Chúa Giêsu (x.Ga 2,1-10). Tôi có lòng nhiệt thành trong đời
sống đạo hay không?
CUỐN SÁCH 21
MA-CA-BÊ II (2Mcb)
Chương |
Chương |
1. CÁC THƯ GỬI CHO
NGƯỜI DO-THÁI Ở AI-CẬP - Tạ ơn vì vua An-ti-ô-khô bị trừng phạt - Lửa thiêng
được gìn giữ lạ lùng |
9. Cái chết của vua
An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê - Vua An-ti-ô-khô gửi thư cho người Do-thái |
2. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a
cất giấu đồ thờ phượng - Thư viện của ông Nơ-khe-mi-a - Kêu gọi mừng lễ thánh
hiến - |
10. Thanh tẩy Đền Thờ -
Ông Pơ-tô-lê-mai Mác-rôn bị thất sủng - Tướng Goóc-ghi-át và các thành trì xứ
I-đu-mê - Ông Giu-đa hạ tướng Ti-mô-thê và chiếm Ghe-de |
3. Quan Hê-li-ô-đô-rô
đến Giê-ru-sa-lem - Thành phố xáo trộn - Ông Hê-li-ô-đô-rô bị trừng phạt -
Ông Hê-li-ô-đô-rô được ơn trở lại |
11. Cuộc chinh phạt thứ
nhất của tướng Ly-xi-a - Hoà ước ký với người Do-thái. Bốn lá thư liên quan
đến hoà ước |
4. Tội ác của viên quản
lý Si-môn - Thượng tế Gia-xon du nhập văn hoá Hy-lạp - Vua An-ti-ô-khô
Ê-pi-pha-nê được hoan nghênh ở Giê-ru-sa-lem - Ông Mê-nê-la-ô làm thượng tế -
Thượng tế Ô-ni-a bị ám sát - Ly-xi-ma-khô bị giết trong cuộc nổi loạn - Ông
Mê-nê-la-ô bị kiện nhưng được tha |
12. Biến cố xảy ra tại
Gia-phô và Giam-ni-a - Chinh phạt vùng Ga-la-át - Trận đánh ở Các-ni-on - Ông
Giu-đa từ Ép-rôn và Xi-ky-thô-pô-li trở về - Trận chiến chống lại tướng
Goóc-ghi-át - Lễ tế cầu cho chiến sĩ trận vong |
5. Chinh phạt Ai-cập
lần thứ hai - Trận tấn công của ông Gia-xon và cuộc đàn áp của vua
An-ti-ô-khô - Cướp phá Đền Thờ - Tướng A-pô-lô-ni-ô |
13. Cuộc chinh phạt của
vua An-ti-ô-khô và tướng Ly-xi-a. Ông Mê-nê-la-ô bị tử hình - Người Do-thái
cầu nguyện và đã thành công ở gần thành Mô-đin - Vua An-ti-ô-khô V thương
thuyết với người Do-thái |
6. Thiết lập nền phụng
tự ngoại giáo - Ý nghĩa cuộc bách hại - Ông E-la-da tử đạo |
14. Thượng tế An-ki-mô
can thiệp - Tướng Ni-ca-no kết thân với ông Giu-đa - An-ki-mô gieo rắc tai
hoạ. Ni-ca-no đe doạ Đền Thờ - Cái chết của ông Ra-dít |
7. Cuộc tử đạo của bảy
anh em |
15. Những lời lộng ngôn
và phạm thượng của Ni-ca-no - Ông Giu-đa khích lệ binh lính và được ca tụng -
Ni-ca-no bại trận và chết - Lời kết |
8. Ông Giu-đa Ma-ca-bê
vào mật khu - Giao tranh với Ni-ca-no và Goóc-ghi-át - Các tướng Ti-mô-thê và
Bắc-khi-đê thất trận - Tướng Ni-ca-no chạy trốn và tuyên bố có Thiên Chúa |
|
1. Đền tội cho người
đã chết (2 Mc 12,38-46)
a. Đọc bản văn
- 12,38-41: Sau ngày Sabát,
Giuđa và các bạn chuẩn bị an táng cho những người đã chết trong cuộc chiến. Tuy
nhiên trong áo trận của mỗi tử thi, người ta đều tìm thấy những đồ vật được
dâng cúng cho các thần ngoại. Có thể vì họ tin rằng mang những đồ vật đó sẽ đem
lại may mắn. Thế nhưng đó lại là điều Lề luật cấm. Do đó người ta hiểu rằng những
người này chết là vì tội lỗi đã phạm (xem thêm Giô-suê chương 7).
- 12,42: Những người còn sống được
nhắc nhở để đừng phạm những tội trên, đồng thời họ cầu nguyện xin Chúa tẩy sạch
tội lỗi đã phạm.
- 12,43-45: Ông Giuđa quyên góp
tiền bạc để gửi về Giêrusalem xin dâng hy lễ tạ tội. Tác giả nhấn mạnh lý do của
hành động này là niềm tin và hy vọng vào sự phục sinh.
b. Cầu nguyện cho người quá cố
Giáo huấn của Thánh Gregorio Cả: “Đối với một số tội nhẹ, phải tin là trước
phán xét chung có lửa thanh luyện. Chúa Giêsu xác nhận: nếu ai nói phạm đến
Chúa Thánh Thần, người ấy sẽ chẳng được tha cả đời này lẫn đời sau (x. Mt 12,31)”.
Qua khẳng định này, chúng ta có thể hiểu là một số tội có thể được tha ở đời
này, nhưng một số tội khác thì phải đợi tới đời sau.
Sự
kiện ông Giuđa Ma-ca-bê xin dâng hy lễ cầu nguyện cho những người đã chết là nền
tảng Thánh Kinh cho tập quán cầu nguyện cho những người đã chết. Hội Thánh Công
giáo khuyên con cái mình dâng Thánh Lễ, làm các việc bác ái, hãm mình, và nhường
các ân xá cho những người đã qua đời: “Chúng
ta hãy giúp họ và hãy nhớ đến họ. Nếu các con của ông Gióp đã được thanh luyện
nhờ việc hiến lễ của cha (x.G 1,5), tại
sao chúng ta còn nghi ngờ là những lễ tế chúng ta dâng lên Thiên Chúa lại không
đem đến cho những người đã chết một phần an ủi nào? Đừng do dự giúp đỡ và cầu
nguyện cho những người đã qua đời” (Thánh Gioan Kim Khẩu).
2. Cuộc tử đạo của bảy anh em (2 Mc 7,1-42)
Đây là trình thuật được biên soạn công phu.
Trong truyền thống Do thái, số 7 tượng trưng cho sự hoàn hảo, vì thế trình thuật
này là câu truyện về một gia đình hoàn hảo. Toàn bộ trình thuật làm nổi bật ý
tưởng then chốt này là việc tuân giữ Lề luật còn quan trọng hơn chính sự sống.
Những câu trả lời của bảy anh em hàm chứa những lý luận thần học biện minh cho
việc tuân giữ Lề luật của Chúa:
- Thà chết còn hơn là vi phạm Lề luật (câu 2).
- Nhà vua có thể tước đoạt mạng sống nhưng chính Thiên Chúa sẽ làm cho kẻ
tin sống lại để hưởng sự sống đời đời (câu 9).
- Nhà vua có thể cắt đi các phần thân thể nhưng Thiên Chúa sẽ ban lại (câu 11).
- Chết vì niềm tin sẽ đem lại phục sinh, còn nhà vua sẽ không được hưởng
sự sống đời đời (câu 14).
- Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi dân Người và sẽ trừng phạt kẻ gian ác (câu
17).
- Chấp nhận cực hình như hình phạt của tội (câu 18).
Cách riêng, hình ảnh bà mẹ làm ta xúc động, không những vì sự can đảm của
bà mà nhất là vì những tâm tình bà nói với các con, khuyến khích các con can đảm
đón nhận mọi hình khổ. Những lời khuyên của bà phản ánh niềm tin mãnh liệt vào
Thiên Chúa là cội nguồn và cùng đích của sự sống: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ
ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể
cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài
người, và đã sáng tạo mọi sự. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại
cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Lề luật của Người
hơn bản thân mình” (7,22-23). Khi chỉ còn lại người con út và mạng sống người
con đó cũng đang bị đe doạ, bà vẫn can đảm thuyết phục con vừa bằng tình thương
mẫu tử “Con hãy thương mẹ, chín tháng cưu
mang, ba năm bú mớm,” lại vừa bằng những lý lẽ của đức tin: “Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn
loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài
người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này, nhưng hãy tỏ ra
xứng đáng với các anh con mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót,
Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ” (7,28-29). Bao lâu còn có những người
mẹ như thế, đức tin sống động vẫn được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Bao lâu còn có những người mẹ như thế, thì mới hy vọng những giá trị Tin
Mừng được thấm nhập vào đời sống xã hội. Người mẹ tuyệt vời này lại chẳng phải
là mẫu mực cho đời sống gia đình Công giáo hay sao?
CUỐN SÁCH 22
SÁCH GIÓP (G)
1. Tổng
quát
Tại sao người công chính và vô tội lại phải
chịu đau khổ? Thiên Chúa có công bằng không khi để xảy ra nghịch lý đó? Con người
ở thời đại nào cũng phải đối diện với vấn nạn này, thường được gọi là vấn nạn về
sự dữ, và đây cũng là chủ đề chính của sách Gióp.
a. Bối cảnh
Sách Gióp được viết cách đây khoảng 2500 năm
trong bối cảnh tôn giáo và văn hoá đặc thù của dân Ít-ra-en. Nền văn hoá lúc đó
là văn hoá bộ tộc. Trong nền văn hoá này, người ta nhấn mạnh đến sự phát triển
dòng tộc cũng như đất đai của cải, đồng thời hy vọng sẽ tiếp tục tồn tại nơi
con cháu của mình (chưa có khái niệm về đời sống sau khi chết). Đồng thời người
ta xem trọng vinh dự về mặt xã hội: “Một
miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Về mặt tôn giáo, sách Gióp thuộc thể
loại văn chương khôn ngoan, tin tưởng chắc chắn rằng sống công chính và khôn
ngoan sẽ đem đến phúc lộc dồi dào, cụ thể nhất là con đàn cháu đống và làm ăn
thịnh vượng. Sách Gióp gồm có 41 chương:
Chương |
Chương |
1. Xa-tan thử thách ông
Gióp |
22. THIÊN THỨ BA - Thiên
Chúa trừng phạt nhân danh công lý |
2. Xa-tan thử thách ông
Gióp (tiếp) |
23. Thiên Chúa ở xa nên
sự ác thắng thế |
3. ĐỐI THOẠI - THIÊN
THỨ NHẤT - Ông Gióp nguyền rủa ngày ông chào đời |
24. Thiên Chúa ở xa nên
sự ác thắng thế (tiếp) |
4. Tin tưởng vào Thiên
Chúa |
25. Thánh thi ca tụng
quyền năng Thiên Chúa |
5. Tin tưởng vào Thiên
Chúa (tiếp) |
26. Ông Bin-đát nói vu
vơ |
6. Chỉ có ai đau khổ
mới hiểu được nỗi khổ của mình |
27. Ông Gióp nhìn nhận
quyền năng Thiên Chúa - Ý kiến của ông Xô-pha |
7. Chỉ có ai đau khổ
mới hiểu được nỗi khổ của mình (tiếp) |
28. Khôn ngoan con người
không thể đạt được |
8. Cần học hỏi về đức
công chính của Thiên Chúa |
29. KẾT THÚC CUỘC ĐỐI
THOẠI - Lời than van và biện hô của ông Gióp |
9. Đức công chính của
Thiên Chúa vượt trên tất cả |
30. Lời than van và biện
hô của ông Gióp (tiếp) |
10. Đức công chính của
Thiên Chúa vượt trên tất cả (tiếp) |
31. Lời biện hộ của ông
Gióp |
11. Sự khôn ngoan của
Thiên Chúa mời gọi ông Gióp thú tội |
32. LỜI LẼ CỦA ÔNG
Ê-LI-HU - Ông Ê-li-hu can thiệp |
12. Thiên Chúa quyền
năng biểu lộ sự khôn ngoan qua các hành động của Người |
33. Lòng tự cao của ông
Gióp |
13. Thiên Chúa quyền
năng biểu lộ sự khôn ngoan qua các hành động của Người (tiếp) |
34. Ba nhà khôn ngoan
không biện hộ nổi cho Thiên Chúa |
14. Thiên Chúa quyền
năng biểu lộ sự khôn ngoan qua các hành động của Người (tiếp) |
35. Thiên Chúa không
dửng dưng trước công việc của con người |
15. THIÊN THỨ HAI - Ông
Gióp tự kết án bằng những lời lẽ của ông |
36. nghĩa đích thực
những đau khổ của ông Gióp |
16. Con người không công
chính còn Thiên Chúa công chính |
37. nghĩa đích thực
những đau khổ của ông Gióp (tiếp) |
17. Con người không công
chính còn Thiên Chúa công chính (tiếp) |
38. LỜI ĐỨC CHÚA PHÁN
DẠY - Công trình sáng tạo của Đức Khôn Ngoan làm ông Gióp ngỡ ngàng |
18. Giận dữ cũng chẳng
làm gì được Thiên Chúa |
39. Công trình sáng tạo
của Đức Khôn Ngoan làm ông Gióp ngỡ ngàng (tiếp) |
19. Bị Thiên Chúa và con
người bỏ rơi, nhưng vẫn tin |
40. Thiên Chúa chế ngự
sức mạnh của sự dữ - Con thú Bơ-hê-mốt - Con Giao Long |
20. Thiên Chúa công
chính không miễn trừ ai |
41. Con Giao Long (tiếp) |
21. Thực tế không phải
vậy |
42. Câu trả lời cuối
cùng của ông Gióp - Câu trả lời cuối cùng của ông Gióp - ĐỨC CHÚA khôi phục
tài sản cho ông Gióp |
b. Nội dung tổng quát
- Phần mở đầu (1,1 – 2,13): Ông Gióp mất tất cả.
Ba người bạn đến khuyên nhủ.
- Đối thoại (3,1 – 31,40): Sau
khi nghe ông Gióp than thở về số phận hẩm hiu của mình, ba người bạn lên tiếng
biện hộ cho Chúa. Họ tranh luận với nhau qua ba diễn từ cho đến khi ông Gióp kết
thúc bằng lời thề nguyền vô tội.
- Diễn từ của Ê-li-hu (32,1 –
37,24): Một người trẻ với những lời lẽ mới
mẻ và nâng đỡ.
- Diễn từ của Đức Chúa (38,1 –
42,6): Thiên Chúa lên tiếng qua hai diễn từ dài và dồn ông Gióp vào thế thinh lặng.
- Phần Kết (42,7-17): Cơ nghiệp
của ông Gióp được phục hồi và sống hạnh phúc mãi mãi.
2. Phần
mở đầu (1,1 – 2,13)
a. Cảnh I (dưới đất) (1,1-5)
Tên ông Gióp có nghĩa là “Chúa của tôi ở đâu?” Ông là mẫu người đạo đức
và công chính, kính sợ Chúa. Trong văn chương khôn ngoan, kính sợ Chúa được coi
là khởi điểm và cốt lõi của khôn ngoan (Cn 1,7; 9,10). Vì thế ông được chúc
phúc, con cái đề huề, của cải sung túc.
b. Cảnh II (trên trời) (1,6-12)
Đức Chúa được mô tả như một vị vua ở phương
Đông, với “con cái” vây quanh. Trong các thần thoại ngoại giáo, “con cái” là những
vị thần cấp thấp hơn, nhưng trong Thánh Kinh, chúng được coi là những tôi tớ hầu
cận Đức Chúa (x. 1V 22,19-23). Satan cũng có mặt ở đó. Satan cho rằng Gióp sống
đạo đức chỉ vì được lợi lộc. Nếu Gióp mất hết của cải thì hắn sẽ nói gì về
Thiên Chúa? Sau đó, Satan được phép đi thử thách Gióp.
c. Cảnh III (dưới đất) (1,13-22)
Toàn bộ cơ nghiệp, của cải và cả con cái của
ông Gióp bị tiêu tan trong giây lát. Những sức mạnh hủy diệt ở đây có cả thiên
tai (lửa, cuồng phong) và nhân tai (dân Sơ-va và Can-đê). Tuy nhiên Satan phải
thất vọng vì dù mất tất cả, ông Gióp vẫn một niềm tin tưởng, chúc tụng tôn vinh
Danh Chúa (1,20-21).
d. Cảnh IV (trên trời) (2,1-6)
Câu 3b quan trọng nhất vì xác định không có
mối liên hệ nào giữa đời sống đạo đức của Gióp và những đau khổ ông phải chịu.
Satan vẫn chưa chịu đầu hàng. Nó đòi hỏi tiếp tục thử thách Gióp.
e. Cảnh V (dưới đất) (2,7-13)
Gióp phải chịu thứ ung nhọt khủng khiếp. Bây
giờ không còn là những đau khổ bên ngoài nhưng ngay trong chính thân xác ông.
Thêm vào đó, vợ của ông vào cuộc, lên tiếng nguyền rủa ông. Nhưng ông Gióp vẫn
kiên vững trong đường lối của mình. Ba người bạn của ông Gióp xuất hiện để an ủi
và nâng đỡ ông, và “họ ngồi xuống đất,
bên cạnh ông, suốt bảy ngày đêm, chẳng nói với ông một lời, vì họ thấy rằng nỗi
đau khổ của ông quá lớn” (2,13).
3. Lời
than van của ông Gióp (3,1-26)
Than van là tiếng kêu đau đớn phát xuất cách
tự nhiên từ trái tim con người khi cuộc đời bị tràn ngập khổ đau và đổ vỡ.
a. Nguyền rủa cả ngày và đêm (3,3-10)
Gióp không nguyền rủa Thiên Chúa nhưng nguyền
rủa “ngày chào đời” và đêm báo thụ thai.” Tiên tri Giê-rê-mi-a từng mang tâm trạng
như thế (20,14-18).
b.
Mong được chết (3,11-19)
“Sao tôi không chết đi lúc vừa mới chào đời?”
“Mong chết mà không được, tìm cái chết hơn tìm kho báu”. Trong những lời than
vãn của ông Gióp, lưu ý hai đặc điểm: sử dụng nhiều lần từ “tại sao” (đây là tiếng
kêu đau khổ hơn là tìm kiếm trí thức) và “tôi” (nhấn mạnh kinh nghiệm cá nhân).
c. Mong được giải thoát khỏi
Chúa (3,20-26)
Gióp mô tả bản thân ông là người “bị Thiên
Chúa giam hãm tư bề.” Với dân Ít-ra-en, Thiên Chúa là Đấng giải thoát họ khỏi sự
chết, còn ở đây Gióp lại cầu mong cái chết giải thoát ông khỏi bàn tay của
Chúa! Thật là oái oăm nhưng ở đó diễn tả nỗi đau cùng cực của người mà “bánh ăn
chỉ là tiếng nức nở, và tiếng gào thét tựa nước lũ ngập tràn.”
4. Độc thoại của ông Gióp (29,1 – 31,37)
Trong những chương trước, bạn bè của ông
Gióp cho rằng ông có tội nên mới bị trừng phạt, và ông Gióp phủ nhận lời kết án
đó. Tuy nhiên những lời kết án cũng như phản ứng của ông Gióp chỉ được trình
bày cách chung chung, còn trong 29,1 – 31,37, ông Gióp trả lời đầy đủ hơn, qua
đó thấy được nỗi lòng của ông, một người vô tội mà phải chịu đau khổ.
a. Nhớ lại những ngày xưa tháng cũ (29,1-25)
Gióp nhắc lại những tháng ngày tràn ngập
phúc lành của Chúa: mùa màng tươi tốt, con cái quây quần. Đặc biệt là ông được
mọi người kính trọng: “Họ nghe tôi nói và
chờ đợi, chăm chú theo dõi ý kiến của tôi” (câu 21), “Tôi vẽ đường chỉ lối và hướng dẫn họ, sống với họ như vua ở giữa ba
quân, như người ủi an giữa những kẻ ưu sầu” (câu 25). Đời sống đạo đức của
ông được thể hiện qua cách đối xử của ông với mọi người: người nghèo khổ, kẻ mồ
côi goá bụa, người lâm cơn hấp hối...
b.
Than thở nỗi khốn cùng hiện tại (30,1-31)
Thay cho sự giàu sang danh giá khi xưa là sự
khinh miệt của người đời (1-15). Gióp quay ra than phiền Chúa: “Con kêu lên Ngài nhưng Ngài không đáp, con
trình diện Ngài nhưng Ngài chẳng lưu tâm” (câu 20). Điều trớ trêu là khi
người khác lâm cảnh khốn cùng thì ông Gióp đưa tay nâng đỡ, còn bây giờ khi ông
lâm cảnh khổ đau, có ai nâng đỡ? (câu 24-31).
c. Lời thề vô tội (31,1-40)
Ông Gióp liệt kê chín điểm trong đời sống
luân lý để tự biện cho sự vô tội của ông. Chín điểm này bao trùm mọi mối quan hệ
trong cuộc sống con người: với Thiên Chúa, với chính mình, với tha nhân, với cả
môi trường thiên nhiên:
- Không đồng hành cùng gian dối (câu 5-8).
- Không khai thác đất đai quá mức (38-40).
- Không gian dâm ngoại tình (9-12).
- Không chà đạp quyền lợi của người tôi tớ (13-15).
- Không cứng lòng trước người đau khổ (16-23).
- Không chạy theo các ngẫu tượng (24-28).
- Không thù ghét địch thù (29-30): một thái độ rất đáng phục.
- Lòng hiếu khách (31-32).
- Ngay thẳng và chính trực.
II. Chương
22-42
1. Thiên Chúa lên tiếng (38,1 – 42,6)
Thiên Chúa trả lời những vấn nạn của ông Gióp qua hai diễn từ:
a. Diễn từ thứ nhất (38,1 – 40,2)
Thiên Chúa tra vấn Gióp về những kỳ công của
công trình tạo dựng, biểu lộ sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài: đặt nền móng
cho trái đất (câu 4-7), vạch ranh giới cho đại dương (8-11), điều hành ánh sáng
cho vũ trụ (12-15). Tiếp đó Thiên Chúa nói đến những điều kỳ diệu trong vũ trụ,
cụ thể là hiện tượng thời tiết (22-30) và thế giới động vật (38,39 – 39,30). Tất
cả chứng tỏ rằng Thiên Chúa không chỉ tạo dựng vũ trụ mà còn tiếp tục bảo tồn
vũ trụ bằng sự quan phòng của Người. Diễn từ này nhằm trả lời vấn nạn của Gióp
cho rằng không hề có kế hoạch, định hướng hay sự quan phòng nào trong thế giới
này (38,2).
b.
Diễn từ thứ hai (40,6 – 41,26)
Xem ra ông Gióp đã muốn lên án Thiên Chúa để
biện hộ cho sự vô tội của mình. Nhưng có thực sự cần phải làm như thế không
(40,8)? Diễn từ nhắc tới hai con thú Bơ-hê-mốt và Giao Long. Các học giả cho rằng
đây là hà mã và giao long. Tuy nhiên điều quan trọng hơn là hai con thú này tượng
trưng cho sự hỗn mang thuở đầu tạo dựng. Thiên Chúa hỏi Gióp xem liệu ông có chế
ngự được sự hỗn mang đó không? Những lời chất vấn của Thiên Chúa đưa ông ra khỏi
nỗi đau của bản thân để mở rộng tầm nhìn đến toàn thể vũ trụ, khám phá sự khôn
ngoan và quyền năng Thiên Chúa bao trùm tất cả.
2. Đoạn
kết (42,7-17)
Chúa trách mắng những người bạn của ông Gióp
vì đã nói về Ngài không đúng. Họ chỉ nói về Thiên Chúa từ nhãn quan chật hẹp của
họ. Đồng thời Chúa khôi phục tài sản cho ông Gióp và phúc lành của Người chan
chứa trên ông.
3. Ý
nghĩa của Sách Gióp
a. Vấn đề người vô tội phải chịu đau khổ
Đau khổ là chủ đề chính trong những cuộc tranh luận giữa ông Gióp và bạn
hữu ông. Họ khẳng định rằng đau khổ là hình phạt của tội (x. 4,7-9; 8,20;
11,4-6). Khi Gióp phủ nhận khẳng định này trong trường hợp của ông thì họ trả lời:
“Trước nhan Thiên Chúa, phàm nhân cho
mình là công chính thế nào được! Và đứa con do người phụ nữ sinh ra, làm sao
dám coi mình là thanh sạch?” (25,4-6; 14,1-4; 15,14). Tóm lại là không thể
có chuyện người vô tội phải chịu đau khổ. Thế nhưng thực tế phức tạp hơn nhiều,
và đã có những câu trả lời khác trong sách Gióp. Đau khổ là một huyền nhiệm và
chúng ta là ai mà có thể hiểu được đường lối của Thiên Chúa (11,7-10; 15,8-9;
42,3). Đau khổ là phương thế Chúa dùng để giáo huấn ta và làm cho ta nên tốt
hơn (5,17-18; 36,15). Thiên Chúa cho phép đau khổ xảy ra để thử thách đức độ của
người công chính (chương 1-2). Những câu trả lời trên làm nổi bật hai điều: một
bên là sự vô tội của con người và một bên là sự công chính của Thiên Chúa. Bạn
hữu của ông Gióp cũng như chính ông đều nhấn mạnh đến sự công chính của Thiên
Chúa. Bạn hữu ông nhấn mạnh điều này vì đó là cách giải thích truyền thống. Còn
ông Gióp nhấn mạnh điều này vì đó là nền tảng để ông dựa vào mà kêu xin Thiên
Chúa lắng nghe và phán xử cho ông.
Cho dù đau khổ được xem như chủ đề lớn của sách Gióp, thực ra đây không
phải là vấn đề chính. Bởi lẽ người đọc đã biết ngay từ đầu rằng đau khổ mà ông
Gióp phải chịu là để thử thách chứ không phải hình phạt: “Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không cầu lợi chăng?” (1,9). Đàng
khác nếu coi đau khổ là chủ đề chính thì xem ra vấn đề vẫn không được giải quyết,
kể cả câu trả lời của Chúa xem ra cũng chẳng soi sáng gì hơn.
b. Huyền nhiệm đau khổ và mối tương quan với
Thiên Chúa
Đau khổ là một huyền nhiệm hơn là một vấn đề.
Vấn đề (hay bài toán) là cái gì ở trước mắt ta và ta giải quyết một lần là
xong, dù khó khăn đến mấy. Còn huyền nhiệm là một thực tại ta bị nhận chìm
trong đó, suy nghĩ về nó nhưng đồng thời hít thở trong nó, đau khổ và hạnh phúc
trong nó. Tình yêu, đau khổ và sự chết là những huyền nhiệm lớn trong đời. Như
thế cần nhìn huyền nhiệm đau khổ trong những tương quan sống.
Đối với ông Gióp, nỗi đau khổ lớn nhất là ở chỗ ông cảm thấy mơ hồ về mối
tương quan giữa ông và Thiên Chúa. Trước đây Chúa sống với ông như người bạn
(chương 29), còn bây giờ lại như thù địch (13,24). Đặt mình trong bối cảnh đó,
sẽ thấy câu trả lời của Chúa đã soi sáng cho ông Gióp, không phải vì diễn từ đó
đưa ra một câu trả lời rõ ràng về mặt lý luận, nhưng vì diễn từ đó khẳng định rằng
Thiên Chúa vẫn luôn ở đó khi Gióp đau khổ và luôn lắng nghe lời than thở của
ông. Nghĩa là Thiên Chúa khẳng định mối quan hệ tốt đẹp giữa Ngài và ông Gióp,
và như thế Gióp khám phá ra rằng ông không cô độc trong đau khổ, Chúa vẫn ở đó
với ông. Đó chính là sức mạnh cho phép ông vượt qua mọi khó khăn thử thách. Hiểu
như thế, sách Gióp không nhằm bàn luận một vấn đề thần học cho bằng là một tiếp
cận mầu nhiệm đức tin, mầu nhiệm về mối tương quan của ta với Thiên Chúa.
Trong ý hướng trên, ta khám phá những thay đổi nơi bản thân ông Gióp.
Trước kia Gióp là người rất đạo đức nhưng xem ra không thực tế cho lắm. Rồi thử
thách xảy ra liên tiếp, ông phải suy nghĩ về những gì ông trải nghiệm xuyên qua
những lần tranh luận với bạn hữu. Cuối cùng ông nhìn nhận rằng trước kia ông chỉ
biết Chúa nhờ người ta nói lại, nhưng bây giờ chính mắt ông chứng kiến. Vì thế
“điều đã nói ra, con xin rút lại, trên
tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn” (42,6). Gióp đã trở thành con người
khác với một sự thay đổi sâu xa xuyên qua những kinh nghiệm đời sống.
c. Đâu là dung nhan đích thực của Thiên Chúa?
Các bạn hữu của ông Gióp đã nói rất nhiều về
Chúa và nhân danh sự công chính của Chúa mà lên án ông. Nhưng cuối cùng chính
Chúa lên tiếng: “Các ngươi đã không nói
đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta” (42,7-8). Gióp đã nói đúng đắn về
Chúa. Có thể hiểu “đúng đắn” theo hai nghĩa: Gióp đã nói “cách đúng đắn” và
Gióp đã nói “những điều đúng đắn.”
Gióp đã nói cách đúng đắn vì ông nói thật với lòng mình. Ông không ngần
ngại nói lên nỗi đau của mình, cả những mối hoài nghi và hoang mang của mình. Mối
quan hệ đích thực với Thiên Chúa phải được xây dựng trên sự thật. Không phải
ông không biết những cách giải thích truyền thống, những lập luận thần học về
Thiên Chúa mà bạn bè ông nêu ra, nhưng ông không cảm thấy thoả mãn với những lập
luận đó, và ông nói thật những suy tư, những cảm nghiệm của mình. Nói về Chúa,
dù hay cách mấy mà không có sự chân thật, vẫn chỉ là giả dối.
Đồng
thời Gióp đã nói “những điều đúng đắn” về Chúa. Các bạn hữu của ông Gióp nghĩ rằng
họ biết về Chúa nhưng thực ra họ đã đóng khung Thiên Chúa trong khuôn khổ chật
hẹp của những khái niệm và lý luận chật hẹp của con người. Trong khi đó Thiên
Chúa là mầu nhiệm không thể dò thấu, Người vượt trên tất cả và những khái niệm
của con người trở thành ngu xuẩn trước thực tại vô cùng huyền nhiệm này (42,8).
Chính Thiên Chúa nhắc nhớ cho các bạn hữu của Gióp như thế và cũng nhắc nhớ cho
tất cả chúng ta.
CUỐN SÁCH 23
SÁCH THÁNH VỊNH (Tv)
1. Tổng quát
Ở trung tâm của mọi Thánh vịnh là sự hiện diện của Đức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en. Đối với tác giả Thánh vịnh, Đức Chúa hiện diện trước hết là trong
Đền thờ được vua Sa-lô-môn xây trên núi Sion ở Giêrusalem vào thế kỷ 10, và được
xây lại vào thế kỷ 6 trước Công nguyên. Đền thờ là điểm quy tụ của ba ngày lễ lớn
trong năm: lễ Vượt qua vào đầu mùa Xuân, bảy tuần sau là lễ Ngũ tuần và lễ Lều
vào đầu mùa thu. Trong khuôn viên Đền thánh, dân chúng gặp gỡ Đức Chúa, và qua
những nghi thức phụng vụ, họ nhớ lại những thời điểm quan trọng như công trình
tạo dựng và cuộc xuất hành. Tuy nhiên theo tác giả Thánh vịnh, Đền thờ không phải
là nơi duy nhất cho dân gặp Đức Chúa. Họ còn có thể gặp gỡ Đức Chúa qua các vua
là trung gian giữa Chúa và Dân Người. Một hình thức hiện diện khác của Đức Chúa
là qua Lề luật. Với các Kitô hữu, Chúa Kitô và Hội thánh của Người chính là nơi
Thiên Chúa hiện diện cách rõ ràng nhất.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã trình
bày thật phong phú và sâu sắc về ý nghĩa và vai trò của Thánh vịnh trong đời sống
Dân Chúa: “Các Thánh vịnh nuôi dưỡng và
diễn tả tâm tình cầu nguyện của Dân Chúa là cộng đoàn quy tụ vào các dịp đại lễ
tại Giêrusalem và mỗi ngày sabát trong các hội đường. Kinh nguyện này vừa có
tính cá nhân vừa có tính cộng đoàn, vừa liên hệ với những người đang cầu nguyện
vừa liên hệ đến toàn thể mọi người. Các Thánh vịnh vang lên từ thánh địa và các
cộng đoàn Do thái tản mác khắp nơi nhưng lại bao trùm toàn thể thụ tạo; nhắc lại
các biến cố cứu độ trong quá khứ và vươn đến ngày hoàn tất lịch sử; nhắc nhớ
Thiên Chúa đã thực hiện những lời hứa thế nào, đồng thời chờ đợi Đấng Mêsia đến
hoàn tất trọn vẹn. Được Chúa Kitô sử dụng để cầu nguyện và kiện toàn, các Thánh
vịnh luôn chiếm vị trí thiết yếu đối với kinh nguyện của Hội Thánh… Qua các Thánh
vịnh, chúng ta gặp thấy những đặc điểm: lời cầu nguyện đơn sơ và tự phát, lòng
khao khát Thiên Chúa qua và với tất cả những gì tốt đẹp trong vũ trụ, hoàn cảnh
khó khăn của người tín hữu muốn yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự nhưng lại phải
đối diện với bao thử thách và địch thù, dù vậy vẫn chờ đợi Thiên Chúa trung tín
ra tay hành động; niềm xác tín vào tình yêu Thiên Chúa và phó thác theo Thánh Ý
Người” (số 2586 – 2589).
150 Thánh vịnh diễn tả kinh nghiệm của Ít-ra-en
về Đấng Thánh. Những kinh nghiệm này được trình bày qua các hình thức và truyền
thống văn chương của thời đại đó. Vì thế để hiểu và lĩnh hội những kinh nghiệm
tôn giáo đó, không thể không quan tâm đến cách diễn tả của thời đại đó. Theo
các học giả Thánh Kinh, có thể chia các Thánh vịnh thành ba loại: than vãn (cá
nhân hay cộng đoàn), tạ ơn (cá nhân và cộng đoàn), và ngợi khen.
a. Thánh
vịnh than vãn
a.1. Đặc điểm: Trong những Thánh vịnh này,
có những yếu tố chính như sau:
- tiếng kêu trực tiếp và chân thành hướng lên Đức Chúa.
- than thở: mô tả cụ thể nỗi đau của cộng đoàn như bị mất mùa, bị thua
trận, hoặc nỗi đau của cá nhân như bệnh tật, bị lừa đảo, bị oan ức...
- tín thác: dù phải lâm vào cơn khủng hoảng, tác giả Thánh vịnh vẫn một
niềm cậy trông vào Chúa. Tâm tình này thường được bắt đầu bằng từ “nhưng” hay
“tuy nhiên”...
- khấn xin: tác giả Thánh vịnh xin ơn giải cứu cho dân và xin Chúa hạ gục
quân thù.
- lời bảo đảm: lời khẳng định Thiên Chúa nhận lời.
- ngợi khen: ở cuối Thánh vịnh là tâm tình ngợi khen, ngược lại với nỗi
âu lo thất vọng được trình bày ở đầu.
Như thế, trong mỗi Thánh vịnh theo thể loại
này, có ba nhân vật: tác giả Thánh vịnh (người đọc Tv), Thiên Chúa, và kẻ gian
ác. Trong lời than thở, tác giả mô tả thật bi thảm nỗi đau của mình và lấy sự
vô tội của mình như lý do thúc đẩy Chúa hành động: Chẳng lẽ Chúa là Đấng công
chính mà lại để cho kẻ gian ác đàn áp người vô tội như thế sao? Chẳng lẽ Chúa lại
để cho Ít-ra-en là dân của Chúa bị quân thù đè bẹp sao? Lời bảo đảm (như đã
phân tích ở trên) được nhìn như phán quyết của Chúa, khẳng định Chúa sẽ không để
cho sự ác chiến thắng. Tâm tình ngợi khen ở cuối Thánh vịnh diễn tả niềm hy vọng
rằng chắc chắn Đức Chúa sẽ hành động.
a.2. Một vài Thánh vịnh than vãn
v Thánh vịnh 22: Tuy
không theo sát lược đồ trên nhưng những yếu tố chính trong thể loại than vãn xuất
hiện rất rõ.
- Than thở: hai lời than thở “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ
lòng ruồng bỏ con sao?... Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi
dể duôi...” (câu 2-12) “Nghe cổ họng
khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau, chốn tử vong Chúa đặt vào...
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (câu
13-22).
- Tín thác “Thế nhưng Chúa ngự nơi đền, vinh quang của Ít-ra-en là Ngài” (câu
4-6) và “Đưa con ra khỏi thai bào, vòng
tay mẹ ẵm Chúa trao an toàn...” (câu 10-12).
- Khấn xin “Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau lạy Chúa, xin đừng đứng xa”
(câu 20-22).
- Ngợi khen “Con nguyện sẽ loan truyền Danh Chúa... Hỡi
những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Ngài đi” (câu 23-32).
Với người Kitô hữu, Thánh vịnh này không thể không làm ta nhớ đến Chúa
Giêsu trong cuộc khổ nạn, những lời Ngài kêu lên từ thập giá, “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao
Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46), và những sự kiện được các thánh sử kể lại, “chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem
áo Người ra bắt thăm mà chia nhau” (Mc 15,24). Có lẽ khi bị đóng đinh trên
thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng Thánh vịnh này, một Thánh vịnh được bắt
đầu bằng những lời than vãn dường như tuyệt vọng nhưng kết thúc với tâm tình trọn
vẹn tín thác, cậy trông. Chúng ta lại không thể lấy Thánh vịnh này làm lời cầu
nguyện tuyệt vời những khi phải sa cơn thử thách sao?
v Thánh vịnh 51
(Thánh vịnh sám hối): Thánh vịnh có hai phần dài gần như nhau: câu 3-10 và
11-19, và phần kết (20-21). Có thể gặp ở đây những yếu tố cụ thể trong thể loại
than vãn.
- Tiếng kêu lên Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót
thương con” (câu 3).
- Than vãn: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ
ám ảnh ngày đêm...” Thánh vịnh mô tả tình trạng tội lỗi cách sâu sắc, “Ngài thấy cho, lúc chào đời con đã vương lầm
lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai...” (câu 5-7).
- Tín thác: ý thức mình tội lỗi
nhưng luôn vững một niềm cậy trông vào Chúa, “nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn
ngoan” (câu 8).
- Khẩn cầu: “Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỉ...
Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi, và xoá đi hết mọi lỗi lầm” (câu
10-11). Lời khẩn cầu rất sâu xa và phong phú vì không chỉ ngưng lại ở việc xin
tha tội nhưng còn xin được ở gần Chúa, sống nhờ quyền năng Chúa (câu 12-13). Nhờ
đó có được niềm vui (câu 14) và trở nên chứng nhân cho đường lối Chúa giữa các
tội nhân (câu 15-16)
- Ngợi khen: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất
tiếng ngợi khen Ngài...” (câu 17-19).
Đây là một trong những Thánh vịnh nổi tiếng nhất và được nhiều người biết
đến. Người Kitô hữu thường đọc và suy niệm Thánh vịnh này trong mùa Chay, mùa
trở về, mùa sám hối. Suy niệm Thánh vịnh này giúp ta hiểu và sống tâm tình sám
hối chân thật, không chỉ ngừng lại ở những dằn vặt về tội lỗi nhưng hướng nhìn
lên Chúa là Tình yêu, quyết tâm trở về với Chúa và trở nên nhân chứng tình yêu
của Chúa.
2. Nguồn gốc và tác giả Thánh vịnh
Nguồn gốc các thánh vịnh là các tuyển tập
thánh ca của đền Thờ Giêrusalem. Theo truyền thống kể lại vua Đavít đã quy định
các nguyên tác của phụng vụ cũng như đã sáng tác toàn bộ các thánh vịnh (trích chú dẫn nhập sách Thánh vịnh, Thánh
Kinh Cựu ước và Tân ước, Giờ Kinh Phụng Vụ)
3. Những
chủ đề chính trong Sách Thánh Vịnh
a. Thiên Chúa
Rõ ràng Thiên Chúa là chủ đề lớn nhất của các Thánh vịnh đến nỗi có thể
nói rằng các Thánh vịnh chỉ nói với Chúa và về Chúa. Mọi chủ đề khác cuối cùng
cũng hướng về Chúa: thế giới này hiện hữu là do Ngài và phải tôn vinh chúc tụng
Ngài; dân Ít-ra-en là dân được Chúa tuyển chọn, dẫn đưa, yêu thương và trừng phạt
trong suốt dòng lịch sử; mỗi tín hữu được Ngài dẫn từng bước đi. Quả thật,
Thiên Chúa hiện diện trong từng lời, từng chữ của các Thánh vịnh.
Khi nói về Chúa, các Thánh vịnh có thể sử dụng
ngôn ngữ như nhân, diễn tả Thiên Chúa bằng những kinh nghiệm và tình cảm của
con người. Tuy nhiên đây chỉ là hình ảnh, còn tự thâm sâu, tác giả Thánh vịnh ý
thức rõ ràng Thiên Chúa siêu việt trên mọi thụ tạo của Ngài. Tính siêu việt này
gắn với tính độc nhất, nghĩa là chỉ một mình Chúa là Thiên Chúa. Hẳn nhiên có
những cách diễn tả như Thiên Chúa siêu việt trên các thần (Tv 136,2-3; 97,7-9),
hoặc nói đến những hữu thể thiêng liêng, có khi nói đến những hữu thể thần linh
(Tv 8,6), nhưng toàn bộ sách Thánh vịnh cho thấy khẳng định độc thần giáo rất
rõ ràng. Còn về quỷ, trong văn bản Híp-ri, quỷ không bao giờ được gọi tên rõ
ràng nhưng chỉ được diễn tả là thù địch của Chúa, là những quyền lực xấu xa đe
doạ và bách hại các tín hữu.
Một đàng, Thiên Chúa siêu việt trên các loài
thụ tạo; đàng khác, Ngài lại liên hệ gần gũi với thụ tạo của Ngài. Ngài quan
phòng lo liệu không những cho thế giới vật chất này có trật tự, mà còn để bảo vệ
sự công bằng trên trái đất. Với người công chính, Ngài là Đấng bảo vệ và trả
thù thay cho họ; với người tội lỗi có lòng hối cải ăn năn, Ngài là chốn nương
thân; với kẻ nghèo hèn khiêm tốn, Ngài là lòng thương xót, từ tâm và nhân hậu.
b. Ơn cứu độ
Thiên Chúa hứa ban Ơn Cứu độ cho con người,
nghĩa là một ngày nào đó Ngài sẽ can thiệp để bảo đảm sự chiến thắng của người
công chính trên kẻ bất lương, và khai mạc triều đại của Ngài trong một thế giới
mới. Lời hứa này chưa rõ nét trong những bản văn xa xưa, nhưng ngày càng rõ
ràng hơn. Ơn Cứu độ sẽ đến tại Xi-on, núi thánh của Chúa. Ơn Cứu độ sẽ đến từ
dòng dõi Đavít. Rõ hơn nữa, ngày nào đó, một người thuộc dòng dõi Đavít sẽ là Đấng
Mêsia, vừa là Vua vừa là Tư tế, và sẽ thực hiện nơi chính bản thân mình tất cả
mọi lời tiên tri. Đấng Mêsia đó sẽ bị bách hại nhưng Người sẽ chiến thắng. Người
sẽ là vị vua hoà bình, mang nơi mình mọi nhân đức của vị vua lý tưởng, với
trách nhiệm chăn dắt và xét xử toàn thế giới. Những mô tả về thời đại Đấng
Mêsia cho ta thoáng thấy một triều đại mới, khi các dân tộc tuôn đổ về Xi-on và
phủ phục trước Thiên Chúa của Ít-ra-en.
c. Con người
Trước nhan Thiên Chúa, con người thật nghèo
nàn và đáng thương. Trong rất nhiều Thánh vịnh, con người cất tiếng than van về
nỗi khốn cùng của mình. Nhưng con người không bị bỏ rơi trong tuyệt vọng. Nhờ cầu
nguyện, họ đón nhận phúc lành và sự đỡ nâng của Đấng Tạo hoá. Thiên Chúa giải
thoát họ và họ dâng lời chúc tụng tạ ơn Ngài. Đời sống luân lý hệ tại việc thực
thi công chính, tuân giữ Lề luật, và tham dự việc thờ phượng. Những việc này
không đối kháng nhau; đúng hơn đó là những mặt khác nhau của cùng một lý tưởng.
Đền thờ được nhắc đến trong những Thánh vịnh cổ xưa cũng như những Thánh vịnh
sau này. Vào thời sau này của Do thái giáo, việc nghiên cứu và suy niệm lề luật
chiếm vị trí quan trọng trong đời sống người công chính, nhưng đây cũng không
phải là điều gì hoàn toàn mới mẻ; đúng hơn, chỉ là nhấn mạnh một khía cạnh
trong tôn giáo của các tổ phụ.
d. Thưởng phạt
Vấn đề thưởng phạt là chủ đề rất quan trọng
trong toàn bộ lịch sử tôn giáo của Ít-ra-en, do đó không nên ngạc nhiên khi thấy
chủ đề này có mặt trong hầu hết các Thánh vịnh. Phần lớn các Thánh vịnh phản
ánh quan niệm truyền thống của dân Israel, cho rằng lòng đạo và hạnh phúc đi
đôi với nhau, còn đau khổ dứt khoát là hình phạt cho sự ác. Thế nhưng kinh nghiệm
thực tế xem ra lại không như thế, và tác giả Thánh vịnh có thể có nhiều thái độ
khác nhau: có khi tác giả khẳng định rằng sự thất bại của người công chính chỉ
là thất bại bên ngoài thôi, ngược lại thành công của kẻ tội lỗi chỉ là thành
công thoáng qua; có khi chứng kiến sự bất công thì tác giả cảm thấy bất nhẫn và
than thở với Chúa, xin Ngài can thiệp; có khi tác giả nói đến sự thưởng phạt của
Chúa trong tương lai xa. Tuy nhiên ta nên cẩn trọng khi nói đến niềm tin vào đời
sống tương lai được diễn tả trong các Thánh vịnh. Thật vậy, tác giả Thánh vịnh
vẫn giữ những ý tưởng truyền thống về chủ đề này, nghĩa là nói đến sheol (âm phủ)
như nơi chốn bị lãng quên, xa cách thánh nhan Chúa, chứ không phải là sự phục
sinh như ta hiểu ngày nay.
Trên đây là một vài chủ đề lớn trong sách Thánh
vịnh, cũng là những mối quan tâm lớn trong đời sống Kitô hữu. Chính vì thế,
Thánh vịnh luôn có mặt trong kinh nguyện của Hội Thánh, đồng thời thích hợp cho
mọi người ở mọi nơi và mọi thời.
CUỐN SÁCH 24
SÁCH CHÂM NGÔN (Cn)
1. Tổng quát
a. Văn loại
Sách Châm ngôn sử dụng hai thể văn: châm
ngôn và giáo huấn. Đặc tính của thể văn châm ngôn là (1) ngắn gọn, (2) khôn
ngoan, (3) dễ nhớ, (4) phát xuất từ kinh nghiệm, (5) trình bày chân lý phổ
quát, (6) nhằm mục đích thực hành, (7) có giá trị lâu dài. Các Châm ngôn thường
được trình bày do những tác giả khuyết danh, như những bài học thế hệ trước để
lại cho thế hệ sau. Thể văn giáo huấn (các chương 1-9; 22,17 – 24,23): được
trình bày như di sản người cha để lại cho con cái, với những huấn lệnh và những
lý do giải thích tại sao phải vâng theo.
b. Mục đích
Sách Châm Ngôn nhấn mạnh đến cả hai mặt: tri
thức và đạo đức. Văn hoá của Ít-ra-en cổ xưa xem “tâm” như là nguồn của suy
nghĩ, lý luận và quyết định; do đó những giáo huấn trong sách Châm Ngôn nhắm đến
“tâm” chứ không chỉ là trí theo quan niệm ngày nay. Nếu sách Châm Ngôn nhấn mạnh
suy nghĩ như là chìa khoá của hiểu biết, thì suy nghĩ ở đây không chỉ được nhìn
thuần túy là tư tưởng trừu tượng nhưng phải được thể hiện và đánh giá trong đời
sống cụ thể. Vì thế, khía cạnh tri thức luôn song hành với khía cạnh đạo đức.
Cách nhìn này khá gần gũi với truyền thống văn hoá Việt Nam.
c. Thần học của sách Châm Ngôn
Những tư tưởng trọng tâm trong sách Châm
ngôn là lý tưởng về đời sống gia đình và lòng hiếu thảo, sự chân thật và ngay
chính, quan tâm đến người nghèo, tự chủ và kềm hãm các đam mê. Nguồn gốc và tóm
kết của tất cả các nhân đức này là sự khôn ngoan, hiểu như sự kính sợ Chúa và
tin tưởng nơi một mình Chúa. Ăn bên trong những lời khuyên này là niềm xác tín
rằng sự ác không thể được dung thứ trong trật tự của Thiên Chúa. Chương 1-9 đồng
hoá đức khôn ngoan với chính quyền bính của Thiên Chúa. Vì thế, những người
trung tín sẽ được chúc phúc và những kẻ bất tín sẽ bị nguyền rủa.
d. Sách Châm ngôn có 30 chương gồm các phần chính
trong sách Châm Ngôn:
- Phần I: Những giáo huấn về
khôn ngoan (1,1– 9,18)
- Phần II : Các châm ngôn của
Sa-lô-môn (10,1– 22,16)
- Phần III: Ba mươi lời của
hiền nhân (22,17 – 24,22)
- Phần IV: Sưu tập của Khít-ki-gia
(25,1 – 29,27)
- Phần V: Các lời của A-gua và
Lơ-mu-ên (30,1 – 31,31)
Chương |
Chương |
1. Đề tựa tổng
quát – Phần mở đầu những lời huấn dụ Khôn Ngoan |
16. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn(tiếp) |
2. Những phúc lành
do khôn ngoan ban tặng |
17. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn(tiếp) |
3. Thái độ đối với
ĐỨC CHÚA |
18. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn(tiếp) |
4. Để cho Đức Khôn
Ngoan hướng dẫn |
19. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn(tiếp) |
5. Xa lánh người
đàn bà trắc nết - Sống chung thuỷ |
20. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn(tiếp) |
6. Sự bảo lãnh thiếu
khôn ngoan - Người biếng nhác và con kiến - Người xảo trá - Cha tiếp tục nhắn
nhủ con |
21. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn(tiếp) |
7. Cha tiếp tục nhắn
nhủ con (tiếp) |
22. Sưu tập những lời
của Bậc Khôn Ngoan |
8. Đức Khôn Ngoan
tiếp tục kêu gọi |
23. Sưu tập những lời
của Bậc Khôn Ngoan (tiếp) |
9. Đức Khôn Ngoan
tự ca ngợi |
24. Sưu tập những lời
lời khác của Bậc Khôn Ngoan |
10. Lời kêu gọi khẩn
thiết |
25. Bộ Sưu tập thứ
hai các Châm Ngôn của vua Sa-lô-môn |
11. Đức Khôn Ngoan
mở tiệc đãi khách - Mụ Khờ Dại cũng lên tiếng mời mọc |
26. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn (tiếp) |
12. Bộ Sưu tập thứ
nhất các Châm Ngôn của vua Sa-lô-môn - Châm ngôn của vua Sa-lô-môn |
27. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn (tiếp) |
13. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn (tiếp) |
28. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn (tiếp) |
14. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn(tiếp) |
29. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn (tiếp) |
15. Châm ngôn của
vua Sa-lô-môn(tiếp) |
30. Châm Ngôn có số
|
|
31. Lời của
Lơ-mu-ên – Người vợ đảm đang. |
2.
Chương 1-15: Đức Khôn Ngoan
a. Giá trị của đức khôn ngoan
Mọi hiểu biết và phúc lành đều từ Thiên Chúa mà đến. Khôn ngoan là quà tặng
của Thiên Chúa chứ không chỉ là sản phẩm của trí khôn nhân loại. Nói như thế
không có nghĩa là khinh thường những nỗ lực tìm kiếm và nghiên cứu nhưng để thấy
đâu là điều chính yếu (2,1-11). Đức Khôn Ngoan được nhân cách hoá (8,12-16) và
đã hiện diện trước nhan Thiên Chúa như mẫu mực trong ngày Chúa tạo dựng thế giới.
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu được coi là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Mt
11,19tt; Lc 11,49; 1Cr 1,24-30). Khởi điểm của sự khôn ngoan là lòng kính sợ
Chúa (1,7) và trung thành với Chúa (9,1-18). “Đừng khinh thường sự sửa trị của Giavê và đừng nhàm chán lời Người quở
mắng. Bởi Giavê quở mắng kẻ Người thương mến, như người cha quở mắng đứa con
ông yêu dấu”(3,12).
b. Những lời
cảnh giác
- Cảnh giác trước đường lối của
kẻ vô đạo (2,12-15) từ tư tưởng đến lời nói: “Con sẽ bước đi trong đường kẻ lành, con sẽ giữ nẻo người công chính. Người
ngay chính sẽ ở trong xứ sở... còn phường gian ác sẽ bị tiễu trừ khỏi xứ sở”.
- Cảnh giác trước những phụ nữ
lăng loàn (5,1-18): “Môi miệng vợ người khác
tiết ra mật ngọt, và lời của nó trơn tru hơn dầu; nhưng rốt cuộc nó đắng hơn khổ
ngải và sắc như gươm hai lưỡi. Chân nó bước vào cõi chết, và bước đi đạt thấu
âm phủ; nó chẳng màng tới đường sự sống, lạc đường lạc lối nó nào có hay”.
3.
Chương 16-31
a. Châm ngôn của Sa-lô-môn (10,1 – 22,16)
Đây
là phần dài nhất trong sách Châm Ngôn, gồm 375 câu châm ngôn nói về mọi mặt của
đời sống. Những câu châm ngôn này được gán cho vua Sa-lô-môn. Những câu châm
ngôn liên quan đến cùng một đề tài không được sắp xếp thành một phần riêng
nhưng rải rác nhiều nơi. Tuy nhiên cũng có một số phần khá rõ: chương 10-15 chủ
yếu là những châm ngôn bàn về sự đối kháng giữa người công chính và kẻ tội lỗi.
Chương 16-22 có nhiều lời khuyên cụ thể về sự thành công. Những gợi ý tiếp theo
sẽ tập trung vào một vài đề tài đáng được quan tâm.
b. Thiên Chúa và sự khôn ngoan của con người
(16,1-15)
Những châm ngôn của Sa-lô-môn được ghi lại từ
chương 10-22, nhưng 15 câu đầu trong chương 16 (16,1-15) là trung tâm điểm. Những
câu này bàn đến mối tương quan giữa sự khôn ngoan nhân loại và Thiên Chúa.
Thiên Chúa điều khiển mọi khía cạnh của đời sống cũng như những tính toán của
con người.
- Câu 1 xác quyết chính Thiên
Chúa đóng vai trò quyết định: “Những mưu
tính lòng dạ là của con người, nhưng câu trả lời đến từ Giavê”.
- Câu 2 và 3 khai triển xác quyết
trên: chỉ khi nào để cho Thiên Chúa điều khiển thì dự định của con người mới
thành công: “Hãy phú cho Giavê mọi công
trình của ngươi, và mọi dự tính của ngươi sẽ được thực hiện”.
- Câu 5-8 liệt kê những thái độ
phải có: khiêm tốn thay vì kiêu ngạo, sống trung tín và tín nghĩa, lánh xa sự dữ
dù phải chịu thiệt thòi.
- Câu 9 tóm kết xác tín: “Lòng người suy tính về đường mình đi, nhưng
chính Giavê cho bước chân nên mạnh”.
-
Những câu châm ngôn này có ý nghĩa gì cho kinh nghiệm sống đức tin của
tôi?
c. Tầm quan trọng của lời nói (18,1-24)
Trong truyền thống trí thức của vùng Cận
Đông, lời nói đóng vai trò hết sức quan trọng. Lời nói vừa là khí cụ xây dựng lại
vừa là phương thế hủy diệt.. Trong phần Châm Ngôn của Sa-lô-môn, có khá nhiều
câu bàn về lời nói:
- Tai hại của những lời nói
“ngu xuẩn”: “Môi miệng người ngu xuẩn đưa
đến kiện tụng và miệng nó kêu gọi roi vọt”(18,6). “Miệng người ngu là sự đổ vỡ của nó và môi miệng nó là cạm bẫy cho mạng
sống của nó”(18,7). “Kẻ trả lời trước
khi nghe, chuốc lấy điên dại và thẹn thùng”(18,13). “Chết và sống đều do cái lưỡi. Những kẻ yêu mến nó sẽ được ăn hoa quả của
nó”(18,21).
- Khi được sử dụng đúng cách, lời
nói là sức mạnh của người khôn ngoan. Lời có thể thay đổi con người: “Người vứt bỏ lời sửa trị tự coi nhẹ mình, người
nghe lời quở mắng tích lũy thêm hiểu biết”(15,32). Lời có thể chữa lành: “Lời nói không suy xét đâm thủng như lưỡi kiếm,
những lưỡi người khôn ngoan làm lành vết thương”(12,18). Phải biết tự chế
trong lời nói: “Kẻ giữ miệng, giữ được sự
sống, người môi toác hoác đến chỗ diệt vong”(13,3). “Kẻ biết giữ miệng là người hiểu biết, người bình tĩnh là người thông hiểu”(17,28).
- Thánh Giacôbê Tông đồ cũng nhấn
mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của lời nói: “Ai không sa ngã trong lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kềm chế
toàn thân...Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi
mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng
một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa. Thưa anh em, như vậy
thì không được”(3,2-10).
Kết luận:
Sách Châm Ngôn được gán cho vua Sa-lô-môn.
Chắc chắn có nhiều câu châm ngôn trong Sách phát xuất từ vị vua nổi tiếng khôn
ngoan này; tuy nhiên Sách này đúng ra là một sưu tập nhiều giáo huấn và châm
ngôn từ nhiều thời đại. Như thế Sách này chứa đựng kho tàng minh triết của nhân
loại. Điều quan trọng là không chỉ đọc thoáng qua nhưng nên tập trung vào một lời
nào đó, rồi suy nghĩ và đối chiếu với kinh nghiệm đời sống của mình. Có như thế,
giáo huấn của Sách này mới thực sự mang lại ích lợi cho ta, không những về mặt
thiêng liêng mà ngay cả về mặt nhân bản cũng như trong những quan hệ xã hội hằng
ngày.
CUỐN SÁCH 25
SÁCH GIẢNG VIÊN (Gv)
1. Tổng quát
Trong bản dịch Hy Lạp,
sách này được gọi là sách Giáo sĩ (Ecclesiastes do từ Hy Lạp có nghĩa là Giáo
hội), còn bản Híp-ri gọi là sách Qoheleth và được dịch là Giảng Viên trong
tiếng Việt, vì Cô-he-lét có nghĩa là người nói với cộng đoàn. Tác giả sống vào
khoảng năm 300-200 trước Công nguyên. Ông là một giáo sư và tác phẩm được coi
như suy tư của một triết gia về cuộc sống với những hiểu biết và kinh nghiệm
từng trải của chính bản thân tác giả.
Xem
ra tác phẩm không có cấu trúc rõ rệt. Để có tầm nhìn tổng quát, Sách Giảng Viên
gồm 12 chương, có thể chia ra thành những phần chính:
- Phần đầu (1,1 –
3,15): những suy tư về cuộc sống như sự theo đuổi các mục tiêu để cuối cùng
khám phá thất vọng.
- Phần giữa (3,16 –
11,8): những ghi nhận về nhiều đề tài khác nhau, trong đó có nhiều câu châm
ngôn.
- Phần cuối (11,9 –
12,8): mang một cung giọng mới. Tác giả khuyến khích người trẻ vui sống. Nhưng
cuối cùng, ta sẽ đi tới đâu? Câu hỏi muôn thuở của trái tim con người.
- Phụ trương (12,9-12)
Chương |
Chương |
1. PHẦN THỨ NHẤT -
Lời tựa - Đời sống của vua Sa-lô-môn |
7. PHẦN THỨ HAI -
Lời tựa |
2. Đời sống của
vua Sa-lô-môn (tiếp) |
8. Số phận |
3. Cái chết |
9. Khôn ngoan và
ngu dại |
4. Đời sống tập thể |
10. Khôn ngoan và
ngu dại (tiếp) |
5. Tiền bạc |
11. Tuổi trẻ và tuổi
già |
6. Tiền bạc (tiếp) |
12. Lời kết |
2. Giáo huấn
Cô-he-lét
thời trẻ xem ra nuôi lý tưởng rất cao về công bằng và chính trực, thế nhưng
kinh nghiệm cuộc sống làm cho ông thất vọng: “Tôi lại còn thấy dưới ánh mặt trời: có sự gian ác ngay tại chốn pháp
đình, sự gian ác ngay tại nơi xét xử”(3,16). Tệ hơn nữa, càng lên bậc cao
trong xã hội, lại càng tệ hại hơn: “Nếu
trong một miền nào, bạn thấy người nghèo bị áp bức, luật pháp và công lý bị chà
đạp, thì chớ ngạc nhiên, bởi vì một người làm lớn còn có người lớn hơn canh
chừng, và cả hai lại có người lớn hơn nữa”(5,7).
Cô-he-lét
nhìn thấy những bất công trong xã hội nhưng ông lại không phải là một tiên tri
dám tố cáo bất công cho dù phải chết. Ngược lại ông có vẻ xu thời để sống: “Trong cuộc đời phù du của tôi, tôi đã thấy
hết cả: có người công chính bị tiêu vong dù đã sống công chính, có kẻ gian ác
lại được sống lâu dù làm điều gian ác. Đừng sống quá công chính, cũng chớ quá
khôn ngoan. Tại sao bạn lại huỷ diệt chính mình?”(7,15-16). Tuy nhiên ông
không tệ hại đến độ tìm mọi cách chỉ để tồn tại, mà khiêm tốn nhận ra sự thật
về thân phận hữu hạn của con người: “Sau
khi đã chú tâm tìm hiểu lẽ khôn ngoan, và quan sát công việc mà con người thực
hiện cả ngày lẫn đêm không chớp mắt trên mặt đất này, tôi nhận ra tất cả là
công việc Thiên Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được
thực hiện dưới ánh mặt trời, cho dù có ra công tìm kiếm cũng không khám phá
nổi, cho dù người khôn ngoan có nói là đã biết được, thì người ấy cũng không
thể khám phá ra”(8,16-17).
Nếu
so sánh với sách Gióp, sách Giảng Viên có một cung giọng khác. Ông Gióp cố gắng
sống đời tốt lành, và cứ theo giáo huấn truyền thống thì ông phải được hưởng
đời sống sung túc với gia đình êm ấm và mọi người kính trọng, nhưng thực tế lại
hoàn toàn trái ngược, và ông lên tiếng hỏi “tại sao?” Còn Cô-he-lét lại đau khổ
từ một góc độ khác. Ông đã đạt được mọi sự mà người đời mơ ước để rồi khám phá
“tất cả chỉ là phù vân”(1,2). Dòng
đời xem ra vẫn chảy theo nhịp của nó dù con người có làm gì chăng nữa. Sống và
chết, chiến tranh và hoà bình, yêu thương và thù hận, mọi sự vẫn diễn ra như
những điều không thể tránh được. Vậy cái gì ẩn sau những diễn biến này. Vấn đề
căn bản là chúng ta nhận rằng những diễn biến này phải có một ý nghĩa, nhưng
lại không tìm ra được ý nghĩa: “Làm lụng
vất vả thì được lợi lộc gì? Tôi nhìn thấy công việc mà Thiên Chúa giao cho con
người phải gắng sức làm. Thiên Chúa đã làm mọi sự hợp thời đúng lúc. Thiên Chúa
cũng ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế con người cũng không
thể nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử”(3,9-11).
Nói như thế không có nghĩa là không nên sống vì “chỉ những ai còn sống trong cõi dương gian mới có hy vọng mà thôi, vì
con chó sống thì hơn con sư tử chết”(9,4). Vì thế, “Cứ ăn cho vui vẻ, uống cho thoả thích, vì Thiên Chúa đã vui nhận những
việc bạn làm. Lúc nào cũng hãy ăn mặc cho sang, mái tóc luôn xức dầu thơm phức”(9,7-8).
Dẫu sao, tác phẩm vẫn kết thúc bằng cung giọng bi quan: “Và bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi
thở Người đã ban cho mình… Phù vân quả là phù vân. Tất cả mọi sự đều là phù vân”(12,7-8).
Tác giả không có câu trả lời về thế giới sau cuộc đời này. Chỉ nơi Con Thiên
Chúa làm người, ta mới gặp được lời đáp trả.
CUỐN SÁCH 26
SÁCH DIỄM CA (Dc)
1.
Tổng quát
a. Tại sao sách Diễm Ca lại có mặt trong bộ Thánh Kinh?
Không giống
với những Sách khác trong Thánh Kinh Cựu Ước, xem ra sách Diễm Ca không liên quan
gì đến lịch sử thánh, lề luật, giao ước hay các tiên tri. Thậm chí không nhắc đến
Thiên Chúa nữa. Chúng ta cũng không biết sách Diễm Ca được viết khi nào, ai viết,
và với mục đích gì! Vậy tại sao Sách này lại có mặt trong bộ Thánh Kinh? Ngay cả
Do thái giáo cũng tranh luận nhiều về vấn đề này. Đến năm 90 Trước Công nguyên,
mọi sự được ấn định khi rabbi Akiba đưa ra lý do: Sách này diễn tả cuộc hôn
nhân giữa Đức Chúa và Dân Người tuyển chọn. Đồng thời Sách này được trích đọc
trong lễ Vượt Qua hằng năm. Kitô giáo cũng chấp nhận như thế, tuy nhiên ít sử dụng
trong cử hành Phụng Vụ. Sau này một số đoạn được chọn để đọc vào các dịp lễ
kính Đức Maria.
b. Ý nghĩa sách Diễm Ca
Trong nhiều
thế kỷ, cả Do Thái giáo và Kitô giáo đều giải thích nội dung Sách này theo
nghĩa biểu tượng chứ không theo nghĩa thể lý và cảm xúc bình thường. Cuộc hôn
nhân giữa Đức Chúa và Ít-ra-en hoặc giữa Chúa Kitô và Hội Thánh được coi là chủ
đề chính của Sách. Đôi khi trong phụng vụ Kitô giáo, hình ảnh người thiếu nữ
trong Sách được hiểu về Đức Trinh nữ Maria. Trong các văn bản của các nhà thần
bí, mỗi linh hồn cũng khát khao được kết hợp với Chúa Kitô là người yêu của họ.
Giải thích theo nghĩa biểu tượng thế nào còn tùy cách hiểu các bài thơ trong Sách
như tỷ ngôn (allegory) hay dụ ngôn (parable). Giải thích theo tỷ ngôn thì từng
câu từng chi tiết đều phải mang một ý nghĩa thiêng liêng nào đó. Một số nhà phê
bình đề nghị giải thích như một dụ ngôn, nghĩa là toàn bộ câu chuyện (chứ không
phải từng câu) mang một ý nghĩa thiêng liêng cho đời sống của ta về mặt cá nhân
cũng như cộng đoàn. Sách Diễm Ca gồm có 8 chương:
Chương |
Chương |
1. Bài ca tuyệt diệu
của Sa-lô-môn – Nàng – Bài ca thứ nhất |
5. Bài ca thứ tư -
Đồng ca |
2. Bài ca thứ hai |
6. Bài ca thứ năm |
3. Bài ca thứ ba |
7. Đồng ca |
4. Chàng - Nàng |
8. Lời bạt – phụ
trương |
2. Sách Diễm Ca trong cử hành phụng
vụ
Đọc hai bản văn sau đây: - Dc 2,8-14 - Lc 1,39-45
Nếu
chỉ đọc Dc 2,8-14, ta chỉ gặp được ở đây một áng thơ tình vào loại tuyệt tác, với
những từ ngữ đầy tình tứ như bạn tình, người đẹp, linh dương, bồ câu; với ngôn
ngữ hình ảnh sống động “tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt đã xa lắm rồi…”
Nhưng nếu đọc bản văn Diễm ca cùng với trình thuật Luca về việc Mẹ Maria đi
thăm bà Ê-li-sa-bét, ta sẽ khám phá một tầng ý nghĩa mới thật sâu sắc và phong
phú về Ơn Cứu độ. “Hồi ấy, bà Maria vội
vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”(Lc 1,39). Sự
việc này xảy ra ngay sau biến cố Truyền tin; vì thế “Mẹ Maria vội vã lên đường”
là chính Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng thanh khiết của Mẹ đang vội vã lên
đường. Thiên Chúa lên đường đến thăm và đem Ơn Cứu độ đến cho nhân loại mà ở
đây Gioan tẩy giả trong lòng bà Ê-li-sa-bét là đại diện. Thế nên bước chân
Thiên Chúa quả là bước chân “chàng đang tới,
nhẩy nhót trên đồi, tung tăng trên núi”(Dc 2,8). Và tiếng gọi của Thiên
Chúa Cứu độ vang lên, “Dậy đi em, bạn
tình của anh; người đẹp của anh, hãy ra đây nào”(Dc 2,10); tiếng gọi làm oà
vỡ niềm vui khiến Gioan “nhẩy lên” trong bụng mẹ (Lc 1,41). Ơn Cứu độ đã đến, “tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt đã
xa lắm rồi. Sơn hà nở rộ hoa tươi, và mùa ca hát vang trời về đây”(Dc
2,11-12).
Trong ánh sáng của trình thuật thăm
viếng, bản văn Dc 2,8-14 trở thành bài thơ diễn tả nội dung thần học và kinh
nghiệm thần bí, mở đường cho các nhà thần bí như Gioan Thánh Giá sử dụng ngôn
ngữ thi ca và hình ảnh của tình yêu hôn nhân để diễn tả kinh nghiệm linh hồn kết
hợp với Thiên Chúa. Đồng thời, trình thuật thăm viếng không chỉ đơn thuần là
bài giảng về bác ái và phục vụ, dù là bài học rất tốt đẹp và cần thiết, nhưng
chuyển tải Tin Mừng Cứu độ muôn dân chờ đợi.
CUỐN SÁCH 27
SÁCH KHÔN NGOAN (Kn)
1. Tổng quát
Tựa đề nguyên thủy của
sách là Sách Khôn Ngoan của Sa-lô-môn nhưng các văn bản La tinh chỉ gọi đơn
giản là Sách Khôn Ngoan. Sa-lô-môn không bao giờ xuất hiện trong Sách như tác
giả nhưng đại từ “tôi” rõ ràng nhắc đến những hành động của Sa-lô-môn (chương
9). Dựa vào nội dung của Sách, các học giả suy đoán rằng tác giả của Sách là
một người Do thái đạo đức, trung thành với Lề luật, học thức cao, biết thi ca và
triết học Hy lạp. Sách Khôn Ngoan có lẽ đã được biên soạn vào giữa thế kỷ 1 tức
khoảng năm 50 trước Công nguyên. Nơi biên soạn có thể là Ai Cập vì tác giả quan
tâm nhiều đến những vấn đề liên quan đến Ai Cập.
Mục
đích của sách là nhằm củng cố đức tin của các độc giả Do thái. Một số độc giả
là những người đạo đức và tác giả khuyến khích họ giữ vững đức tin giữa những
xáo trộn của đời sống. Một số khác xem ra đã bị lung lay trước sức hấp dẫn của
triết học Hy lạp, và Sách Khôn Ngoan muốn nhắc họ nhớ lại vẻ đẹp của tôn giáo
và niềm tin truyền thống so sánh với niềm tin và tư tưởng của dân ngoại. Đối
với những người đã bỏ đạo, Sách Khôn Ngoan kêu gọi họ trở về với Chúa. Cuối
cùng có thể có độc giả là dân ngoại, Sách Khôn Ngoan chỉ cho họ thấy sự sai lầm
khi thờ phượng các ngẫu tượng.
Sách
Khôn Ngoan dạy ta rằng Thiên Chúa hoạt động khắp mọi nơi, biết hết mọi sự, và
yêu thương hết mọi loài. Thiên Chúa cũng trừng phạt và ban phần thuởng dù phần
thuởng ở đây không nhất thiết là của cải trần gian. Sự ác trong thế gian bắt
nguồn từ sự ghen tị của quỷ. Sự khôn ngoan gần như được đồng hoá với Thiên Chúa
vì phát xuất từ Thiên Chúa và thực hiện thánh ý Thiên Chúa trong thế giới. Theo
đuổi sự khôn ngoan là điều tốt đẹp nhất, và đạt đến khôn ngoan là được đến gần
Chúa hơn. Sách Khôn Ngoan cũng dạy rằng con người có linh hồn bất tử; sau khi
chết, người công chính sẽ được ở bên Chúa và các Thánh. Tuy nhiên tác giả không
nói về sự phục sinh thân xác. Sống công chính là con đường dẫn đến sự khôn
ngoan và con người có tự do chọn lựa Chúa hay điều ác.
Sách
Khôn Ngoan gồm có 19 chương chia ra ba phần chính:
- Khôn ngoan, phần
thuởng của công chính (1,1 – 6,21)
- Sa-lô-môn ca tụng sự
khôn ngoan (6,22 – 11,1)
- Sự quan phòng của
Chúa trong cuộc Xuất hành (11,2 – 19,22)
Chương |
Chương |
1. Tìm kiếm Thiên
Chúa và tránh xa tội lỗi |
10. ĐỨC KHÔN NGOAN
HOẠT ĐỘNG TRONG LỊCH SỬ - Từ ông A-đam tới ông Mô-sê - Cuộc xuất hành |
2. Tìm kiếm Thiên
Chúa và tránh xa tội lỗi (tiếp) |
11. Chúa nhẹ tay với
dân Ai-cập - Lý do khiến Chúa nương tay |
3. Số phận của những
người công chính và của phường vô đạo |
12. Chúa nhẹ tay với
Ca-na-an - Những bài học Chúa dạy cho Ít-ra-en - Lại nói về hình phạt Ai-cập |
4. Quân vô đạo trước
toà phán xét |
13. Kết án tội thờ
ngẫu tượng - Tôn thờ ngẫu tượng |
5. Người công
chính được vinh quang, quân vô đạo chịu hình phạt |
14. Tôn thờ ngẫu tượng
(tiếp) |
6. Bậc vua chúa phải
tìm kiếm Đức Khôn Ngoan - Đức Khôn Ngoan gặp gỡ con người |
15. Ít-ra-en không
thờ ngẫu tượng - Người Ai-cập điên rồ khi thờ ngẫu tượng khắp nơi |
7. Vua Sa-lô-môn
cũng chỉ là phàm nhân - Ca tụng Đức Khôn Ngoan |
16. Người Ai-cập
điên rồ khi thờ ngẫu tượng khắp nơi (tiếp) |
8. Ca tụng Đức
Khôn Ngoan (tiếp) |
17. Người Ai-cập
điên rồ khi thờ ngẫu tượng khắp nơi (tiếp) |
9. Lời cầu xin cho
được Đức Khôn Ngoan |
18. Đe doạ bị tận
diệt trong sa mạc |
|
19. Kết luận |
2. Lối sống của phường
vô đạo (1,16 – 2,24)
Câu
mở đầu (1,16) khẳng định gốc rễ của sự ác là chọn lựa của mỗi cá nhân. Phường
vô đạo ở đây có thể hiểu về Adam và Eva “đã lên tiếng vẫy tay mời thần chết,”
nhưng cũng có thể hiểu về con người tội lỗi nói chung. Những từ “bầu bạn, kết
giao” cho thấy sự gắn bó với cái ác và trở thành sở hữu của ma quỷ.
2,1-5 nói đến quan niệm
của phường vô đạo về cuộc sống và cái chết. Đối với họ, hiện hữu và cuộc sống
này chỉ là do tình cờ ngẫu nhiên chứ không do tình yêu của Thiên Chúa (câu
2-3), và chết là hết, không còn gì khác. Quan niệm này phản ánh một số tư tưởng
triết học thời đó, nhưng cũng là suy nghĩ của nhiều người ngày nay.
Quan niệm sống đó dẫn
đến lối sống buông thả (2,6-9) được mô tả bằng những từ cụ thể: hưởng lấy của
đời này, say rượu quý, truy hoan, dấu vết ăn chơi. Điều nguy hiểm nhất là lối
sống đó lại trở thành xác tín “đó chính
là phần, là số ta được hưởng”(câu 9). Đây chẳng phải là lối sống của nhiều
người ngày nay sao? Họ quên rằng cũng giống như mọi thực tại, khoái lạc phải có
giới hạn của nó; nếu không chính nó sẽ hủy diệt con người. Sự suy đồi của
phường vô đạo còn đi xa đến chỗ triệt hạ người công chính (2,10-20). Chúng
chống đối người khôn ngoan (gồm cả người già có kinh nghiệm khôn ngoan) và gạt
bỏ lề luật của Thiên Chúa đòi hỏi phải chăm sóc người nghèo khổ và kẻ mồ côi.
Câu 12-16 cho thấy động lực tâm lý sâu xa của phường vô đạo khi triệt hạ người
công chính, đó là triệt hạ tiếng lương tâm, tiếng nói của chân lý, tiếng nói
phê phán và tra vấn lối sống tội lỗi của họ. Phải triệt hạ người công chính để
có thể an tâm vui hưởng lối sống tội lỗi của mình.
Câu 17-20 nói đến việc
quân vô đạo thử thách người công chính xem có đủ kiên trì trung thành với Chúa
không. Khi thử thách như thế, chúng tự đặt mình thành đối thủ của Chúa vì chúng
lý luận “Nếu tên công chính là con Thiên
Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ nó và cứu nó khỏi tay địch thù”(2,18). Các Kitô
hữu đọc những lời này và nghĩ đến Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn của Ngài. Trong
phần cuối (2,21-24), tác giả lên tiếng phê phán quan niệm và lối sống của
phường vô đạo. Chúng hành động như thế không chỉ vì ngu dốt mà còn vì đã liên
kết với quỷ dữ (1,16). Chúng không biết rằng con người đã được tạo dựng theo
hình ảnh Chúa, và vì Thiên Chúa là Đấng bất diệt nên con người cũng được trường
tồn bất diệt. Nhưng chỉ vì quỷ dữ ganh tị nên cái chết mới đột nhập vào trần
gian. Ở đây tác giả không phân biệt rõ ràng cái chết thể lý và cái chết thiêng
liêng.
Những suy tư này được
viết cách đây 22 thế kỷ nhưng vẫn mang tính thời sự cụ thể cho con người ngày
nay, giúp ta cảnh giác trước những lý lẽ và lối sống được gọi là hiện đại nhưng
không thực sự mang lại hạnh phúc và sự sống viên mãn cho con người.
3. Tìm kiếm khôn ngoan (6,1-21)
Phần
mở đầu (câu 1-4) kêu gọi mọi người đang nắm quyền lực trên trái đất. Điều họ
phải lắng nghe và thấu hiểu là công việc của họ nằm dưới sự kiểm tra của Thiên
Chúa, vì thế họ phải hành xử quyền bính cách công bằng. Cũng như Thiên Chúa đã
ban quyền bính cho Đavít và các vua, tác giả khẳng định rằng chính Chúa là
nguồn mọi quyền bính của vua chúa. Tư tưởng này được xây dựng trên niềm xác tín
vào Thiên Chúa là Chủ của lịch sử, là quan điểm được nhấn mạnh rất nhiều trong
Thánh Kinh. Tác giả nhắc lại điều này để cảnh giác những người ngạo mạn, tự coi
mình như độc lập hoàn toàn với Thiên Chúa.
Câu
5-8 mô tả án xử của Thiên Chúa. Người không phân biệt sang hèn. Người phận nhỏ
còn được thương tình miễn thứ, còn kẻ quyền thế sẽ bị Chúa tra vấn nghiêm ngặt.
Đây là cách nhìn khác hẳn với quan điểm quen thuộc của người đời, chỉ đánh giá
con người dựa trên sở hữu (quyền lực, tiền bạc...), và coi khinh những người
nghèo khổ, cô thân cô thế. Chính vì thế, những người nắm quyền bính cần phải
học lẽ khôn ngoan, tức là học sống công chính. Đây cũng là điều khá xa lạ với những
người có quyền lực trong xã hội ở mọi nơi mọi thời, vì họ thường tìm cách đạt
quyền lực nhờ mánh khoé và thủ đoạn, đồng thời duy trì quyền lực cũng bằng
những thủ đoạn độc ác. Giáo huấn của Sách Khôn Ngoan vẫn là những bài học mang
tính thời sự cho chúng ta.
Các
câu 12-21 mô tả những đặc tính của khôn ngoan và hành trình tìm kiếm khôn
ngoan.
- Khôn ngoan là điều dễ tìm (câu 12). Như thế
nếu kẻ ngu si và vô đạo không gặp được là vì họ không muốn, họ chỉ tìm kiếm
những điều độc ác.
- Khôn ngoan sẽ có mặt
khi ta tìm kiếm (câu 13-14). Kẻ ngu si và vô đạo đã không gặp được khôn ngoan
“ngồi ngay trước cửa nhà” vì họ không chịu tìm kiếm.
- Hành trình tìm kiếm khôn ngoan được tác
giả mô tả: ham muốn học hỏi – yêu mến – tuân giữ Lề luật – trường sinh bất tử.
Người môn đệ của Chúa Giêsu có thể học được ở đây con đường theo Thầy Chí thánh
là “sự khôn ngoan của Thiên Chúa”. Con đường theo Chúa cũng được dệt bằng niềm
khao khát, tình yêu, tuân giữ Lời Chúa, và nên đồng hình đồng dạng với Chúa.
4. Sự quan phòng của
Thiên Chúa trong cuộc xuất hành (11,2 – 19,22)
Đây
là phần thứ ba trong sách Khôn Ngoan và mục đích của phần này là muốn chứng
minh sự khôn ngoan đã bảo vệ dân Ít-ra-en như thế nào trong cuộc xuất hành. Tác
giả đã làm việc này bằng cách nêu ra những tương phản, cho thấy những sự vật
Chúa dùng để phạt quân thù lại là những sự vật mang điều lành đến cho Dân Chúa.
Ví dụ thứ nhất là nước
(11,6-14). Thiên Chúa đã trừng phạt người Ai Cập bằng thứ nước ô uế (Xh
7,17-24) và đã nuôi sống dân Ít-ra-en bằng nước thanh khiết (Xh 17,5-7). Nếu Thiên
Chúa có trừng phạt Ít-ra-en thì đó là sự trừng phạt mang tính giáo dục của
người cha dành cho con cái.
Ví
dụ thứ hai là các loài vật, được nhắc đến trong ba đoạn khác nhau (Xh 11,15-16;
12,23-27; 15,18 – 16,15). Người Ai cập bị coi là ngu muội vì đã tôn thờ các
loài vật vô tri, vì thế Thiên Chúa đã dùng chính các loài vật đó như rắn rết,
cóc nhái, mà trừng phạt họ. Trong khi đó các loài vật lại trở thành phúc lành
cho dân Ít-ra-en, ví dụ chim cút đã thành của ăn cho họ trong hành trình sa
mạc, rắn đồng chữa lành cho dân chúng. Tuy nhiên tác giả nhấn mạnh họ được cứu
không phải do rắn đồng, nhưng “do chính
Ngài, Đấng Cứu độ muôn người hết thảy”.
Ví dụ thứ ba là man-na
(16,16-29). Thiên Chúa trừng phạt Ai cập bằng mưa đá và lửa, tức là hai yếu tố
đối nghịch nhau nhưng lại cùng hoạt động theo ý Thiên Chúa (Xh 9,22-26). Trong
khi đó, Chúa lại ban man-na nuôi dân, và man-na được mô tả là “như băng tuyết,
chịu được lửa hồng mà không tan chảy”.
Ví dụ thứ tư là bóng
tối và cột lửa (17,1 – 18,4). Khi nói đến bóng tối như sự trừng phạt người Ai
cập, tác giả nhấn mạnh ý nghĩa luân lý hơn là thể lý (các câu 2-21). Trong khi
đó, Thiên Chúa lại ban cho Ít-ra-en cột lửa làm hướng đạo trên con đường xa lạ,
làm vầng ô dịu hiền trong cuộc di dân (18,3).
Ví dụ thứ năm là đêm
thảm sầu và đêm giải thoát (18,5 – 19,21). Trong đêm Vượt qua, con đầu lòng
trong các gia đình Ai cập bị giết chết nhưng con đầu lòng dân Ít-ra-en lại được
cứu sống. Đêm đó là đêm kinh hoàng cho người Ai cập nhưng lại là đêm giải thoát
cho dân Ít-ra-en (19,1-21).
Tất cả những so sánh
trên nhằm tôn vinh sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho dân Ít-ra-en.
Bài học mà tác giả muốn mọi người quan tâm là hãy đọc lại lịch sử Ít-ra-en để
khám phá sự dẫn dắt khôn ngoan của Chúa và gắn bó với Chúa, đó chính là lối
sống khôn ngoan. Đọc lại lịch sử để khám phá sự hiện diện đầy yêu thương của
Thiên Chúa vẫn là một trong những cách thế hữu hiệu giúp ta sống đức tin. Có
thể nói đây cũng là một trong những nền tảng cho phương pháp được gọi là Kinh
nguyện hồi tưởng. Phương pháp này mời gọi ta cầu nguyện bằng cách nhìn lại
chính đời mình để nhớ lại những khoảnh khắc đặc biệt ở đó ta cảm nhận sự hiện
diện của Chúa cách rõ nét, nhớ lại những con người đã ghi dấu ấn sâu đậm trong
đời ta, nhớ lại những biến cố lớn trong cuộc đời, nhớ lại cả những thương tích
in sâu trong tâm hồn. Tất cả nhằm mục đích giúp ta cảm nhận rõ ràng sự hiện
diện đầy yêu thương của Chúa trong cuộc đời mình, nhờ đó ta đến với Chúa không
chỉ bằng những suy nghĩ trừu tượng của trí khôn nhưng với cả con người của
mình.
5. Những ngẫu tượng
(13,1 – 15,17)
Xen
lẫn những suy tư về sự quan phòng của Thiên Chúa, sách Khôn Ngoan nói khá nhiều
về việc thờ ngẫu tượng, đáng cho ta quan tâm. Chủ đề này được chia thành hai
phần, một là việc thờ phượng thiên nhiên (13,1-9), và hai là việc thờ ngẫu
tượng (13,10 – 15,17). Trong phần nói về thờ phượng thiên nhiên, tác giả phê
phán “những kẻ ngu si” vì họ thờ phượng những sự vật trong thiên nhiên như lửa
và gió, tinh tú và bầu trời, sông nước hay mặt trời mặt trăng... mà không khám
phá ra chính Đấng đã làm nên vạn sự, “Nếu
chúng có đủ khả năng hiểu biết để có thể nghiên cứu các sự vật trên đời, thì
sao lại không sớm nhận ra Đấng chủ tể của những sự vật đó”(13,9). Những phê
phán này nhắc ta nhớ lại điều thánh Phaolô đã nói trong Rm 1,18-25, và giáo
huấn của Hội Thánh về việc lý trí con người có thể nhận ra Đấng Tạo hoá qua
những kỳ công Người thực hiện.
Ngoài
việc thờ phượng thiên nhiên, còn có thứ thờ phượng tệ hại hơn nhiều, đó là thờ
phượng những sản phẩm do chính tay con người làm ra (13,11 – 14,11; 15,7-13).
Ông thợ mộc hay anh thợ gốm tạc nặn những tượng thần. Rõ ràng là sản phẩm do
tay con người làm ra. Tác giả còn phê phán cách cay độc rằng tượng thần đó được
làm từ một mẩu gỗ chẳng còn dùng vào được việc gì vì đầy máu đầy mắt (13,13)!
Thế nhưng sản phẩm đó lại được con người thờ lạy và khấn xin những điều mà ngẫu
tượng đó hoàn toàn không thể đáp ứng, “Với
vật không hồn, anh xin sự sống; với vật không kinh nghiệm, anh xin sự giúp đỡ;
với vật không đi được nửa bước, anh xin thượng lộ bình an”(13,18). Thật là
ngu xuẩn và điên rồ.
Cùng với những lời phê
phán việc thờ ngẫu tượng, tác giả đưa ra những suy tư và phân tích sâu sắc về
nguồn gốc và hậu quả của việc thờ ngẫu tượng (14,12 – 15,6). Tác giả nhắc đến
hai nguồn gốc dẫn đến chỗ thờ ngẫu tượng: người cha mất con nên nặn hình tượng
con rồi tôn kính như thần thánh và bắt mọi người phải làm theo (14,12-15); tạc
hình tượng những nhà cai trị ở xa rồi cổ võ việc thờ kính ông ta (14,17-20).
Hậu quả là một hiểu biết hoàn toàn sai lạc về Thiên Chúa (14,22), và một khi
không hiểu biết và tôn thờ Thiên Chúa đích thực, con người để cho mình sa vào
sự lôi cuốn của dục vọng với đủ thứ tội ác (14,23-26).
Những suy tư này vẫn
còn nguyên giá trị cho cuộc sống con người hôm nay. Trong một thời đại phát
triển khoa học kỹ thuật cao như ngày nay, con người không còn thần thánh hoá
những sự vật trong thiên nhiên (dù vẫn có một số hình thức mê tín đị đoan). Thế
nhưng nhiều người ngày nay lại có khuynh hướng thần thánh hoá những con người
bằng xương bằng thịt, ví dụ một nhà lãnh đạo nào đó hoặc một siêu sao điện ảnh!
Bên cạnh đó người ta tôn thờ quyền lực và tiền bạc, vốn chỉ là sản phẩm do tay
con người làm ra, mà bỏ quên Thiên Chúa Tạo Hoá. Rồi người ta kiếm tìm những
nghi lễ huyền bí, những cuộc lễ man rợ (14,23) đến độ thờ cả Satan. Nghĩ cho
cùng, tất cả cũng đều phát xuất từ chỗ con người không nhận biết và thờ phượng
Thiên Chúa đích thực, rơi vào sự trống rỗng trầm trọng về mặt tinh thần, và cố
gắng tìm những thứ bên ngoài để lấp đầy.
Cùng với tác giả sách
Khôn Ngoan, người Kitô hữu tuyên xưng rằng, “Lạy Thiên Chúa chúng con, Ngài tốt lành, chân thật và kiên nhẫn, lấy
lòng thương xót mà cai quản muôn loài.... Nhận biết Chúa tường tận là đạt được
công chính hoàn hảo, nhìn nhận quyền năng Chúa là đạt được nguồn ơn bất tử”(15,1-3).
CUỐN SÁCH 28
SÁCH HUẤN CA
I. TỔNG QUÁT
1. Tác giả
Phần Lời Tựa nhắc đến tên
tác giả là Giêsu, nhưng tên đầy đủ là: “Giêsu,
con ông Xi-ra, cháu ông E-la-da”(50,27). Dù biết tên tác giả, ta cũng không
rõ lắm về con người của ông, chỉ có thể suy luận từ chính tác phẩm: Ông là
người sống đời gia đình, dành thời gian cho việc nghiên cứu và viết lách, có
tiếng tăm trong xã hôi. Xem ra ông phê phán giai cấp thượng lưu trong xã hội và
tuy không phải là tư tế, ông quan tâm nhiều đến phụng tự.
2.
Ngày và nơi biên soạn
Các
học giả cho rằng tác giả đã biên soạn Sách này vào khoảng năm 180 trước Công
nguyên. Về nơi chốn, có người cho là Giêrusalem bởi vì đó là trung tâm văn hóa,
tôn giáo cũng như giáo dục. Tuy nhiên có người cho là Alexandria cũng là trung
tâm văn hóa và tôn giáo Do thái.
3. Giáo huấn
Vì
Sách Huấn ca khá dài và phức tạp nên cần thấy những chủ điểm của tác giả. Đối
với tác giả Thiên Chúa là tất cả, là Thiên Chúa duy nhất, Đấng tạo dựng mọi sự
và đưa mọi sự vào trật tự. Thiên Chúa là nguồn mạch thiện hảo, Ngài hành động
cách công bằng nhưng cũng tha thứ tội lỗi. Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử
và ký kết giao ước đặc biệt với Ít-ra-en. Theo ông, sự sống vẫn tiếp diễn cách
nào đó sau khi chết, nhưng phán xét sẽ xảy ra ngay khi con người chết chứ không
đợi đến sau khi chết.
Theo ông, chu toàn luật
Môsê chính là sự khôn ngoan lớn nhất. Ông quan tâm đặc biết đến luật phụng tự
đến nỗi có thể nói linh đạo của ông là linh đạo mang tính phụng vụ. Khôn ngoan
không chỉ là kiến thức mà còn cuộc sống, sống theo Lề Luật. Người nào sống công
chính theo Lề Luật sẽ được thưởng, còn kẻ nào lỗi sẽ trừng phạt.
Một trong những điều gây
khó chịu cho nhiều người là giáo huấn của tác giả về phụ nữ (x.9,1-9). Tuy
nhiên cần đặt mình vào bối cảnh lịch và văn hóa của thời đại đó để hiểu được ý
hướng của tác giả. Sách Huấn Ca gồm có 51 chương:
Chương |
Chương |
1. TUYỂN TẬP CÁC
CHÂM NGÔN - Nguồn gốc khôn ngoan - Lòng kính sợ Thiên Chúa - Khôn ngoan và
ngay thẳng |
26. Việc buôn bán |
2. Kính sợ Đức
Chúa trong thử thách gian truân |
27. Lời nói - Sự
công chính - Giả hình |
3. Nghĩa vụ đối với
cha mẹ - Khiêm tốn - Kiêu ngạo |
28. Thù hận - Cãi cọ
- Cái lưỡi |
4. Khôn ngoan là
nhà giáo dục - E lệ và cả nể |
29. Cho vay mượn -
Bố thí - Ăn nhờ ở đậu |
5. Giàu sang và tự
đắc - Cương quyết và tự chủ |
30. Giáo dục - Sức
khoẻ - Niềm vui |
6. Tình bạn - Học tập
khôn ngoan |
31. Của cải - Tiệc
tùng - Rượu |
7. Một số lời
khuyên - Con cái - Cha mẹ - Các tư tế - Những kẻ nghèo và người đau khổ |
32. Tiệc tùng - Về
nhà ngay, chớ có la cà - Kính sợ Thiên Chúa |
8. Thận trọng thì
suy đi nghĩ lại - Truyền thống - Cẩn thận |
33. Hoàn cảnh chênh
lệch - Sống tự lập |
9. Đàn bà con gái
- Đối xử với người ta |
34. Mộng mơ - Một
ngày đàng, một sàng khôn - Các hy lễ |
10. Việc cai trị -
Những người đáng trọng - Đức khiêm nhường
và lòng chân thật |
35. Lề Luật và hy lễ
- Thiên Chúa công minh |
11. Đừng xem mặt bắt
hình dong - Cân nhắc và đắn đo - Coi chừng người gian ác |
36. Cầu cho
Ít-ra-en được giải thoát và phục hưng |
12. Làm ơn làm phúc |
37. Bạn bè giả dối
- Cố vấn |
13. Với đồng trang
đồng lứa |
38. Nghề thuốc và bệnh
tật - Tang chế - Công việc tay chân |
14. Hạnh phúc thật |
39. Kinh sư |
15. Tự do của con
người |
40. Kiếp người khốn
khổ - Một số ngạn ngữ |
16. Kẻ gian ác bị
nguyền rủa |
41. Chết - Số phận
phường gian ác |
17. Thiên Chúa là
thẩm phán - Kêu gọi sám hối |
42. VINH QUANG CỦA
THIÊN CHÚA – Trong thiên nhiên |
18. Thiên Chúa cao
cả - Con người chẳng là gì - Suy nghĩ và tiên liệu - Tự chủ |
43. Mặt trời - Mặt
trăng - Cầu vồng |
19. Chống thói ba
hoa - Kiểm chứng điều nghe nói - Khôn ngoan thật, khôn ngoan giả |
44. Trong lịch sử:
Ca
ngợi các bậc tổ tiên - Ông Kha-nốc - Ông Nô-ê |
20. Nên nói hay làm
thinh - Những điều nghịch lý - Người như vậy thật đáng ghét - Tránh ăn nói vụng
về - Gian dối - Về sự khôn ngoan |
45. Ông Mô-sê - Ông
A-ha-ron |
21. Các thứ tội - Người
khôn kẻ dại |
46. Ông Giô-suê -
Ông Ca-lếp - Các thủ lãnh - Ông Sa-mu-en |
22. Kẻ lười biếng -
Những đứa con hư - Khôn ngoan và ngu dại - Tình bạn - Cảnh giác |
47. Ngôn sứ Na-than
- Vua Đa-vít - Vua Sa-lô-môn - Vua Rơ-kháp-am |
23. Những lời nói
khiếm nhã - Người đàn bà ngoại tình |
48. Ngôn sứ Ê-li-a -
Ngôn sứ Ê-li-sa - Vua Khít-ki-gia - Ngôn sứ I-sai-a |
24. Diễn từ của Đức
Khôn Ngoan - Đức Khôn Ngoan và Lề Luật |
49. Vua Giô-si-gia -
Các vua và các ngôn sứ cuối cùng - Ông Dơ-rúp-ba-ven và ông Giê-su-a - Ông
Nơ-khe-mi-a - Ông Kha-nốc - Các tổ phụ đầu tiên |
25. Châm ngôn - Người
già - Những điều hạnh phúc - Đàn bà |
50. Thượng tế
Si-môn - Lời cầu chúc - Chống lại ba dân tộc - Kết luận |
|
51. Thánh thi tạ ơn
- Thánh thi: Tìm đức khôn ngoan |
II. CA TỤNG SỰ KHÔN NGOAN (1,1-29)
1. Nguồn gốc và đặc tính
của khôn ngoan (1,1-8)
Tác giả đặt những câu hỏi
tự nhiên (câu 2,3) để chỉ cho thấy khôn ngoan bắt nguồn từ Thiên Chúa: được ẩn
dấu nơi Chúa (c.5), được Chúa tạo nên (c.7)
2. Khôn ngoan là kính sợ Chúa (1,9-18)
Kính
sợ không phải là sợ hãi của kẻ nô lệ nhưng là tôn kính, sùng mộ, khâm phục
trước sợ hiện diện của Thiên Chúa. Kính sợ vừa là khởi đầu vừa là tuyệt đỉnh và
viên mãn của sự khôn ngoan. Vì thế, kính sợ Thiên Chúa đem lại niềm vui cho tâm
hồn và sự an khang trường thọ. Tác giả dùng cây cối để diễn tả: “Gốc rễ khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, cành
là của khôn ngoan là cuộc đời trường thọ” (1,20).
3. Những dấu hiệu của khôn ngoan
(1,19-29)
Khôn
ngoan là người kiên nhẫn và tự chủ: kiên nhẫn chờ đợi thời điểm của Chúa, tự
chủ vì giận dữ chỉ dẫn đến đỗ vỡ. Người khôn ngoan còn là người ngay thẳng,
sống theo Lề Luật: “Nếu con mộ mến khôn
ngoan thì hãy tuân giữ các điều răn”(c.26). Cũng vì thế, khôn ngoan không
chấp nhận sự tráo trở và giả hình (câu 28,29).
III. NHỮNG LỜI KHUYẾN DỤ CỤ THỂ
(10,6-11,28)
- 10,6-18: cội nguồn của kiêu ngạo là xa
lìa Thiên Chúa, chỉ biết đến bản thân, khinh thường trật tự Thiên Chúa đã thiết
lập, do đó là thứ tôn thờ ngẫu tượng tệ hại nhất.
- 10,19-26: giá trị của con người không
hệ tại ở vị trí xã hội nhưng bắt nuồn từ sự kính sợ Thiên Chúa.
- 10:27-11,1: Giai cấp thượng lưu thường
khinh khi kẻ nghèo hèn như tác giả khẳng định: “Người hèn mọn mà khôn ngoan có thể ngẩng đầu”.
- 11,2-6: tác giả mượn hình ảnh con ong
để khuyên nhủ học trò đừng nên đánh giá con người chỉ dựa vào vẻ bên ngoài.
- 11,7-9: giữ mức trung dung là lời
khuyên quen thuộc của người xưa, không bất cập cũng không thái quá, phải cân
nhắc và đắn đo trước mỗi hành động.
- 11,10-13: vì Thiên Chúa là nguồn mọi
thành công cho nên tín thác vào một mình Thiên Chúa.
- 11,14-19: sự thất bại của những người
giàu có và kiêu căng là ở chỗ họ quên rằng chính Thiên Chúa là Đấng điều hành
mọi sự.
- 11,20-28: hãy ở đúng vị trí mà Chúa đã
trao cho và chu toàn công việc bổn phận của mình: “Trong ngày mệnh chung, trả cho con người theo lối họ đã sống, đối với
Đức Chúa là chuyện thật dễ dàng”.
VI. THIÊN CHÚA TỎ MÌNH QUA THIÊN NHIÊN
VÀ TRONG LỊCH SỬ (42,15 – 50,29)
1. Ca tụng Chúa
a) Ca tụng Chúa trong thiên nhiên (42,15
– 43,35)
Tác giả nói đến nguồn gốc những công
trình của Thiên Chúa: “Do lời Đức Chúa mà
có những công trình của Người”(42,15), đồng thời con người không thể kể hết
mọi kỳ công của Chúa (42,17). Ông liệt kê những kỳ công của Chúa: bầu trời và
mặt trời (43,1-5), các hiện tượng trên trời (43,6-12), thời tiết (43,13-23),
biển cả (43,24-26). Câu kết “Người là tất
cả”(43,27) không có ý diễn tả niềm tin phiếm thần nhưng muốn nói lên tâm
tình của tác giả: chiêm ngưỡng kỳ công của Chúa dẫn ta đến tâm tình chúc tụng,
ngợi khen “Làm sao đủ sức để tôn vinh
Người? Vì chính Người là Đấng Cao cả, vượt trên mọi công trình Người thực hiện”(42,28).
b) Ca tụng Chúa trong lịch sử (44,1 – 50,29)
Trong phần này, tác giả chúc tụng Chúa
vì những việc vĩ đại Chúa đã làm trong lịch sử Ít-ra-en bằng cách kể ra những
nhân vật và thời đại cụ thể. Ở đây ta không có một bản tóm lược lịch sử theo
nghĩa các biến cố đan kết chặt chẽ với nhau. Tác giả có thể bỏ qua một số chi
tiết và đôi khi sắp xếp lại. Cấu trúc của phần này:
Dẫn nhập (44,1-15).
Các tổ phụ (44,16-23).
Môsê, A-ha-ron, Phin-khát (45,1-26).
Giô-suê, Ca-lếp, Các thẩm phán, Sa-mu-en
(46,1-20).
Na-than, Đavít, Sa-lô-môn (47,1-24).
E-li-a và E-li-sê (47,25 – 48,16).
Khít-ki-gia và I-sai-a (48,17-23).
Giô-si-gia và các tiên tri (49,1-10).
Các vị anh hùng sau thời lưu đày
(49,11-13).
Các vị anh hùng trước lụt Hồng thủy
(49,14-16).
Si-môn (50,1-24).
Kết thúc (50,27-29).
2. Nhận biết Thiên Chúa qua thiên nhiên và trong lịch sử
Thánh Phaolô khẳng định, “Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa
thì thật là hiển nhiên trước mắt họ… Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn
thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người,
thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy
được qua những công trình của Người”(Rm 1,19-20). Thánh Augustino cũng viết
những suy tư thật sâu sắc, “Hãy hỏi vẻ
đẹp của trái đất, của biển khơi, của khí trời và bầu trời… hãy hỏi tất cả những
thực tại ấy. Tất cả sẽ trả lời bạn: ‘Hãy xem đó, chúng tôi quả là đẹp.’ Vẻ đẹp
của chúng là một lời tuyên xưng. Ai đã làm ra những cảnh đẹp thiên biến vạn hoá
đó nếu không phải là Đấng Toàn mỹ không bao giờ đổi thay” (Thánh Augustino,
Bài giảng 241,2).
Có bao giờ bạn dâng lời chúc tụng ngợi
khen Chúa khi chiêm ngắm thiên nhiên? Có bao giờ bạn giúp con cái mình cầu
nguyện giữa lòng thiên nhiên? Có bao giờ bạn cầu nguyện bằng cách nhìn lại
chính lịch sử đời mình?
V. GIÁO DỤC CON CÁI (30,1-13)
1. Một quan điểm về giáo
dục
Muốn giáo dục con cái nên người, phải biết áp dụng kỷ luật: “Thương con thì cho roi cho vọt, sau này sẽ
vui sướng vì con”(30,1) và “Khi con
còn bé nhỏ, cứ thẳng tay trừng phạt; kẻo nó ra bất trị, chẳng vâng lời nữa đâu”(30,12).
Ngược lại, quá nuông chiều sẽ làm cho con cái ra hư hỏng, làm hỏng cuộc đời nó
và làm khổ cha mẹ (30,7-11). Giáo dục con cái thành công đem lại niềm vui cho
cha mẹ trong cuộc đời tại thế và cả cuộc sống mai sau: “Người cha có chết thì cũng như chưa chết, vì đã để lại đứa con giống
như mình”(30,4). Ở đây chưa phải là niềm tin vào sự sống lại, chỉ là sự tồn
tại nơi hậu duệ của mình.
2. Vai trò của kỷ luật trong việc giáo dục con cái
Kỷ luật là đòi hỏi cần thiết trong mọi
việc tập luyện: thể thao, sắc đẹp, tri thức. Đối với đời sống thiêng liêng cũng
thế, cần có kỷ luật trong việc tập luyện các nhân đức, hình thành những thói
quen tốt. Điều nghịch lý ngày nay là người ta nhìn nhận tầm quan trọng và tuân
thủ kỹ càng những kỷ luật trong việc tập luyện thân xác và tri thức, nhưng lại
cho những kỷ luật trong đời sống đạo đức là cổ hủ và không hợp thời.
Muốn giáo dục con cái nên người, cũng
cần áp dụng kỷ luật. Nhiều bậc cha mẹ nhân danh tình yêu để nuông chiều con cái
quá mức, không biết rằng làm như thế chỉ mang lại đau khổ cho con cái và cho
chính mình. Tình yêu chân thật là nỗ lực đem lại cho con cái những điều tốt đẹp
và vững bền nhất. Tình yêu đó thúc đẩy các bậc cha mẹ phải lo cho con cái được
một nền giáo dục toàn diện. Chính ở đây, ta thấy được sự cần thiết của kỷ luật.
Đồng thời, phải nhìn và áp dụng kỷ luật từ góc độ của tình yêu chân thật, khi
đó ta mới có thể giúp con cái thấy giá trị tích cực của kỷ luật trong đời sống
của chúng.
CUỐN SÁCH 29
SÁCH I-SAI-A ĐỆ NHẤT (Is)
Bối cảnh Sách
I-sai-a: Từ năm 740 trở đi, Át-sua trỗi dậy ở phương bắc và khởi đầu công cuộc
chinh phục. Tất cả các dân vùng Trung Đông cố gắng kháng cự, được Ai-cập là thế
lực hùng mạnh khác khích lệ. Trong cuộc tranh chấp này, vương quốc Ít-ra-en,
vương quốc phía bắc sẽ bị diệt vong. Thủ đô là Sa-ma-ri sẽ thất thủ và cư dân bị
lưu đày năm 720. Năm 736 Ít-ra-en và các nước A-ram láng giêng cố gắng buộc
vương quốc Giuđa liên minh với họ để chống lại Át-sua. Thế là A-khát, vua
Giêrusalem kêu cứu quân đội Át-sua, mặc dù có lời cảnh cáo của ông I-sai-a. Quân
Át-sua sẽ tàn phá Ít-ra-en và A-ram, nhưng chúng sẽ không cướp phá Giuđa. Vào
nhưng năm 761-791, Xan-khê-ríp, vua Át-sua đến bắt Giuđa phải khuất phục. Được
ông I-sai-a khích lệ, vua Khít-ki-gia kháng cự lại địch thù, và chúng ta mục
kích cuộc giải phóng Giêrusalem lẫy lừng kỳ diệu. Sách ông I-sai-a và các môn đệ ông để lại là
tác phẩm quan trọng nhất trong tất cả các sách Ngôn Sứ, được Đức Giêsu và các
Tông Đồ của Người thường trích dẫn. Sách I-sai-a được chia ra làm ba phần:
- I-sai-a đệ
nhất (chương 1-39): Các lời sấm của I-sai-a
- I-sai-a đệ
nhị (chương 40-55): Thu nhập các lời sấm của các ngôn sứ khác, được viết 150
năm sau
- I-sai-a đệ
tam (chương 56-66). I-sai-a đệ nhị và đệ tam được viết vào cuối thế kỷ VI trước
Chúa Giáng sinh, nghĩa là sau thời ngôn sứ I-sai-a đến hai trăm năm (Sách I-sai-a, Dẫn nhập Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).
SÁCH I-SAI-A ĐỆ
NHẤT |
|
Chương |
Chương |
1. SẤM NGÔ - Nhan
đề - Hạch tội quân giả hình - Than vãn về Giê-ru-sa-lem - Hạch bọn thờ cây
thánh vườn thiêng |
21. Ba-by-lon
(Ba-ben) sụp đổ - Lời sấm về Ê-đôm |
2. Hoà bình vĩnh cửu
- Oai phong của ĐỨC CHÚA |
22. Chống những trò
vui nhộn tại Giê-ru-sa-lem - Chống Sép-na |
3. Cảnh hỗn loạn tại
Giê-ru-sa-lem - Phụ nữ Giê-ru-sa-lem - Nỗi khốn khổ của Giê-ru-sa-lem |
23. Chống lại Tia |
4. Chồi non của ĐỨC
CHÚA - |
24. KHẢI HUYỀN - ĐỨC
CHÚA phán xét - Bài ca về thành bị phá |
5. Bài ca vườn nho
- Các lời nguyền rủa - Cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA - Kêu gọi kẻ xâm lăng |
25. Thánh thi tạ ơn
- Tiệc cánh chung |
6. SÁCH ĐỨC
EM-MA-NU-EN - ĐỨC CHÚA kêu gọi ông I-sai-a |
26. Thánh thi tạ ơn
- Thánh vịnh |
7. Ngôn sứ I-sai-a
can thiệp lần đầu tiên - Báo trước cuộc xâm lăng |
27. Vườn nho của ĐỨC
CHÚA - Gia ân và trừng phạt - Người Ít-ra-en trở về |
8. Ông I-sai-a
sinh một con trai - Suối Si-lô-ác và sông Êu-phơ-rát - Sứ mạng ông I-sai-a -
Đi trong đêm tối |
28. THI CA VỀ
ÍT-RA-EN VÀ GIU-ĐA - Chống Sa-ma-ri - Chống cố vấn sai lầm - Dụ ngôn |
9. Ơn giải thoát -
Các thử thách của vương quốc miền Bắc |
29. Nói về
Giê-ru-sa-lem - Lời sấm |
10. Hạch tội Át-sua
- Tin tưởng vào Thiên Chúa - Cuộc xâm lăng |
30. Chống đoàn sứ
giả được phái qua Ai-cập - Lời sấm khác chống lại phái đoàn - Di chúc - Thiên
Chúa sẽ thứ tha - Chống Át-sua |
11. Vị minh quân
dòng dõi vua Đa-vít - Những người bị phân tán trở về |
31. Chống liên minh
với Ai-cập |
12. Thánh vịnh |
32. Vua công chính
- Chống đàn bà Giê-ru-sa-lem - Đổ tràn thần khí - Thành quả của đức công minh |
13. SẤM NGÔN VỀ CÁC
DÂN NGOẠI - Về Ba-by-lon (Ba-ben) |
33. Ơn cứu độ người
người mong đợi - Trở về Giê-ru-sa-lem |
14. Chấm dứt thời
lưu đày - Cái chết của vua Ba-by-lon - Hạch tội Át-sua - Hạch tội người
Phi-li-tinh |
34. Xử tội Ê-đôm - |
15. Hạch tội Mô-áp |
35. Giê-ru-sa-lem
toàn thắng |
16. Lời thỉnh cầu của
người Mô-áp - Mô-áp than vãn |
36. Cuộc xâm lăng của
vua Xan-khê-ríp |
17. Hạch tội Đa-mát
và Ít-ra-en |
37. Cầu cứu ngôn sứ
I-sai-a - Viên chánh chước tửu trở về - Ông I-sai-a can thiệp - Lời sấm liên
quan tới Át-sua |
18. Hạch tội dân
Cút |
38. Vua Khít-ki-gia
lâm bệnh và được khỏi - Bài ca của vua Khít-ki-gia |
19. Hạch tội Ai-cập
- Ai-cập hối cải |
39. Phái đoàn
Ba-by-lon (Ba-ben) |
20. Hạ thành Át-đốt |
|
I. Tổng quát (chương
1-7)
1,
1-31 : Dẫn nhập: Hạch tội dân bội bạc và giả hình (1,2-8).
Lời sấm về sự thờ
phượng đích thực (1,10- 16). Kêu gọi hoán cải (1, 18-20). Đe doạ hình phạt
(1,21-31).
2,
2-5: Tương lai của núi Xi-on
2,
6-22: Ngày của Đức Chúa
3,
1-26: Cảnh hỗn loạn tại Giêrusalem và hình phạt cho các phụ nữ.
4,
2-6: Số sót (chồi non của Đức Chúa)
5,
1-7: Bài ca vườn nho
5,
8-30: Tố giác những lạm dụng xã hội và những người lãnh đạo.
6,
1-13: Ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a
7,
1-25: Lời tiên tri về Em-ma-nu-en
1. Ơn gọi của triên tri
I-sai-a
a. I-sai-a “thấy”
Chúa (6,1)
Đây là khẳng định đơn
giản nhưng hết sức mạnh mẽ vì trong Thánh Kinh, con người không thể nhìn thấy
Thiên Chúa mà có thể sống sót nổi (x.Xh 33,20). Khẳng định này làm nổi bật uy
quyền của lời tiên tri, vì lời đó không dựa vào sự khôn ngoan của người đời
nhưng trực tiếp đến từ Thiên Chúa (x.1Cr 2,1-5).
b. Đấng
Thánh của Ít-ra-en
I-sai-a trình bày Thiên Chúa
là Đấng cực thánh (6,3) và con người cần đặt trọn niềm tin vào Ngài: “Nếu các ngươi không vững tin, các ngươi sẽ
không đứng vững”(7,9). Đối diện với Thiên Chúa chí thánh, con người cảm
nhận sâu sắc thân phận tội lỗi và ô uế của mình (6,4) (đối chiếu Lc 5, 1-10).
Vì thế, cần được Thiên Chúa thanh tẩy (6,5).
c. Sự đáp ứng của I-sai-a
Trước
tiếng gọi của Thiên Chúa “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” I-sai-a đáp trả rất nhiệt
tình: “Lạy Chúa, này con đây, xin Chúa
sai con”(6,8). Thiên Chúa cũng kêu gọi và trao phó sứ mạng cho bạn, bạn đã
đáp trả thế nào trước tiếng gọi của Chúa?
2. Lời tiên tri về Em-ma-nu-en
(7, 10-17)
a. Lời tiên tri (7,
13-17)
“Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”.
Từ almah trong tiếng Hípri có nghĩa là thiếu nữ đến tuổi kết hôn, không nhất
thiết phải là trinh nữ. Tuy nhiên bản dịch Hi Lạp đã dùng từ parthenos nghĩa là
trinh nữ. Thánh sử Mátthêu đã sử dụng từ parthenos này (1,22-23). Đây là nền
tảng cho cách giải thích của Kitô giáo về bản văn này như lời tiên tri về việc
Đức Maria thụ thai và sinh hạ Chúa Giêsu Kitô.
b. Ý nghĩa
Trong
bối cảnh lịch sử thời vua A-khát, lời tiên tri này là một dấu chỉ hi vọng giữa
hoàn cảnh đầy thất vọng, dấu chỉ sự sống giữa những đe doạ và chết chóc. Trong
truyền thống Kitô giáo, lời tiên tri này hướng nhân loại đến Chúa Kitô, Đấng
đến để xây dựng thế giới mới và nhân loại mới.
3. Bài ca vườn nho (5,
1-7)
a. Vườn
nho
Vườn nho là một trong
những hình ảnh và chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh (x. Mt 21,33-42; Mc
12,1-10; Lc 20,9-18). Hình ảnh này hàm chứa nhiều ý nghĩa: (1) nghĩa tự nhiên
về mặt canh nông; (2) bản tình ca hát cho người bạn đời, vì thế, hình ảnh “nho
dại” ám chỉ sự bất trung trong đời sống hôn nhân; (3) vườn nho còn là biểu
tượng cho sự giàu có, nhưng theo mạch văn, sự giàu có không nhất thiết dẫn đến
một xã hội công bằng và huynh đệ.
b. Hình ảnh vườn nho và đời sống đức tin của
người Kitô hữu
Một
trong những dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu là dụ ngôn về những người thợ làm
vườn nho và là những kẻ sát nhân (Mc 12,1-10). Vườn nho ở đây là Nước Trời, là
cộng đoàn Dân Chúa, và cũng có thể hiểu là cuộc đời mỗi chúng ta. Chính Thiên
Chúa mới là chủ vườn nho, còn mỗi người trong chúng ta chỉ là thợ làm vườn nho,
và phải dâng những hoa lợi vườn nho cho Chúa. Nhưng thay vào đó, có thể ta chỉ
thu tích hoa lợi hoàn toàn cho bản thân và những tính toán ích kỷ của mình,
khước từ quyền làm chủ của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Vậy bạn là ai trong
dụ ngôn này? Vườn nho đời bạn đem lại những hoa trái nào? Bạn sử dụng những tài
năng và ân huệ Thiên Chúa ban cách nào?
II. I-sai-a chương 8-12 – Tổng quát
8,1-15:
Những lời tiên tri về Át-sua
8,16-20:
Sứ mạng của I-sai-a
9,1-6:
Vị vua mới và ơn giải thoát
9,7
-10,4: Các thử thách của vương quốc miền Bắc
10,5-34:
Vai trò của Át-sua
11,1-9:
Vị vua lý tưởng
11,10-16:
Tái thống nhất Ít-ra-en
12,1-6:
Bài ca tạ ơn
1. Lời tiên tri về vị
Quân Vương (8,23 – 9,6)
a. Lời tiên tri trong bối cảnh lịch sử
Đây là lời tiên tri
mang tính “mêsia” (cứu thế) vì mô tả vị vua lý tưởng trong tương lai sẽ thiết
lập triều đại mới, triều đại hòa bình, công minh và chính trực. Có thể là lời
tiên tri về vua Khít-ki-gia, người kế vị A-khát,
sẽ lên ngôi năm 725 hay 715 trước Công nguyên. Tuy nhiên, vị vua này lại được
mang những tước hiệu đặc biệt, nhất là “Thần linh dũng mãnh” (Tv 2,7) còn cho
rằng vị vua này là Người Con được Thiên Chúa sinh ra, Tv 45,7 còn gọi vị vua
này là Elohim “Thiên Chúa”. Vì thế, theo lời tiên tri, vị vua này không chỉ là
một con người.
b. Lời tiên tri và phụng vụ Kitô giáo
Hội
Thánh Công giáo chọn đọc lời tiên tri này trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh (bài
đọc I: Is 9,1-6; bài Tin Mừng: Lc 2,1-14). Đối chiếu hai bản văn Thánh Kinh
trên, ta sẽ thấy cách giải thích của Hội Thánh về lời tiên tri. Đây là lời tiên
tri về việc giáng sinh Chúa Giêsu Kitô, Đấng muôn dân mong đợi, Đấng đến thiết
lập “vương quốc vững bền, trên nền tảng
chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời”(Is 9,6). Điều cần ghi
nhận là thế giới lý tưởng đó không tùy thuộc vào sức mạnh quân sự nhưng tùy
thuộc vào một trẻ thơ không có quyền lực gì cả, nghĩa là một thế giới được xây
dựng trên sự công chính và tình thương.
2. Triều đại của Đáng
Mêsia
a. Lời
tiên tri về vị vua lý tưởng (11, 1-9)
Câu 1 cho biết vị vua
này xuất thân từ nhà Đavít: “Từ gốc tổ
Gie-sê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non”. Câu
2-5 mô tả những đặc điểm của vị vua này: Thần Linh Thiên Chúa sẽ ngự xuống trên
gài và ngài sẽ thực hiện tất cả công việc của vị vua công chính. Câu 6-9 mô tả
thế giới sẽ được biến đổi dưới triều đại của vị vua này. Thế giới được mô tả
bằng những hình ảnh lý tưởng như vườn địa đàng: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non
được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng”. Tiên tri I-sai-a mô tả một thế giới lý
tưởng, và thế giới đó sẽ trở thành hiện thực khi “sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng
biển”. Nghĩa là phải khước từ những tham vọng bất chính và thiết tha với sự
công chính của Thiên Chúa. Thế giới này vẫn còn ở phía trước và không ngừng vẫy
gọi chúng ta đi tới.
b. Lời tiên tri và phụng vụ Kitô giáo
Hội
Thánh Công giáo chọn đọc lời tiên tri này trong Chúa nhật II Mùa Vọng (bài đọc
I: Is 11,1-10; bài Tin Mừng: Mt 3,1-12). Liên kết hai bản văn Thánh Kinh này sẽ
giúp ta hiểu cách giải thích của Hội Thánh về lời tiên tri của I-sai-a: đây là lời tiên tri
về Đấng Mêsia, Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần, sẽ thiết lập Nước Trời.
Nước Trời chính là chủ đề lớn bao trùm mọi lời rao giảng của Chúa Giêsu. Nước
Trời phải là lý tưởng của mọi Kitô hữu và ta cần cộng tác với Chúa để xây dựng
Nước Trời ngay từ hôm nay.
3. Thiên Chúa là chủ
lịch sử (10,5-43)
a.
Thiên Chúa là Chủ lịch sử
Trong tầm nhìn của I-sai-a, Át-sua là ngọn roi
Thiên Chúa dùng để xử phạt dân Ngài (10,5). Tuy nhiên chính Át-sua cũng sẽ bị
Thiên Chúa trừng phạt vì nó đã không phụng sự Đức Chúa mà chỉ biết tiêu diệt: “Ta sẽ trừng phạt hậu quả lòng tự đại của vua
Át-sua và con mắt kiêu căng ngạo nghễ của nó”(6-16). Như thế, nếu nhìn lịch
sử trên bề mặt, người ta thấy những biến cố này dẫn đến những biến cố khác,
nhưng từ tầm nhìn của đức tin, người tín hữu khám phá sự hiện diện của chính
Thiên Chúa là Đấng dẫn dắt lịch sử đi đến cùng đích tối hậu của nó.
b. Sống
niềm tin vào Thiên Chúa
Mọi
biến cố lịch sử và đời người, chính Chúa là đấng hướng dẫn lịch sử đi tới cùng
đích tốt đẹp nhất. Cách nhìn này của đức tin thúc đẩy ta luôn sống tâm tình tin
tưởng và phó thác, cả trong những hoàn cảnh nghiệt ngã và khó khăn nhất.
III. Chương 13,1-23,8.
Tổng quát : Hạch tội các dân (13,1 – 23,8)
Trong
truyền thống, các tiên tri nhiều lần loan báo thảm hoạ đổ xuống các dân tộc.
Tuy nhiên lời loan báo này lại mang giá trị tích cực cho những tâm hồn biết
lắng nghe. Những lời loan báo này xem ra không có liên hệ gì với chúng ta ngày
nay nhưng cũng có thể rút ra một số bài học cho đời sống đức tin.
13,1-22:
Ba-by-lon bị tàn phá
14,1-32:
Cái chết của vua Ba-by-lon. Hạch tội Át-sua.
Hạch tội người Philitinh.
15,1-9:
Hạch tội Mô-áp
16,1-14:
Dân Mô-áp thỉnh cầu và than vãn
17,1-14:
Hạch tội Đa-mát và I-sai-a
18,1-7:
Hạch tội dân Cút
19,1-25:
Hạch tội Ai Cập và tương lai của Ai Cập
20,1-6:
Ngôn sứ ở trần
21,1-16: Ba-by-lon sụp đổ. Hạch tội người
Ả Rập.
22,1-25: Sự sụp đổ của Giêrusalem. Tranh
cãi tại tòa.
1. Sự sụp đổ của Ba-by-lon
(14,1-22)
a. Ý
nghĩa
Bài ca của I-sai-a về sự sụp đổ của Ba-by-lon
là bài ca nổi tiếng vì đã so sánh vua Ba-by-lon với “Lucifer, con của bình minh”(14,12). Hình ảnh này được rút từ huyền
thoại Ca-na-an về các thần Helel và Shahar (Sao Mai và Sao hôm) bị sa xuống từ
trời sau cuộc nổi loạn. Trong Kitô giáo, ta nhớ đến sự sa ngã của Lucifer và
các thiên thần hầu cận Lucifer (x. Lc 10,18).
Nội dung chính của bài
ca này là những kẻ kiêu căng muốn trèo lên thật cao rồi sẽ bị hạ xuống thật
thấp. Adam và Eva cũng được liên tưởng đến ở đây, “Ta sẽ vượt ngàn mây, sẽ nên như Đấng Tối cao”(x. 14,14). Hai ông bà
đòi nên như Thiên Chúa nhưng cuối cùng bị đuổi khỏi vườn Ê-đen.
b.
Trong tương quan với Tân Ước
Âm
vang bài ca này thể hiện rõ nét trong sách Khải Huyền (chương 17-18). Tác giả
dùng những hình ảnh biểu tượng để diễn tả sự trừng phạt dành cho đế quốc Rôma
vì đã bắt bớ và bách hại các chứng nhân của Chúa Giêsu. Cho đời sống thiêng
liêng, bài ca này cũng nhắc nhớ ta về lời Chúa Giêsu, “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc
18,14). Nếu bài ca của I-sai-a lên án lối đi của kẻ
kiêu căng thì thư Philipphê 2,5-11 lại trình bày con đường ngược lại: Chúa
Giêsu hủy mình ra không, vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh.
2. Tiên tri ở trần (20,1-6)
a. Sư
kiện
Trong ba năm, I-sai-a ở trần và đi chân
không (20,3) để nên điềm báo sự sụp đổ của Ai Cập: dân phải đi tù và bị đi đày.
Đây là lời cảnh báo cho dân Giuđa và miền duyên hải vì quá cậy dựa vào sự trợ giúp
của Ai Cập: “Đâu rồi niềm hy vọng của
chúng ta, nơi chúng ta đến ẩn náu để được giúp đỡ hầu thoát khỏi tay vua Át-sua?”(20,6).
b. Rao giảng Lời Chúa bằng hành động
Các
tiên tri không chỉ rao giảng bằng lời nói nhưng còn bằng những hành động biểu
tượng, vd. Hsê với cuộc hôn nhân kỳ lạ, Ê-dê-ki-en cũng có nhiều hành động lạ
lùng (x.chương 4). Hành động cụ thể có khả năng lôi kéo sự chú ý của người ta
và mời gọi họ suy nghĩ.
Kitô hữu cũng phải rao
giảng Lời Chúa không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả đời sống. Theo nghĩa
thiêng liêng, hình ảnh ở trần và đi chân không có thể giúp ta ý thức đến (1) sự
từ bỏ, khó nghèo và khiêm tốn, và (2) sự nương tựa vào một mình Chúa. Đây cũng
là những chỉ thị của Chúa Giêsu cho các môn đệ trên đường truyền giáo: “Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. Đi
đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy”(x. Mt
10,5-10).
IV. I-sai-a chương 24-39 - Tổng quát
24,1 –
27,13: Khải huyền của I-sai-a: mặt đất tan hoang – ngày chung thẩm – tiệc cánh
chung – thánh thi tạ ơn – Ít-ra-en được phục hồi.
28,1 – 33,24: Những tính toán chính trị và Ơn Cứu độ: Sa-ma-ri thất thủ
– Số sót – Các ngôn sứ giả – Dụ ngôn về Ơn Cứu độ – Lời sấm về Giêrusalem – Lời
tiên tri về Ơn Cứu độ – Lời sấm về Át-sua – Xi-on được giải thoát – Vị vua công
chính và ơn giải thoát.
34,1 – 35,10: Những lời sấm sau lưu đày: lời sấm chống Ê-đôm –
Giêrusalem toàn thắng.
36,1 – 39,8: Những câu chuyện từ thời vua Khít-ki-gia: cuộc xâm lăng của
Xan-khê-ríp– Cầu cứu ngôn sứ I-sai-a – Thánh thi tạ ơn – Phái đoàn Ba-by-lon.
1. Cuộc chung thẩm (24,21-23)
a. Ngày của Chúa
“Ngày của Chúa” là chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh. Tuy nhiên ở đây
có một điểm đặc biệt: Đức Chúa sẽ trừng trị cả đạo binh thiên quốc (các vì sao
được coi như các thiên thần, các thần ngoại giáo (Đnl 4,19; Gr 8,2). Chi tiết
này làm nổi bật chiều kích vũ trụ của ngày chung thẩm. Câu 21 cho thấy mối liên
hệ mật thiết giữa “đạo binh thiên quốc” và “vua chúa trần gian”: “Trên trời, Đức Chúa sẽ trừng trị đạo binh
thiên quốc; dưới đất, Người trừng trị vua chúa trần gian”. Các vua chúa trần
gian có vị bảo trợ cho họ trên trời, nhờ đó họ có sức mạnh, đây là ý tưởng quen
thuộc thời xưa. Đỉnh cao trong “Ngày của Chúa” là Đức Chúa sẽ hiển trị trên núi
Xi-on và vinh quang của Ngài tỏ rạng trước muôn dân (24,23).
b. Người Kitô hữu và ngày chung thẩm
Khi
Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Ngài sẽ đưa
ra phán quyết chung thẩm dành cho người công chính cũng như kẻ bất lương, “Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này, như
chính họ cũng hy vọng, là người lành và kẻ dữ sẽ sống lại”(Cv 24,15), rồi
được hạnh phúc vĩnh hằng hay bị kết án muôn đời. Ngày chung thẩm xảy ra lúc
nào, chỉ một mình Thiên Chúa biết. Sau cuộc chung thẩm, vũ trụ được giải thoát
khỏi cảnh hư nát và được chia sẻ vinh quang với Chúa Kitô, bắt đầu Trời Mới Đất
Mới (2Pr 3,13). Vương quốc Thiên Chúa sẽ được hoàn thành và Thiên Chúa nắm toàn
quyền trên muôn loài (1Cr 15,28). Niềm tin đó phải hướng dẫn đời sống của ta
ngay từ bây giờ, “Trong khi mong đợi ngày
đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng
trách, và sống bình an”(2Pr 3,14).
2. Tiệc cánh chung (25,6-8)
a. Ý nghĩa
Bữa
tiệc là chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh cũng như trong nhiều truyền thuyết của
các dân tộc. Ở đây, bữa tiệc là tiệc mừng sau khi chiến thắng. Tuy nhiên I-sai-a
trình bày một số nét đặc biệt: đây là tiệc mừng cho mọi dân tộc, “Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa
tiệc” – Thiên Chúa sẽ tiêu diệt sự chết đến muôn đời, “Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân” – Thiên Chúa sẽ cất
bỏ mọi nỗi đe doạ trên nhân loại, “Người
sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người”.
Gắn với lời
loan báo về tiệc cánh chung là thánh thi tạ ơn (26,1-19). Thiên Chúa sẽ trả thù
cho người nghèo nhưng sống công chính. Hơn nữa, “các vong nhân sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên; những kẻ nằm trong bụi đất,
hãy trỗi dậy, hãy reo mừng”(26,19). Một vài học giả cho rằng câu này là lời
khẳng định sớm nhất trong Thánh Kinh về niềm tin vào sự sống lại. Tuy nhiên nhiều
nhà chú giải lại cho rằng câu này có ý nói đến sự phục sinh một dân tộc chứ
không phải sự phục sinh của những người đã chết. Dù sao, ý tưởng này cũng dọn
đường cho niềm tin vào sự phục sinh kẻ chết.
b. Trong Tân Ước
Trong Kitô
giáo, “miền đất không còn nước mắt” được hiểu là thiên đàng, Nước Trời: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không
còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ
đã biến mất”(Kh 21,4). Trong sách Khải Huyền 19,6-10, Khải hoàn ca trên
thiên quốc được diễn tả bằng hình ảnh tiệc cưới: “Nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã
trang điểm sẵn sàng ... Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên”.
Hình ảnh tiệc cưới cũng là hình ảnh quen thuộc trong giáo huấn của Chúa Giêsu về
Nước Trời, “Nước Trời giống như chuyện một vị vua mở tiệc cưới cho con mình...”(x.
Mt 22,2-14; Lc 14,16-24).
I-SAI-A ĐỆ
NHỊ ( Is 40-55 = 16 chương)
Chương |
Chương |
40.
SÁCH AN ỦI DÂN ÍT-RA-EN - Loan báo ngày giải thoát - Thiên Chúa cao cả |
48. ĐỨC
CHÚA đã tiên báo tất cả - ĐỨC CHÚA đã chọn vua Ky-rô - Thời lưu đày chấm dứt |
41.
Vua Ky-rô, khí cụ của ĐỨC CHÚA - Tượng thần là hư vô |
49.
Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ hai - Vui ngày trở về |
42.
Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ nhất - Bài ca chiến thắng - Ít-ra-en mù
quáng |
50.
Trừng phạt Ít-ra-en - Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ ba |
43. ĐỨC
CHÚA phù trợ và giải thoát Ít-ra-en - Chống lại Ba-by-lon (Ba-ben) - Những điềm
thiêng dấu lạ trong cuộc xuất hành mới |
51.
Ít-ra-en được tuyển chọn và giáng phúc - Đức công chính của Thiên Chúa ngự trị
- ĐỨC CHÚA thức dậy - ĐỨC CHÚA an ủi dân Người |
44.
Thiên Chúa giáng phúc cho Ít-ra-en - Chỉ có một Thiên Chúa - Tượng thần là hư
vô - Trung thành với ĐỨC CHÚA |
52.
Giê-ru-sa-lem được giải thoát - Tiên báo ơn cứu độ - Bài ca người Tôi Trung -
Bài thứ tư |
45.
Vua Ky-rô, khí cụ của Thiên Chúa - Cầu nguyện - Quyền tối thượng của ĐỨC CHÚA |
53.
Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ tư (tiếp) |
46.
Ba-by-lon (Ba-ben) thất thủ |
54.
Giê-ru-sa-lem được phục hồi - Giê-ru-sa-lem mới |
47.
Ai ca khóc Ba-by-lon (Ba-ben) |
55. Lời
mời gọi cuối cùng - Kết luận |
1. Chương 40-48
Câu hỏi đặt ra là tại
sao đã đọc sách I-sai-a từ trước, bây giờ lại
quay lại? Bắt đầu từ I-sai-a 40,1 chúng ta được đưa
vào bối cảnh mới là thời điểm chấm dứt cuộc lưu đày Ba-by-lon (539 trước Công
nguyên), và những lời sấm được trình bày trong những chương sau này mang một
cung giọng khác với các chương 1-39. Vì thế những chương sau này được gọi là I-sai-a II hay Sách an ủi. Các
chương sau này có thể được chia thành hai phần chính: phần thứ nhất (40-48) chủ
yếu nói đến cuộc giải thoát khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lon, phần thứ hai (49-55)
nói về việc khôi phục Xi-on. Một số chủ đề lớn sẽ được đề cập tới ở đây.
a. Loan báo ngày giải thoát (40,1-11)
Chủ
đề chính ở đây là sự giải thoát Ít-ra-en khỏi cảnh lưu đày. Trong sách Ét-ra chương
1, biến cố giải thoát này được gán cho Kyrô vua Ba Tư vì ông đã ra chiếu chỉ
cho phép dân hồi hương. Nhưng ở đây tiên tri I-sai-a làm nổi bật nguyên do sâu xa của ơn giải thoát
là chính Thiên Chúa, Đấng tuyên bố rằng “Thời
phục dịch của Giêrusalem đã mãn, tội của Thành đã đền xong”(câu 1). Vì thế,
cuộc giải thoát này làm nổi bật quyền năng và vinh quang Đức Chúa. Ai cũng nghĩ
Ba-by-lon hùng mạnh lắm nhưng thực ra cũng không hơn gì hoa cỏ ngoài đồng, chỉ
có lời Thiên Chúa đời đời bền vững, “Cỏ
héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua... nhưng lời của Thiên Chúa chúng
ta đời đời bền vững”(câu 7-8).
Trong Tân ước, thánh Mátthêu
và Gioan trích dẫn Is 40,3 “có tiếng hô trong sa mạc” để áp dụng cho thánh
Gioan Tẩy giả (Mt 3,3 và Ga 1,23). Cách trích dẫn này giúp ta hiểu vai trò của
Gioan Tẩy giả là loan báo và chuẩn bị cho hành động cứu độ mà Thiên Chúa sẽ
thực hiện cho nhân loại nơi Chúa Giêsu Kitô.
b. Cuộc xuất hành mới (43,14-44,5)
Is
43,15-21 là lời sấm về việc dân Ít-ra-en sẽ được giải thoát khỏi cảnh lưu đày
bên Ba-by-lon, và lời sấm này được xây dựng dựa trên biến cố Xuất Hành: “Đây là Lời Đức Chúa, Đấng đã vạch một con
đường giữa đại dương, Một lối đi giữa sóng nước oai hùng, Đấng đã cho xuất
trận. Nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng: Tất cả đã nằm xuống và
không còn trỗi dậy, Đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn”(43,16- 17).
Xuất hành là biến cố
trung tâm của lịch sử Ít-ra-en, cũng là tâm điểm niềm tin của Ít-ra-en. Qua
cuộc Xuất hành, Thiên Chúa tạo dựng dân Ít-ra-en. Nhưng trong lời sấm của tiên
tri I-sai-a, dân Ít-ra-en được
nhắc nhớ: “đừng nhớ lại những chuyện ngày
xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước” vì “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận
thấy sao?”(43,17). Như thế, Xuất hành không chỉ là biến cố của quá khứ mà
là biến cố của hôm nay. Xuất hành trở thành mẫu mực cho hành động của Thiên
Chúa trong lịch sử và trong từng giây phút hiện tại. Điều quan trọng không phải
là những gì Thiên Chúa đã làm thời Môsê mà là những gì Thiên Chúa làm hôm nay.
Vì vậy I-sai-a khuyến khích ta đọc
lại câu chuyện Xuất Hành để áp dụng cho chính hoàn cảnh hiện tại.
c. Cuộc xuất hành và đời Kitô hữu
Phụng
Vụ Chúa nhật V Mùa Chay (năm C) chọn lời sấm trên đây của tiên tri Isaia làm
bài đọc I và trình thuật về người nữ ngoại tình (Ga 8,1-11) làm bài Tin Mừng.
Việc kết hợp hai bài đọc cho ta một cái nhìn mới về câu chuyện Tin Mừng. Thiên
Chúa là Đấng luôn mở cho con người cánh cửa đi về phía tương lai. Ngài đã mở
cánh cửa hy vọng cho dân lưu đày, và Ngài cũng mở cánh cửa hy vọng cho người nữ
ngoại tình, “Tôi không lên án chị đâu!
Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11). Niềm tin vào Thiên Chúa
của hy vọng, Thiên Chúa của tương lai không cho phép ta tuyệt vọng trong bất cứ
hoàn cảnh nào, không cho phép ta khoá chặt mình trong những mặc cảm tội lỗi,
nhưng luôn mời gọi ta đứng dậy và đi về phía đằng trước. Hơn ai hết, thánh
Phaolô đã cảm nghiệm sâu sắc chân lý này khi ngài viết, “Tôi chỉ chú ý đến một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về
phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích để chiếm được phần thuởng từ trời cao Thiên
Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu”(Pl 3,13-14).
Đồng thời, trong mối quan hệ với người khác, ta cần học với Chúa cách ứng xử
này, là không bao giờ khóa chặt anh em mình trong những định kiến về họ hoặc
những lỗi lầm của họ, nhưng phải mở cho họ một cánh cửa đi về phía tương lai.
Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người biết đối xử với nhau như thế.
Cuộc xuất hành mới mà
tiên tri I-sai-a loan báo cho dân lưu
đày còn giúp người Kitô hữu ý thức về cuộc xuất hành nội tâm của chính mình.
Dân Ít-ra-en đã được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập nhưng rồi họ lại
tiếp tục rơi vào tình trạng nô lệ khác khi họ rời bỏ Thiên Chúa của giao ước để
chạy theo các thần ngoại lai. Vì thế họ cần một cuộc xuất hành mới, ban tặng tự
do mới, tự do đích thực. Mỗi Kitô hữu cũng có kinh nghiệm tương tự trong đời
sống. Đã được trở nên tạo vật mới trong bí tích Thánh Tẩy nhưng ta lại tiếp tục
làm nô lệ cho những đam mê và dục vọng xấu. Vì thế ta cần phải tham dự vào cuộc
xuất hành mới được hoàn thành trong Chúa Giêsu chịu đóng đinh, cuộc xuất hành
ban tặng cho ta sự tự do nội tâm đích thực. Mùa Chay là thời gian đặc biệt hằng
năm để ta ý thức và sống lời mời gọi này.
2. Chương 48-55
a. Người tôi tớ đau khổ (Is 52,13 – 53,12)
Đây
là bài ca thứ tư về Người Tôi tớ đau khổ trong sách I-sai-a. Vậy Người Tôi tớ này
là ai? Phải chăng là tiên tri Giê-rê-mi-a vì tiên tri Giê-rê-mi-a được mô tả
như con chiên bị đem đến lò sát sinh (Gr 12,19), và người tôi tớ đau khổ cũng
vậy (Is 53,7). Kinh nghiệm của Giê-rê-mi-a cho thấy một tiên tri phải chấp nhận
đau khổ mới có thể chu toàn sứ mạng. Phải chăng Người Tôi tớ là dân Ít-ra-en?
Người tôi tớ đau khổ bị giết chết (Is 53,8-9) nhưng rồi sẽ được trường tồn và
được thấy hậu duệ của mình. Ít-ra-en cũng thế, coi như đã chết trong cảnh lưu
đày nhưng sẽ trỗi dậy như trong thị kiến của Ê-dê-ki-en về cánh đồng xương khô
cũng như trong Is. 26.
Truyền thống Kitô giáo
vẫn đọc bài ca về Người Tôi Tớ Đau Khổ như lời tiên tri về cuộc khổ nạn của
Chúa Kitô. Chính vì thế, cùng với trình thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô,
bài ca này được chọn làm bài đọc I trong Phụng Vụ Thứ Sáu Tuần Thánh. Những chi
tiết trong bài ca về Người Tôi Tớ được tái diễn nơi Chúa Kitô trong cuộc khổ
nạn của Người một cách cụ thể. Hãy đọc kỹ bài ca này và chiêm ngắm Chúa Kitô
chịu đóng đinh trên thập giá để khám phá mầu nhiệm cứu độ. Chúa Kitô chịu đau
khổ vì chúng ta và thay cho ta, nhờ đó ta được chữa lành: “Chính Người đã mang lấy bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau
khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng Người bị phạt, bị Thiên Chúa
giáng hoạ, bị nhục nhã ê chề” (53,4). “Chính
Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, người
đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho ta được
chữa lành” (53,5).
Bài ca về Người Tôi tớ
đau khổ còn trình bày một cách nhìn mới về đau khổ. Truyền thống lâu dài trong
Thánh Kinh vẫn coi đau khổ là hình phạt tội lỗi. Thiên Chúa thưởng phạt nhãn
tiền tùy theo đời sống tốt lành hay xấu xa của mỗi người. Quan niệm này vẫn là
quan niệm quen thuộc vào thời Chúa Giêsu, được thể hiện qua thái độ của những
người Pharisêu, kể cả các môn đệ của Chúa (x. Ga 9,2). Nhưng trong bài ca về
Người Tôi Tớ, Người Tôi Tớ phải chịu đau khổ không do tội lỗi của mình mà do
Ngài gánh chịu đau khổ của chúng ta (Is 53,4). Như thế, đau khổ có giá trị cứu
độ: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người tôi
trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính, và sẽ gánh lấy tội lỗi của
họ”(Is 53,11).
Cách
nhìn này cũng soi sáng cho linh đạo Kitô giáo về đau khổ. Người Kitô hữu được
mời gọi kết hợp với Chúa Kitô trong đau khổ: “Điều quan trọng là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền
năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người,
nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người”(Pl 3,10).
Đồng thời, đón nhận đau khổ là cách thế để ta cộng tác vào chương trình cứu độ
của Chúa: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ
vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy
vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh”(Cl 1,24).
b. Chay tịnh (58,1-14)
Sau
khi Giêrusalem bị thất thủ năm 586 trước Công nguyên, dân Ít-ra-en có thói quen
giữ bốn ngày chay vào các tháng tư, năm, bảy và mười. (x. Dcr 8,18). Tiên tri I-sai-a cho rằng việc giữ chay
này không có giá trị nội tâm nào. Ngài không chống đối nghi thức giữ chay nhưng
cho rằng chay tịnh đích thực phải liên kết với công bằng xã hội. Câu 6-7 đưa ra
những nét chính yếu của tôn giáo đích thực: giải thoát người bị áp bức, nuôi
dưỡng kẻ đói nghèo, cho người vô gia cư nương nhờ... Những điều được nói đến ở
đây làm ta liên tưởng đến dụ ngôn Ngày Phán Xét Chung (Mt 25,31-46).
Giáo huấn của tiên tri
Isaia cũng giúp người Kitô hữu nhìn lại việc giữ chay, vốn là đòi hỏi được nhấn
mạnh trong mùa Chay. Chay tịnh đích thực phải bắt nguồn từ trong tâm hồn như
Chúa Giêsu dạy, “Khi ăn chay, nên rửa mặt
cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của
anh, Đấng hiện diện nơi bí ẩn”(Mt 6,17). Hơn thế nữa, trong ánh sáng của
mầu nhiệm thập giá, ta hiểu rằng chay tịnh là sự tập luyện sống mầu nhiệm hủy
mình ra không của Chúa Giêsu (x. Pl 2,5-11) để tình yêu được triển nở trong ta.
Chính vì thế, trong mùa Chay, việc giữ chay thường được gắn liền với việc cầu
nguyện và làm việc bác ái. Hiểu như thế, chay tịnh không chỉ là một nghi thức
phải giữ hay một lề luật phải chu toàn nhưng là phương thế huấn luyện đời sống
Kitô hữu, không chỉ giới hạn trong mùa Chay nhưng cần trải dài trong suốt hành
trình ơn gọi làm người và làm môn đệ Chúa Giêsu.
I-SAI-A ĐỆ
TAM ( Is 56-66 = 10 chương)
1. Tổng quát
Chương
40-55 được viết tại Ba-by-lon khi dân Do thái sắp được hồi hương, còn các
chương 56-66 được viết sau đó, phản ánh những vấn đề của cộng đồng Do thái thời
hậu lưu đày. Vào thời kỳ này, cộng đồng Do thái bao gồm những người từ nơi lưu
đày trở về, lại có những người không bị lưu đày và vẫn ở lại quê hương, và cả
những người ở lại Ba-by-lon chứ không trở về quê nhà. Tình hình xã hội bất ổn
và phức tạp, đời sống khó khăn… tất cả đều ảnh hưởng đến đời sống đức tin của
dân, nhiều người không còn trung thành với niềm tin truyền thống của cha ông,
và việc thờ cúng ngẫu tượng có cơ hội phát triển mạnh. Có lẽ tác giả của những
chương này là các môn đệ của I-sai-a đệ nhị. Các môn đệ này tạo thành một nhóm
đặc biệt trong cộng đoàn thời hậu lưu đày, và họ cho rằng mình có trách nhiệm
thực hiện sứ mạng của Người Tôi tớ được nhấn mạnh nhiều trong I-sai-a đệ nhị.
Chương |
Chương |
56. Lời
hứa dành cho người ngoại bang - Các thủ lãnh bất xứng |
61.
Ơn gọi của ngôn sứ - Tạ ơn |
57.
Chống lại việc thờ ngẫu tượng |
62. Vẻ
huy hoàng của Giê-ru-sa-lem - Kết thúc |
58. Cách
ăn chay đẹp lòng Thiên Chúa |
63.
Xét xử các dân tộc |
59.
Thánh vịnh sám hối |
64.
Xét xử các dân tộc (tiếp) |
60. Vẻ
huy hoàng của Giê-ru-sa-lem |
65.
Cuộc xét xử tương lai |
|
66. Sấm
ngôn về Đền Thờ - Diễn từ cánh chung |
2. Tin mừng cho người nghèo (61,1-11)
Chương 61
được coi là chương trọng tâm trong I-sai-a đệ tam. Những câu mở đầu rất giống
những bài ca về Người Tôi tớ trong I-sai-a chương 42 và 49: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự
trên tôi…” Nhà tiên tri xem mình là người thi hành sứ mạng của Người Tôi tớ.
Các tù nhân ở đây là những người bị lưu đày bên Ba-by-lon. Năm hồng ân là năm
sabát, theo truyền thống là năm tha nợ và giải thoát nô lệ (x. Đnl 15, so sánh
với Lv 25). Việc xức dầu ở đây có lẽ mang tính hình tượng, vì thông thường các
tiên tri không được xức dầu, dù 1V 19,16 kể rằng Ê-li-a đã xức dầu cho Ê-li-sê.
Trong văn mạch của I-sai-a đệ tam,
bản văn này làm nổi bật mối quan tâm đối với người nghèo, mối quan tâm đã được
nhấn mạnh trong chương 58 và 59. Tuy nhiên tầm quan trọng của bản văn này vượt
qua khung cảnh lịch sử, và được coi như bản tóm tắt về sứ mạng của mọi môn đệ
trong mọi thời đại. Trong Phụng vụ Lễ Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh, cùng với bản
văn này, Hội Thánh công bố Tin Mừng Luca 4,17-19, kể lại việc Chúa Giêsu vào hội
đường Nadarét, đọc bản văn này trước cộng đoàn và công bố, “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em
vừa nghe”.
Mỗi người Kitô hữu cũng có thể đọc
và suy niệm bản văn này từ hai góc độ: góc độ của người nghèo đón nhận Tin Mừng,
và góc độ của sứ giả loan báo Tin Mừng. Từ góc độ của người nghèo, chỉ khi nào
ta đủ khiêm tốn để nhận ra tình trạng nghèo nàn của mình trong đời sống tâm
linh, bị giam cầm trong ngục tù tội lỗi, và tâm hồn tan nát vì khổ đau… lúc ấy
ta mới khám phá Lời Chúa thực sự là Tin Mừng cho chính mình. Từ góc độ sứ giả
loan báo Tin Mừng, bản văn này giúp ta ý thức lại sứ mạng của người Kitô hữu, sứ
mạng tiên tri, sứ mạng công bố ơn tha thứ và ơn hoà giải của Thiên Chúa cho mọi
người chúng ta gặp gỡ.
3. Tố cáo hàng ngũ lãnh đạo (56,9 –
57,21)
Các nhà chú
giải không hoàn toàn nhất trí về nguồn gốc và ý nghĩa của bản văn này. Một số học
giả cho rằng bản văn này đã có từ trước lưu đày vì giống những lời sấm trước
lưu đày chống lại việc thờ ngẫu tượng. Nhưng những học giả khác lại cho rằng bản
văn nhắm đến hàng ngũ lãnh đạo thời sau lưu đày. Rõ ràng bản văn lên án những người lãnh đạo
lúc đó bằng những từ hết sức mạnh mẽ như “đui mù,” “chó câm,” “chó đói”: “Những người canh gác Ít-ra-en đui mù hết, chẳng
hiểu biết gì; cả bọn chúng là lũ chó câm, không biết sủa… lũ chó đói, ăn chẳng
biết no… Thế mà chúng lại là mục tử, mục tử chẳng biết phân biệt gì”. Những
từ ngữ trên mang tính cực đoan nhằm diễn tả tình trạng tồi tệ lúc đó. Những
hình ảnh mà bản văn sử dụng để nói về các nhà lãnh đạo như “người canh gác” (Ed
3,17; 33,1-9), “mục tử” (Ed 34), giúp người đọc đối chiếu trách nhiệm của người
lãnh đạo tôn giáo và thực trạng đang diễn ra.
Bản văn này không chỉ là lời tố cáo
hàng ngũ lãnh đạo đương thời nhưng còn là lời cảnh giác đối với tất cả những ai
có trách nhiệm lãnh đạo trong Giáo Hội. Nhà lãnh đạo phải là người canh gác cho
dân để phát hiện những mối nguy hiểm đang rình rập và gây nguy hại cho đời sống
tinh thần của dân. Nhà lãnh đạo phải là người dám nói lên tiếng nói của sự thật
và lên án những gian dối; nếu không, họ sẽ bị kết án là “chó câm”! Nhà lãnh đạo
phải là người biết quên mình để phục vụ hạnh phúc của dân chứ không thể lợi dụng
dân mà thoả mãn bản thân; bằng không họ chỉ là “chó đói.”
CUỐN SÁCH 30
SÁCH GIÊ-RÊ-MI-A (Gr)
I.
Tổng quát về sách Giê-rê-mi-a
Năm 604 trước Công nguyên, Giê-rê-mi-a
đọc cho Ba-rúc là thư ký của ông viết lại những gì ông đã rao giảng trong 23
năm qua (x. chương 36 và 25,1-14). Khi nhà vua đốt đi cuộn sách của Giê-rê-mi-a
(36,21-23), Giê-rê-mi-a lại giao cho Ba-rúc viết một cuộn khác (36,32). Các học
giả tin rằng phần lớn cuộn sách thứ hai này đã được giữ lại trong các chương
1-20 và chương 25 như ta có ngày nay. Các câu 1-14 trong chương 25 có vẻ như là
phần kết của cuộn sách đã viết năm 604. Phần còn lại của sách Giê-rê-mi-a
(chương 26-52) gồm những chất liệu mang tính tự thuật về Giê-rê-mi-a (26-44), một
tuyển tập những lời sấm chống các dân ngoại (45-51) và chương cuối cùng 52.
Một trong những khó khăn khi đọc
sách Giê-rê-mi-a là cuốn sách không được viết theo thứ tự thời gian. Ví dụ,
chương 21 nhắc đến cuộc vây hãm Giêrusalem năm 588-587, nhưng đến chương 25,
người đọc lại bị lôi về năm 604. Và điều này xảy ra thường xuyên. Phải lý giải
thế nào về tình trạng này? Theo các học giả Thánh Kinh, có nhiều tuyển tập về lời
giảng của Giê-rê-mi-a, những câu chuyện về cuộc đời vị tiên tri cũng như những
bài tường thuật lịch sử về những ngày cuối cùng của vương quốc Giuđa. Khi biên
soạn những tài liệu này, thay vì sắp xếp các tư liệu theo thứ tự thời gian, vốn
là công việc hết sức khó khăn, người biên soạn cứ xếp tư liệu này nối tiếp tư
liệu khác, do đó tạo cảm giác không rõ ràng về thứ tự thời gian. Sách
Giê-rê-mi-a gồm có 52 chương:
Chương |
Chương |
1. Mở đầu - Chúa gọi
ông Giê-rê-mi-a |
27. Ý nghĩa tượng
trưng của cái ách Sứ điệp gửi các vua phương Đông |
2. Các lời giảng cổ
nhất về việc Ít-ra-en phản bội |
28. Tranh cãi với
ngôn sứ Kha-nan-gia |
3. Trở về với Chúa
- Kêu gọi miền Bắc trở về - Dân của Đấng Mê-si-a ở Xi-on |
29. Thư gửi người
lưu đày - Lời sấm lên án ông Sơ-ma-gia-hu |
4. Dân của Đấng
Mê-si-a ở Xi-on (tiếp) |
30. SÁCH AN ỦI - Lời
hứa phục hồi Ít-ra-en |
5. Lý do đưa đến
cuộc xâm lăng - Cách Thiên Chúa sửa trị |
31. Giao ước mới -
Giê-ru-sa-lem huy hoàng sau khi được tái thiết |
6. Lại nói về cuộc
xâm lăng |
32. Mua một thửa ruộng
để bảo đảm một tương lai hạnh phúc |
7. Nền phụng tự
đích thực |
33. Thêm một lời hứa
phục hồi - Định chế cho tương lai |
8. Giu-đa là cây
nho bị đe doạ - Ngôn sứ than vãn vì nạn đói |
34. Chung cuộc của
vua Xít-ki-gia-hu - Giải phóng nô lệ |
9. Đời sống luân
lý ở Giu-đa suy sụp - Khôn ngoan thật - Cắt bì, một bảo đảm giả tạo |
35. Gương con cháu
Rê-kháp |
10. Ngẫu tượng và
Thiên Chúa thật |
36. Cuốn sách năm
605 - 604 |
11. Ngôn sứ
Giê-rê-mi-a và những lời giao ước |
37. Nhận định tổng
quát về triều Xít-ki-gia-hu |
12. Hạnh phúc của kẻ
gian ác - ĐỨC CHÚA than phiền về cơ nghiệp bị xâm chiếm - Xét xử và cứu độ
các dân tộc lân bang |
38. Ông Giê-rê-mi-a
ở trong hầm nước được ông E-vét Me-léc can thiệp - Cuộc hội kiến cuối cùng giữa
ông Giê-rê-mi-a với vua Xít-ki-gia-hu |
13. Đai lưng tốt đã
trở thành vô dụng - Các vò rượu va chạm vào nhau - Viễn ảnh lưu đày - Cảnh
cáo Giê-ru-sa-lem không chịu sám hối - Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. |
39. Số phận của
ngôn sứ Giê-rê-mi-a lúc Giê-ru-sa-lem thất thủ - Sấm ngôn về E-vét Me-léc |
14. Đại hạn - Cả
ngôn sứ cùng là tư tế |
40. Số phận của
ngôn sứ Giê-rê-mi-a - Tổng trấn Gơ-đan-gia bị ám sát |
15. Tai hoạ chiến
tranh |
41. Tổng trấn
Gơ-đan-gia bị ám sát (tiếp) |
16. Cuộc đời ngôn sứ
như dấu chỉ - Dân Ít-ra-en bị phân tán trở về - Các nước trở lại |
42. Trốn sang Ai-cập |
17. Lỗi lầm của
Giu-đa trong việc phụng tự - Tin tưởng vào Đền Thờ và ĐỨC CHÚA - Tuân giữ
ngày sa-bát |
43. Trốn sang Ai-cập
(tiếp) |
18. Ngôn sứ
Giê-rê-mi-a ở nhà người thợ gốm - Ít-ra-en lãng quên ĐỨC CHÚA - Ngôn sứ
Giê-rê-mi-a bị mưu hại |
44. Sứ mạng cuối
cùng của ông Giê-rê-mi-a. Người Giu-đa ở Ai-cập và Thiên Nữ Hoàng |
19. Cái bình vỡ.
Tranh cãi với ông Pát-khua. |
45. Lời an ủi ông
Ba-rúc |
20. Tâm sự của ngôn
sứ Giê-rê-mi-a |
46. Những lời sấm
lên án Ai-cập |
21. Câu trả lời cho
phái đoàn của vua Xít-ki-gia-hu |
47. Lời sấm lên án
người Phi-li-tinh |
22. Những lời sấm
lên án các vua. Lên án vua Sa-lum - Lên án vua Giơ-hô-gia-kim |
48. Các lời sấm lên
án Mô-áp |
23. Vị vua tương
lai - Tập sách nhỏ lên án các ngôn sứ giả |
49. Lời sấm lên án
Am-mon - Lời sấm lên án Ê-lam |
24. Hai thúng vả |
50. Lời sấm lên án
Ba-by-lon - Tội kiêu căng - ĐỨC CHÚA, Đấng cứu chuộc Ít-ra-en |
25. Ba-by-lon, tai ương Đức Chúa gửi đến - Thị
kiến cái chén |
51. ĐỨC CHÚA lên án
Ba-by-lon - Tới hồi kết thúc - Thiên Chúa báo phục - ĐỨC CHÚA hỏi thăm các ngẫu
tượng |
26. Ông Giê-rê-mi-a
bị bắt và bị xử |
52. Phụ trương - Thảm
hoạ của Giê-rê-mi-a. Ủng hộ vua Giơ-hô-gia-khin |
Có thể phân chia sách Giê-rê-mi-a
như sau:
Phần I: Ơn gọi của Giê-rê-mi-a
(1,1-19).
Phần II: Lời rao giảng của Giê-rê-mi-a
từ năm 626 đến 604 (2,1 – 20,18).
Phần III: Những lời tiên tri chống
lại các vua và các tiên tri giả (21,1 – 25,38).
Phần IV: Những tư liệu mang tính tự
thuật và giao ước mới (26,1 – 33,26).
Phần V: Bất trung và sự tàn phá
(34,1 – 39,18).
Phần VI: Bất trung đến cùng (40,1 –
45,5).
Phần VII: Những lời sấm chống lại
các dân và kết luận (46,1 – 52,34).
II. Chương 1-12
1. Ơn gọi
của Giê-rê-mi-a (1,1-19)
a. Bài tường thuật về ơn gọi
(1,4-10)
“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi… Ta đặt
ngươi làm tiên tri cho chư dân”: Giê-rê-mi-a sử dụng ngôn ngữ tượng hình để
nhấn mạnh sứ mạng Thiên Chúa trao cho ông không những trong lịch sử Ít-ra-en mà
cả trong lịch sử các dân tộc. “Lạy Đức
Chúa là Chúa thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói”: lời này
nhắc ta nhớ đến Môsê tìm cách thoái thác những khó khăn của sứ vụ tiên tri (x.
Xh 4,10-13). Giê-rê-mi-a biết rằng các tiên tri phải sống cuộc đời đơn độc, phải
chấp nhận bị người ta chế giễu và kể cả bách hại; vì thế ông tìm cách tránh né.
“Đừng nói ngươi còn trẻ...Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”: Sự nâng đỡ duy
nhất mà Giê-rê-mi-a nhận được là lời hứa của Chúa “Ta ở với ngươi”. Đây cũng là
lời hứa Chúa dành cho những người Chúa sai đi thi hành sứ mạng Người trao phó
(x. Xh 4,12; Gs 1,5; Tl 6,16; 1Sm 3,19; 16,13). Chúa giơ tay chạm vào miệng Giê-rê-mi-a
(câu 9): câu này muốn khẳng định rằng những lời Giê-rê-mi-a rao giảng không phải
là lời của loài người mà là Lời của Thiên Chúa (so sánh với Is 6,6-7; Ed
3,1-4.10-11). Câu 10 cho thấy sứ mạng của Giê-rê-mi-a không chỉ dành cho dân Ít-ra-en
nhưng còn cho các dân khác, và lời rao giảng của ông có cả hai mặt tiêu cực và
tích cực, “Hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu
các dân các nước, để nhổ để lật, để huỷ để phá, để xây để trồng”. Một đàng,
ông loan báo sự chấm dứt giao ước cũ và triều đại hiện hữu của Đavít, nhưng
đàng khác ông loan báo giao ước mới và Đavít mới (x. chương 30-33).
Trình thuật
ơn gọi này soi sáng cho bạn điều gì cho ơn gọi của mình (ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi
gia đình, ơn gọi tu trì)?
b. Hai thị kiến (1,11-16)
Thị kiến về
“cây canh thức”: những cây này nở hoa vào đầu tháng hai. Điều được nhấn mạnh ở
đây là chính Chúa đang canh thức để làm cho Lời của Người được hoàn thành. Thị
kiến “cái nồi đang sôi... và mặt nồi từ phía Bắc nghiêng xuống” ám chỉ hướng mà
quân xâm lăng Ba-by-lon sẽ tấn công Giêrusalem. Bài tường thuật về hai thị kiến
được xếp vào phần nói về ơn gọi của Giê-rê-mi-a vì những thị kiến này báo trước
việc thực hiện những lời tiên tri của Giê-rê-mi-a về Giêrusalem thất thủ.
c. Thiên Chúa khích lệ Giê-rê-mi-a (1,17-19)
Những câu
này kết thúc trình thuật về ơn gọi của Giê-rê-mi-a. Thiên Chúa nhấn mạnh với vị
tiên tri: ông không ở một mình khi đối diện với quân thù (câu 17), chính Chúa sẽ
làm cho ông mạnh sức (câu 18) và cuối cùng ông sẽ chiến thắng vì Chúa ở với ông
(câu 19). Giê-rê-mi-a rất cần sự khích lệ của Chúa, nhất là trong những lúc
chán nản và thất vọng như ta sẽ thấy sau này. Bạn có dám tin vào quyền năng che
chở của Chúa trên cuộc đời mình không?
III. Chương 13-23
1. Tổng quát
Các chương từ 11,1 - 20,18 tiếp tục
trình bày những lời tiên tri Giê-rê-mi-a tố cáo và lên án Giuđa. Tuy nhiên những
lời tố cáo và lên án này được trình bày bằng nhiều hình thức khác nhằm lôi kéo
sự chú ý của Dân Chúa hơn. Cách cụ thể, lời tố cáo và lên án của Giê-rê-mi-a được
trình bày qua những bài giảng (các chương 11, 16, 17, 19, 20), một số dụ ngôn
(các chương (13, 18, 19), và năm lời tự thú rất nổi tiếng của vị tiên tri.
2. Những lời tự thú
Tiên tri
Giêrêmia có năm lời tự thú (11,18 – 12,6; 15,10-21; 17,12-18; 18,18-23;
20,7-18). Đây là những tâm tình sâu kín vị tiên tri bày tỏ với Chúa về ơn gọi,
về sứ mạng, về những đau khổ phải gánh chịu cũng như những giằng co nội tâm của
mình. Những đoạn văn này có chiều sâu nội tâm và giá trị giáo huấn đặc biệt. Hãy
thử tập trung vào lời tự thú thứ năm (20,7-18). Hầu như tuyệt vọng, vị tiên tri
than trách Chúa rằng chính Chúa đã “quyến rũ” ông chấp nhận một sứ mạng vốn chỉ
đem đến toàn là tai hoạ và đau khổ, “suốt
ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con”. Vì thế, vị
tiên tri chán nản đến độ nguyền rủa chính ngày sinh của mình, “tại sao tôi đã không chết ngay trong lòng mẹ,
để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi?”... và toan tính rũ bỏ sứ mạng, “Có lần con tự nhủ: tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”. Thế nhưng chính lúc ấy ông lại cảm
thấy Lời Chúa như ngọn lửa thiêu đốt tận xương tủy khiến ông không chịu nổi, “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy
trong tim”. Dẫu biết rằng sứ mạng tiên tri mang đến quá nhiều đau khổ, Giê-rê-mi-a
tin rằng Chúa ở với ông và kẻ thù của ông sẽ không thể chiến thắng. Và với niềm
tín thác vào Chúa, ông kêu cầu Chúa trả thù thay cho mình.
Bạn hãy đọc lại những lời tự thú của
Giê-rê-mi-a và tâm niệm rằng con đường theo Chúa và làm chứng cho Chúa không phải
là con đường dễ dãi. Ai nghĩ rằng đó là con đường dễ dãi, người ấy cần nhìn lại
xem mình đang đi trên nẻo đường Phúc âm hay một con đường nào khác! Tuy nhiên,
dù khó khăn và đau khổ, ta không cô đơn trên con đường này vì có Chúa đồng
hành, và có rất nhiều anh chị em cũng phải kinh qua những khổ đau và thử thách
đó như Giê-rê-mi-a và họ đang đồng hành với ta.
3. Các dụ ngôn
Giống như
Chúa Giêsu, tiên tri Giê-rê-mi-a hay sử dụng các dụ ngôn khi rao giảng. Hầu hết
các dụ ngôn là những câu chuyện được sáng tác, vd. Người Samari nhân hậu, Người
con hoang đàng, Người giàu có và Ladarô. Một vài dụ ngôn được thể hiện bằng
hành động, vd. Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Khác với tỷ ngôn mang tính
so sánh từng chi tiết, mỗi dụ ngôn có một trọng điểm và ta cần khám phá ý nghĩa
đó.
- Đai lưng tốt đã trở thành vô dụng
(13,1-11): Lưu ý các từ “huỷ diệt” (13,9) và “thắt chặt” (13,11).
- Người thợ gốm (18,1-12: Lưu ý câu
“Ta lại không thể làm được như người thợ
gốm này hay sao?” (18,6).
- Cái bình vỡ (19,1 – 20,6): Lưu ý
hành động Giê-rê-mi-a đập vỡ bình và những lời kèm theo.
4. Giê-rê-mi-a và Chúa Giêsu
Trong lịch sử Ít-ra-en, không có vị
tiên tri nào giống Chúa Giêsu cho bằng Giê-rê-mi-a:
- Giảng dạy bằng dụ ngôn,
- Bị chính dân mình ruồng bỏ
- Khóc cho dân
- Bị tù tội, đánh đập và giết chết.
- Thảm kịch của Giêrusalem thời
Chúa Giêsu cũng tương tự thảm kịch Giêrusalem thời tiên tri Giê-rê-mi-a.
- Cả Chúa Giêsu và tiên tri Giê-rê-mi-a
đã tiên báo sự sụp đổ của Giêrusalem và đền thờ, và cả hai lời tiên tri đều đã ứng
nghiệm.
Vì tiên tri
Giê-rê-mi-a giống Chúa Giêsu như thế nên nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu đã
tự hỏi không biết ông này có phải là Giê-rê-mi-a trở về từ cõi chết không (x.
Mt 16,14).
IV. Chương 24-39
1.
Tiên tri Giê-rê-mi-a và giáo ước mới (30,1 – 33,26)
Gr 31,1-40 cho thấy Giê-rê-mi-a chịu
ảnh hưởng của tiên tri Hô-sê về mặt thần học cũng như về ngôn ngữ và văn phong.
Cả hai đều sử dụng ngôn ngữ hình tượng để nhấn mạnh đến tình yêu Thiên Chúa
dành cho Ít-ra-en, đồng thời loan báo giao ước mới và vĩnh cửu hoặc cuộc hôn
nhân mới và vĩnh cửu (Gr 31,31-34 và Hs 2,18-25).
- Câu 1-6 : loan báo dân sẽ được
thoát cảnh lưu đày, nhấn mạnh tình yêu của Chúa: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở”
- Câu 7-14 : niềm vui của những người
bị lưu đày nay được trở về: “Reo vui lên
mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân”
- Câu 15-20 : kêu gọi dân đừng than
khóc nữa (qua nhân vật Ra-khen). Thánh Mátthêu cũng dùng hình ảnh này (Mt
2,18). Dân sẽ được thoát cảnh lưu đày, sẽ hối cải, và được Thiên Chúa thứ tha.
2. Giao ước mới (31,31-34)
“Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giuđa một
giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm
tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập... Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm
khảm chúng Lề Luật của Ta...” Đây là lời tiên tri nổi tiếng, làm nền cho
giáo huấn thần học của Tân Ước về Giao Ước Mới được thực hiện trong Chúa Giêsu
Kitô: “Anh em là bức thư của Đức Kitô được
giao cho chúng tôi viết, không phải viết bằng mực đen nhưng bằng Thần Khí của
Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá nhưng trên những
tấm bia bằng thịt, tức là lòng người... Khả năng của chúng tôi là do ơn Thiên
Chúa, Đấng ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước
căn cứ trên chữ viết nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần
Khí mới ban sự sống”(2Cr 3,3-6). Cái “Mới” ở đây là hoa trái của giao ước
và phương thế mang lại hoa trái đó: chính Chúa và chỉ một mình Chúa đặt vào tâm
hồn con người năng lực đáp trả tình yêu của Ngài. Chúng ta gọi là ân sủng. Ân sủng
đó được ban cho ta cùng với ơn tha thứ tội lỗi, khi ta đặt niềm tin vào Chúa
Giêsu là Đấng đã chết vì yêu thương ta.
3. Tiên tri thật và tiên tri giả (27,1
– 29,32)
Chương 27
trình bày bối cảnh cuộc xung đột giữa tiên tri Giê-rê-mi-a và Kha-nan-gia. Năm
593 trước Công nguyên, vua Xít-ki-gia-hu của Giuđa âm mưu chống lại Na-bu-cô-nô-xo
bằng cách mời đại diện các nước Ê-đôm, Mô-áp, Am-mon, Tia và Si-đôn đến
Giêrusalem. Dùng một cái ách làm tượng trưng (dụ ngôn bằng hành động), Giê-rê-mi-a
loan báo cho vua cũng như các vị đại sứ rằng họ sẽ không thành công nhưng sẽ phải
chịu cái ách thống trị của Ba-by-lon.
Trong bối cảnh trên, chương 28
trình bày cuộc đối đầu giữa Giê-rê-mi-a (tiên tri thật của Chúa) và Khan-nan-gia
(tiên tri giả). Khan-nan-gia loan báo thành công (28,1-4). Giê-rê-mi-a tố cáo
Khan-nan-gia nói sai (28,5-9). Khan-nan-gia tháo cái gông ra khỏi cổ của Giê-rê-mi-a
mà ném xuống đất và lập lại lời loan báo về sự thành công (28,10-11). Cuối cùng
Giê-rê-mi-a nói tiên tri về cái chết của Khan-nan-gai trong vòng một năm vì “Đức Chúa chẳng hề sai ông, thế mà ông lại
làm cho dân này tin vào điều dối trá”.
Chương 29 tiếp tục trình bày cuộc
chiến đấu của Giê-rê-mi-a chống lại các tiên tri giả. Trong cảnh lưu đày Ba-by-lon,
các tiên tri giả quả quyết với dân rằng họ sẽ sớm được hồi hương nhưng Giê-rê-mi-a
phi bác lời tiên tri đó bằng cách gửi cho dân một lá thư. Ngài khuyên dân chấp
nhận định cư ở đó (câu 4-6), cầu nguyện cho sự thịnh vượng của Ba-by-lon (câu
7), đừng để các tiên tri giả lường gạt (câu 8-9). Sau đó (câu 10-14) Giê-rê-mi-a
đoan quyết với dân rằng sau 70 năm, Chúa sẽ đảo ngược số phận của họ và đem họ
về quê hương xứ sở của họ.
4. Làm thế nào để phân biệt tiên
tri thật và tiên tri giả?
Hãy đọc Gr
28,7-9 và 29,8-9 và tìm ra một vài dấu hiệu nhận diện tiên tri giả. “Các tiên tri có trước tôi và ông từ ngàn xưa
đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai
ương và ôn dịch; còn tiên tri nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời
tiên tri ấy ứng nghiệm, ông ta mới được nhìn nhận là tiên tri Đức Chúa sai đến
thực sự”(28,8-9). “Các ngươi chớ để
cho mình bị lầm lạc vì các tiên tri đang ở giữa các ngươi cũng như vì các tay
bói toán; đừng tin theo mộng mị các ngươi mơ thấy, bởi vì chúng chỉ nhân danh
Ta mà tuyên sấm điều dối trá cho các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng đi”(29,8-9).
V. Chương 40-52
1. Phần kết sách Giê-rê-mi-a (52,1-34)
a. Giêrusalem sụp đổ (52,1-16)
Cuộc vây
hãm bắt đầu vào tháng giêng năm 588 trước Công nguyên và kết thúc vào tháng 7
năm 587. Binh lính bỏ chạy, bị bắt, vua Xít-ki-gia-hu bị đâm mù mắt... những điều
này đã được nói đến ở chương 39,5-7. Một tháng sau, Nơ-vu-dác-a-đan, quan chỉ
huy thị vệ của vua Ba-by-lon, đến để giám sát việc phá hủy thành phố và đưa dân
đi đày.
b. Lưu đày (52,24-30)
Đem dân
thua trận đi lưu đày là cách thế hiệu quả nhất để ngăn chặn những cuộc nổi loạn
có thể bùng phát. Át-sua đã từng làm như thế (x. 2V 17). Lưu đày không có nghĩa
là đưa toàn bộ dân chúng sở tại đi, nhưng chỉ đưa những người có thế lực và ảnh
hưởng đi vì sự hiện diện của họ có thể khơi dậy các cuộc phản kháng và chống đối.
Câu 28-30 đưa ra những con số dân lưu đày thuộc 3 nhóm: năm 597, 587, và năm 582.
c. Vua Giơ-hô-gia-khin được tha (52,31-34)
Năm 598,
Ông vua trẻ này lên nối nghiệp cha mới được 3 tháng thì bị đày sang Ba-by-lon
làm con tin. Ông được trả về năm 561. Nhiều người Do thái đang bị lưu đày cũng
như đã được về quê hương nhìn vị vua này là vị vua chính thức (chứ không phải
vua Xít-ki-gia-hu). Vì thế việc ông ra khỏi tù được coi là dấu chỉ hy vọng cho
tương lai. Cách đối xử đặc biệt mà vua Ba-by-lon dành cho vị vua này cũng nhằm
nói lên ý nghĩa này: nhắc nhớ cho dân Ít-ra-en lời tiên tri của Giê-rê-mi-a rằng
thời lưu đày sẽ chấm dứt và họ sẽ được trở về miền đất quê hương.
2. Tầm ảnh hưởng của tiên tri Giê-rê-mi-a
Giống như
Môsê và Chúa Giêsu, Giê-rê-mi-a sống vào thời điểm bước ngoặt của lịch sử, và
đóng vai trò cầu nối giữa giai đoạn cũ và giai đoạn mới. Trong thị kiến mở đầu,
sứ vụ tiên tri của ngài được mô tả là “để
nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây, để trồng” (1,10). Trong thực tế, Ngài
đã làm đúng từng chữ như thế. Ngài đã thấy đế quốc Át-sua biến mất khỏi vũ đài
lịch sử, và Ba-by-lon bước lên thay thế. Ngài đã loan báo sự sụp đổ của vương
quốc Giuđa và giao ước Xi-nai, đồng thời tiên báo việc thiết lập Giao Ước Mới.
Ngài đã tuyên bố rằng các vua dòng dõi Đavít bị ruồng bỏ, đồng thời loan báo một
Đavít mới. Có thể nói về Giê-rê-mi-a rằng không có ai đóng góp nhiều cho dân tộc
mình bằng Ngài nhưng lại là người bị đối xử tệ hại nhất. Tuy nhiên điều quan trọng
không phải là những đau khổ Ngài phải chịu, mà là sự phục sinh của một dân tộc.
Sự phục sinh này là một trong những kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Nhưng Thiên
Chúa lại làm việc qua con người, và Giê-rê-mi-a là người đóng góp tích cực nhất.
Khi Ngài bắt đầu xuất hiện vào năm
626 trước Công nguyên, khó có người Ít-ra-en nào có thể hình dung Giêrusalem sẽ
bị vây hãm và Đền thờ bị phá huỷ. Ai cũng nghĩ rằng Thiên Chúa đã tuyển chọn
các vua dòng dõi Đavít và đã gắn bó với Giêrusalem, nên Giêrusalem bất khả xâm
phạm. Việc họ đánh bại Sennacherib thời I-sai-a lại càng làm cho họ vững tin
hơn. Đây là lý do giải thích tại sao họ chống lại Ba-by-lon và đến phút cuối, vẫn
hy vọng Chúa sẽ can thiệp và hạ gục vua Ba-by-lon.
Giê-rê-mi-a đã cố gắng chống lại
quan điểm tôn giáo sai lầm này. Ngài nhắc cho dân chúng nhớ rằng Thiên Chúa có
thể hủy diệt Giêrusalem và ruồng bỏ hàng vua chúa thuộc dòng dõi Đavít. Điều Ngài
nhấn mạnh là việc Giêrusalem thất thủ không phải là do đế quốc Ba-by-lon nhưng
là công việc của Chúa, và Chúa dùng Ba-by-lon như khí cụ. Thế là ngài bị chế giễu,
khinh khi, nguyền rủa. Các tiên tri giả chiến thắng! Thế nhưng khi Ngày của Đức
Chúa đến, khi Giêrusalem bị tàn phá, khi vua chúa bị lưu đày... người ta nhớ lại
lời của Giê-rê-mi-a. Và lời rao giảng của ngài, những dụ ngôn (bằng lời và hành
động) của Ngài được nhìn trong ánh sáng mới. Dân Chúa học được bài học đó đã là
đáng quý nhưng phải trả giá quá đắt. Điều đáng mừng là lời tiên tri của Giê-rê-mi-a
không dừng ở đó. Bên cạnh thúng vả xấu, còn có thúng vả tốt (24,1-10); bên cạnh
lời loan báo hủy diệt, còn có lời hứa hy vọng: “Khi mãn 70 năm, Ta sẽ viếng thăm để trừng phạt Ba-by-lon và dân ấy vì tội
lỗi của chúng...”(25,12) và “Người ta
sẽ còn tậu nhà cửa, ruộng nương, vườn tược trong xứ này”(32,15). Và những lời
loan báo về giao ước mới (31,31-34; 32,40) cũng như lời hứa về một Đavít mới
(33,14-26).
Trong cảnh tang thương, người ta nhớ
lại lời tiên tri Giê-rê-mi-a và hiểu ra rằng tương lai của dân tộc tùy thuộc
vào việc người ta trung thành hay bất trung với giao ước đã ký kết với Thiên
Chúa. Trong ánh sáng đức tin, người ta hiểu được ý nghĩa những biến cố xảy ra.
Và đức tin ấy tiếp tục được thắp lên giữa tăm tối của thời lưu đày, trở thành gạch
nối giữa một Ít-ra-en đau khổ của lưu đày và một Ít-ra-en được hồi sinh từ nấm
mồ lưu đày để bước vào một trang mới của lịch sử Dân Chúa. Giê-rê-mi-a là người
đã đóng góp phần tích cực nhất cho lịch sử đó.
CUỐN SÁCH 31
SÁCH AI-CA (Ac)
1.
Bối cảnh lịch sử và tôn giáo
a. Lưu đày
Trong những
năm sau khi Giêrusalem bị tàn phá (587 trước Công nguyên), một số người Do thái
bị lưu đày sang Ba-by-lon, số khác chạy trốn sang Ai Cập, số khác nữa vẫn ở lại
quê nhà. Vào năm 539, vua Ba Tư là Ky-rô đánh bại Ba-by-lon và thiết lập đế quốc
Ba Tư. Một trong những sắc chỉ đầu tiên của ông là cho phép các dân lưu đày được
trở về quê hương của họ.
b. Người Do thái sau lưu đày
Nhiều người
đã trở về quê hương nhưng số đông hơn vẫn ở lại trên đất lưu đày (nay đã thành
quen thuộc với họ). Những người ở lại tạo thành cộng đoàn tản mác (diaspora),
đông nhất là ở vùng Mesopotamia và Ai Cập. Dĩ nhiên có nhiều người đã đánh mất
niềm tin truyền thống của cha ông nhưng số đông hơn vẫn trung thành với tôn
giáo truyền thống. Trong những năm kế tiếp đó, cộng đoàn Do thái tản mác này đã
phát triển mạnh cả về mặt vật chất lẫn đời sống tôn giáo. May mắn cho tương lai
tôn giáo của Ít-ra-en là nhiều người lưu đày lại xuất thân từ những gia đình
trí thức và có ảnh hường (các tư tế, ký lục và ngôn sứ) nên dân lưu đày vẫn tiếp
tục được hướng dẫn nhờ thành phần ưu tú này. Sống trong cảnh lưu đày, họ phải
xa đền thờ, do đó đời sống tôn giáo tập trung vào các hội đường và những văn bản
được linh hứng. Họ tụ họp trong các hội đường, đọc và nghiên cứu Lề Luật và các
tiên tri, rồi cũng trong giai đoạn này xuất hiện các sách như Ai-Ca, Tô-bi-a,
Ét-te, Giu-đi-tha, Khôn ngoan, và Ba-rúc.
2. Ai-Ca
a. Tác
giả và thời gian biên soạn
Sách được gọi là “Than vãn của Giê-rê-mi-a”
khi tiên tri nhìn thấy sự sụp đổ của Giêrusalem năm 587 trước Công nguyên. Ngài
nhìn thấy làn khói bốc lên từ thành phố, nghe thấy tiếng kêu than của phụ nữ,
nhìn thấy xác người nằm ngổn ngang trong cảnh hoang tàn. Tuy nhiên không chắc vị
tiên tri là tác giả của tất cả các lời than trong Sách. Có thể hai bài thơ đầu
là của thị chứng nhân, còn những bài khác được biên soạn trong nhiều năm sau
này. Điều chắc chắn là sách Ai-Ca như ta có hiện nay đã được hoàn thành khoảng
năm 538 trước Công nguyên. Để tưởng niệm biến cố Giêrusalem bị tàn phá (587 trước
Công nguyên và 70 sau CN), người Do thái đọc Sách này trong các hội đường. Sách
Ai-ca gồm có 5 chương:
Chương |
Chương |
1.
BÀI THỨ NHẤT |
3. BÀI
THỨ BA |
2.
BÀI THỨ HAI |
4.
BÀI THỨ TƯ |
|
5.
BÀI THỨ NĂM |
b. Nội dung
Sách Ai-Ca gồm 5 bài ca:
(1) Giêrusalem bị bỏ rơi và thất sủng
(1,1-22).
(2) Cơn giận của Chúa chống lại Xi-on
(2,1-22).
(3) Những đau khổ của vị tiên tri
và dân Chúa (3,1-66).
(4) Nỗi tang thương của thành bị
chiếm đóng (4,1-22).
(5) Lời than thở và khẩn cầu của vị
tiên tri (5,1-22).
Nội dung
chính: vừa suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị của đau khổ vừa nói lên niềm hy vọng
và cậy trông vào Thiên Chúa.
CUỐN SÁCH 32
SÁCH BA-RÚC (Br)
1.
Tác giả
Ba-rúc là thư ký của Giê-rê-mi-a (Gr
36). Có lẽ ông đã đi theo tiên tri Giê-rê-mi-a trong cảnh lưu đày, và ông rất
quen với những thư Giê-rê-mi-a gửi cho dân lưu đày (chương 29 – 33). Thời xưa,
có những tác giả vô danh viết sách nhưng lại đề tên tác giả là những vị nổi tiếng
của thời trước. Chính vì thế có nhiều Thánh vịnh được gán cho vua Đavít và những
sách Khôn ngoan được gán cho vua Sa-lô-môn. Tương tự như thế, có thể có Sách được
gán cho Ba-rúc là người thư ký nổi tiếng của Giê-rê-mi-a. Sách Ba-rúc gồm có 6
chương:
Chương |
Chương |
1.
Ông Ba-rúc và cộng đồng Do-thái ở Ba-by-lon – Lời nguyện của những người lưu
đày |
4. Giêrusalem than
thở và hy vọng |
2. Lời
cầu khẩn |
5. Giêrusalem than
thở và hy vọng (tiếp) |
3. Ơn khôn ngoan
dành cho Ít-ra-en |
6. Thư của ông
Giê-rê-mi-a |
2. Một cái nhìn tổng quát về sách
Ba-rúc
Nhập đề (1,1-14)
Lời kinh sám hối (1,15 – 3,8).
Bài thơ ca tụng sự khôn ngoan (3,9 – 4,4).
Giêrusalem than van và hy vọng (4,5 – 5,9).
Thư của Giê-rê-mi-a (6,1-72).
CUỐN SÁCH 33
SÁCH Ê-DÊ-KI-EN (Ed)
I. Tổng quát
Có thể ông Ê-dê-ki-en là một tư tế bị
phát lưu sang Can-đê sau cuộc công hãn Giêrusalem lần thứ nhất vào năm 598 TCN.
Chính đây là một nơi ông được Thiên Chúa gọi như lời ông đích thân kể lại (ch.1
và ch.2) (Dẫn nhập Sách Ê-dê-ki-en, Giờ
Kinh Phụng Vụ). Sách Ê-dê-ki-en gồm có 48 chương:
Chương |
Chương |
1. Thị kiến về xa
giá của ĐỨC CHÚA |
25. Hạch tội dân
Am-mon - Hạch tội Ê-đôm - Hạch tội Phi-li-tinh |
2. Thị kiến về cuốn
sách |
26. Hạch tội Tia -
Bài ai ca khóc thành Tia |
3. TRƯỚC KHI
GIÊ-RU-SA-LEM BỊ VÂY HÃM - Ngôn sứ
Ê-dê-ki-en được dành riêng để phục vụ Lời Chúa |
27. Bài ai ca thứ
hai khóc thành Tia sụp đổ |
4. Báo trước cuộc
vây hãm Giê-ru-sa-lem |
28. Hạch tội vua
Tia - Vua Tia bị lật nhào - Hạch tội Xi-đôn |
5. Báo trước cuộc
vây hãm Giê-ru-sa-lem (tiếp) |
29. Hạch tội Ai-cập |
6. Hạch tội núi đồi
của Ít-ra-en - Tội lỗi của Ít-ra-en |
30. Ngày ĐỨC CHÚA
trừng phạt Ai-cập |
7. Sắp đến giờ tận
số |
31. Cây hương bá |
8. Thị kiến về tội
lỗi của Giê-ru-sa-lem |
32. Con cá sấu -
Vua Pha-ra-ô xuống âm phủ |
9. Hình phạt |
33. Ngôn sứ, người
canh gác - Sa đoạ và hối cải - Giê-ru-sa-lem thất thủ - Xứ sở bị tàn phá - Hiệu
quả của lời giảng |
10. Vinh quang ĐỨC
CHÚA rời bỏ Đền Thờ |
34. Các mục tử
Ít-ra-en |
11. Tội
lỗi của Giê-ru-sa-lem - Giao ước mới cho những kẻ lưu đày - Vinh quang ĐỨC
CHÚA rời bỏ Giê-ru-sa-lem
|
35. Hạch tội các
núi Ê-đôm |
12. Giả bộ làm người
di cư |
36. Các lời sấm về
núi non Ít-ra-en |
13. Hạch tội các
ngôn sứ giả - Các nữ ngôn sứ giả |
37. Những bộ xương
khô |
14. Hạch tội thờ ngẫu
tượng - Trách nhiệm cá nhân |
38. Hạch tội Gốc,
vua của Ma-gốc |
15. Dụ ngôn cây nho |
39. Lời kết |
16. Câu chuyện tượng
trưng về lịch sử Ít-ra-en |
40.
"LUẬT" CỦA NGÔN SỨ Ê-DÊ-KI-EN - Đền Thờ tương lai - Tường bên ngoài
- Cổng đông - Sân ngoài - Cổng bắc - Sân trong. Cổng nam.
- Phần phụ của các cổng - Đền Thờ. Tiền đình. |
17. Ngụ ngôn chim
phượng hoàng |
41. Cung thánh -
Toà nhà phía đông… |
18. Trách nhiệm cá
nhân |
42. Các phòng của Đền
Thờ - Kích thước của sân |
19. Bài ca khóc các
ông hoàng Ít-ra-en |
43. ĐỨC CHÚA trở lại
Đền Thờ - Thánh hiến bàn thờ |
20. Chuyện bất
trung của Ít-ra-en |
44. Quy tắc để được
vào Đền Thờ - Các thầy Lê-vi - Các tư tế |
21. Thanh gươm của
ĐỨC CHÚA - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng - Trừng phạt dân Am-mon |
45. Phân chia xứ sở.
Phần của ĐỨC CHÚA. - Phần của ông hoàng - Các lễ phẩm dùng vào việc phụng tự
- Lễ Vượt Qua |
22. Tội ác của
Giê-ru-sa-lem |
46. Các quy tắc
khác |
23. Câu chuyện tượng
trưng cho Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri |
47. Con suối từ Đền
Thờ chảy ra - Ranh giới của xứ |
24. Báo trước cuộc
vây hãm Giê-ru-sa-lem - Ngôn sứ gặp thử thách |
48. Phân chia xứ sở
- Các cổng thành Giê-ru-sa-lem |
1. Nội dung: Sách Ê-dê-ki-en gồm 5 phần
chính:
- Chương 1-3 : Ơn gọi
của Ê-dê-ki-en
- Chương 4-24 : Những
lời tiên tri về vận mệnh Giêrusalem
- Chương 25-32 : Những
lời tiên tri chống lại các nước khác
- Chương 33-39 : Niềm
hy vọng hồi sinh sau khi Giêrusalem thất thủ
- Chương 40-48 : Thị
kiến về Đền thờ mới và sự phục hồi đời sống chính trị cũng như tôn giáo của
Ít-ra-en.
2. Văn loại
Sách
Ê-dê-ki-en được xếp vào thể văn tiên tri. Cũng như các tiên tri khác, Ê-dê-ki-en
là phát ngôn viên của Chúa. Khi cộng đoàn phải đối diện với những khủng hoảng
tôn giáo và chính trị. Ê-dê-ki-en nhân danh Chúa đưa ra những lời lên án hoặc
khích lệ họ. Đối tượng mà Ê-dê-ki-en nhắm tới là cộng đoàn Do thái ở Giuđa và
Ba-by-lon vào thế kỷ VI trước Công nguyên. Ê-dê-ki-en nói tiên tri bằng nhiều
hình thức: thị kiến, những hành động biểu tượng, những ngụ ngôn, diễn từ.
II. Chương 1-12. Ơn gọi
của Ê-dê-ki-en (1,1 – 3,27)
1. Sự
thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi của con người
Bài tường thuật về ơn
gọi của Ê-dê-ki-en khá giống với những bài tường thuật về ơn gọi của I-sai-a và
Giê-rê-mi-a. Tác giả làm nổi bật sự tương phản giữa vinh quang Thiên Chúa và sự
thấp hèn của con người, giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi con
người: “Đó là một cái gì trông tựa vinh
quang của Đức Chúa. Vừa thấy thế, tôi liền sấp mặt xuống”(1,28). Cảm nghiệm
này giúp cho các tiên tri – và mỗi Kitô hữu – ra đi công bố Lời Chúa với lòng
khiêm tốn, đồng thời giữ vững niềm tin tưởng cậy trông: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en... Đừng sợ
chúng, cũng đừng sợ những lời chúng nói... Người cứ nói với chúng những lời của
Ta”(2, 3-6).
2. Ăn cuộn sách (2,1 – 3,15)
Đức
Chúa phán với Ê-dê-ki-en: “Hãy ăn cuộn
sách này rồi đi nói với nhà Israel”(3,1). Ê-dê-ki-en đã ăn và cảm nhận cuộn
sách thật ngọt ngào (3,3). Lời Chúa là mật ngọt cho tâm hồn. Có nhiều thứ mật
ngọt. Có những loại mật ngọt dẫn đến hư vong, chỉ có Lời Chúa mới mang lại
hương vị hạnh phúc, bình an và niềm vui sâu xa, bền vững. Tiên tri đích thực
không rao giảng lời lẽ và sự khôn ngoan của riêng mình nhưng là Lời của Chúa
(x.1Cr 2,4). Muốn thế, bản thân tiên tri phải được thấm nhuần Lời Chúa, phải
“ăn và nuốt” lấy Lời Chúa.
3. Nhiệm vụ người canh gác (3,17-21)
Đức
Chúa giao cho Ê-dê-ki-en nhiệm vụ “canh gác nhà Israel.” Tiên tri thi hành
nhiệm vụ này bằng cách nghe Lời Chúa rồi thay mặt Chúa loan báo cho dân. Phải
loan báo cách trung thành, dù là những lời người ta không muốn nghe; nếu không,
bản thân tiên tri sẽ bị trừng phạt: “nếu
Ta phán với kẻ gian ác rằng ‘Chắc chắn ngươi sẽ phải chết,’ và nếu ngươi không
báo cho kẻ gian ác đó biết… thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội lỗi của
nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó”(3,18).
Được
chia sẻ chức năng tiên tri của Chúa Kitô, bạn đã thi hành nhiệm vụ canh gác này
với ai? Bằng cách nào?
4. Những hành động biểu
tượng
a. Bốn hành động
biểu tượng trong Ed 3,16 – 5,17
- Vẽ trên gạch hình ảnh
Giêrusalem bị vây hãm.
- Nằm nghiêng bên trái
rồi bên phải trong một số ngày để loan báo số năm dân Ít-ra-en và Giuđa bị lưu
đày.
- Phần lương thực.
- Cắt tóc cạo râu và
phân chia râu tóc.
b. Ý nghĩa
Những
hành động biểu tượng không nhằm mục đích thỏa mãn tính tò mò của người xem
nhưng nhằm loan báo Lời Chúa bằng những hành động cụ thể. Các bí tích và cử
hành phụng vụ cũng là những hành động diễn tả và chuyển thông ân sủng của Thiên
Chúa nhưng nhiều khi ta không quan tâm vì đã quá quen. Đức Bênêđitô XVI nhấn
mạnh: “Giáo lý nhiệm huấn cũng phải quan
tâm đến việc trình bày ý nghĩa của các dấu chỉ chứa đựng trong các nghi lễ.
Điều này đặc biệt quan trọng cho thời đại kỹ thuật cao như thời đại của chúng
ta, một thời đại có nguy cơ đánh mất khả năng nhận biết các dấu chỉ và biểu
tượng”(Tông huấn Bí Tích Tình Yêu, số
64). Trong thời đại thế tục hoá ngày nay, cuộc sống chân chính của Kitô hữu
cũng có thể là những hành động biểu tượng loan báo Tin Mừng.
III. Chương 13-24
1.
Tổng quát
Chương 13 được chia
thành hai phần đối xứng nhau: lên án các tiên tri nam (câu 2-16) và các nữ tiên
tri (câu 17-23). Một số học giả cho rằng trong Thánh Kinh Cựu Ước, danh hiệu
tiên tri chỉ được dành cho một số ít phụ nữ (Mi-ri-am trong Xh 15,21; Đơ-vô-ra
trong Tl 4,4; vợ của I-sai-a trong Is 8,3). Vì thế các nữ tiên tri ở đây thực
ra là những phù thủy vì họ sử dụng pháp thuật (x.1Sm 28,7 tt). Nhưng những học
giả khác lại cho thấy sự giống nhau giữa các tiên tri giả này, dù là nam hay
nữ, cho nên có thể gọi tất cả họ là phù thủy hoặc tiên tri.
2. Nhận diện các tiên tri giả
Tiên
tri giả là những người chỉ nói theo ý riêng của mình (13,2. 17). Tiên tri giả
là những người công bố những thị kiến hão huyền và lời sấm dối trá mà lại dám
mạo nhận là lời sấm của Chúa: “Ta sẽ ra
tay trừng phạt hạng tiên tri thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm dối trá”(13,
6-9. 23). Tiên tri giả là những người nói tiên tri để tìm tư lợi cho mình, đồng
thời phỉnh gạt dân chúng: “Các ngươi đã
xúc phạm đến Ta ... chỉ vì những nắm lúa mạch, những mẩu bánh, đến nỗi các
ngươi giết chết những người đáng lẽ không phải chết, và cho sống những người
không đáng sống”(13,19).
3. Cảnh giác trước các tiên tri giả
Thánh
Phaolô nhắn nhủ môn đệ của Ngài, cũng là nhắn nhủ các Kitô hữu ở mọi thời đại,
“Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe
giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến
thầy nọ làm cho họ vui tai. Họ sẽ ngoảnh đi không nghe lời chân lý nhưng hướng
về những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu
đựng đau khổ, hãy làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ
của anh”(2Tm 4,3-5).
4. Trách nhiệm cá nhân (14,12-23,
18,1-32)
a. Mỗi
người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình
Tiên tri Ê-dê-ki-en tuyên
bố rằng ngay cả những nhân vật nổi tiếng đạo đức trong quá khứ như No-ê, Đa-ni-ên
và Gióp cũng không thể ngăn nổi cơn giận của Chúa đối với dân tội lỗi. Sự công
chính cứu thoát cá nhân người công chính chứ không thể cứu người khác: “Chúng cũng chẳng cứu nổi con trai con gái
mình, chỉ mình chúng được cứu thoát vì đã sống công minh chính trực”(14,20).
Không thể chỉ cậy dựa vào những việc lành trong quá khứ để an tâm trong lối
sống tội lỗi hiện tại: “Nếu kẻ công chính
từ bỏ lẽ công chính của mình mà theo đòi kẻ gian ác làm mọi điều ghê tởm, nó
làm thế mà được sống sao?”(18,24). Phải sống công chính ngay trong hiện
tại, phải trở về với Chúa mỗi ngày: “Nếu
kẻ gian ác từ bỏ mọi tội lỗi nó đã phạm mà tuân giữ lề luật của Ta...chắc chắn
nó sẽ sống chứ không phải chết”(18,21).
b. Sống tinh thần trách nhiệm trước mặt Chúa
Thiên
Chúa không vui thích vì con người phải chết (18,23.32), đồng thời không ai có
thể trách cứ Thiên Chúa về án xử công minh của Người (14,23). Không thể dựa vào
câu ngạn ngữ “Đời cha ăn mặn, đời con
khát nước” để đổ lỗi cho người khác và trốn tránh trách nhiệm của mình
(18,2-4). Điều quan trọng là chu toàn trách nhiệm của mình và sống ngay thẳng
trước mặt Chúa: “Hãy trở lại và hãy sống”(18,32).
5. Người vợ bất trung (16,1-63)
a. Ngôn
ngữ ẩn dụ và lịch sử Ít-ra-en
Ê-dê-ki-en được coi là
một trong những bậc thầy về việc sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ, nghĩa là kể chuyện rồi
áp dụng vào hoàn cảnh hiện tại. Tài năng đó được thể hiện cụ thể trong chương
16 và các chương khác (15,17,19,23,31,34).
- Câu 1-14 mô tả
Giêrusalem như một đứa trẻ mồ côi, được sinh ra từ dân A-mô-ri và Khết, nhưng
lại bị ném ra bên ngoài, không ai chăm sóc. Chính Chúa đã chăm sóc đứa trẻ đó
thành một thiếu nữ xinh đẹp. Rồi Chúa quay lại và lập giao ước với Giêrusalem.
Giêrusalem trở thành thiếu nữ nổi tiếng vì nhan sắc, vì phẩm giá cao quý và
những ân huệ tuyệt vời.
- Câu 15-34 lại mô tả
Giêruslaem trở thành sa đoạ vì chính nhan sắc mỹ miều của nó: hoang dâm với mọi
khách qua đường, đàng điếm trên các tế đàn, biến con cái mình thành của lễ dâng
các ngẫu tượng, hoang dâm với Ai Cập, Át-sua, Ba-by-lo-ni-a đến nỗi “người đàng điếm không phải là kẻ chạy theo
ngươi mà là chính ngươi. Người trả tiền là ngươi chứ không phải chúng”(16,34).
- Câu 35-43 loan báo án
phạt mà Giêrusalem phải chịu: bị lột trần và xử phạt như đối với những kẻ sát
nhân và ngoại tình (câu 37-38, x. Dnl 22,22; Lv 20,10). Giêrusalem sẽ bị xử
phạt trước mặt các phụ nữ khác (các dân khác). Rồi cơn giận của Chúa sẽ nguôi ngoai
(câu 42).
- Câu 44-58 so sánh
Giêrusalem với các chị em là Sa-ma-ri-a và Xơ-đôm. Giêrusalem là phụ nữ tội lỗi
nhất và bị trừng phạt nặng nề.
- Phần kết (câu 59-63)
lại mở ra một viễn tượng lạ lùng: Thiên Chúa khôi phục mọi sự cho Giêrusalem,
nhắc nhớ giao ước cũ, và tuyên bố sẽ thiết lập giao ước vĩnh cửu
b. Nhìn lại giao ước yêu thương với Thiên Chúa
Giao
ước này được thiết lập từ tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa, tình thương
vượt trên mọi yếu hèn, phản trắc và sa ngã của ta. Hãy sống Đạo như một giao
ước tình yêu và không ngừng làm mới lại giao ước đó mỗi ngày.
IV. Chương 25-36
1. Tiên tri, người canh gác (33,1-9; 3,17-21)
Tiên tri có nhiệm vụ
trung chuyển Lời Chúa cho dân, bảo vệ dân, canh giữ dân, lôi kéo kẻ gian ác
khỏi đường tội lỗi và khích lệ người công chính trên đường công chính. Thiên
Chúa đòi hỏi tiên tri phải loan báo cho kẻ gian ác biết án xử của Thiên Chúa;
nếu không, không những kẻ gian ác bị trừng phạt nhưng chính tiên tri cũng bị
trừng phạt: “Nếu người canh gác thấy gươm
đến mà không thổi kèn, khiến dân không được báo, và gươm đến làm cho người nào
phải thiệt mạng, thì kẻ ấy chết vì tội lỗi của mình, nhưng máu người ấy, Ta sẽ
đòi người canh phải trả”(33,6). Nhiệm vụ của người canh gác đòi hỏi phải
tỉnh thức và cảnh giác để có thể nhận ra những âm mưu và nguy hiểm đang đe doạ
dân trong thành. Về mặt thiêng liêng, hình ảnh này gợi về sứ điệp Tin Mừng: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”(Lc 21,36),
tỉnh thức trước những cám dỗ tinh vi của quỷ dữ, tỉnh thức trước tiếng gọi thầm
kín của Chúa, tỉnh thức cho mình và cho những người Chúa đã trao phó cho ta. Tỉnh
thức giữa lúc mọi người đang ngủ là điều không dễ, nhất là khi phải tỉnh thức
thường xuyên. Vì thế cần cầu nguyện. Nguồn sức mạnh của tỉnh thức là tình yêu,
như người mẹ tỉnh thức trước tiếng khóc của đứa con. Tình yêu đó là đức Ái mục
tử mà cha mẹ phải có đối với con cái, linh mục phải có đối với cộng đoàn đã
được trao phó cho mình.
2. Dụ ngôn về các mục
tử (34,1-16)
Các
mục tử trong quá khứ đã không chu toàn nhiệm vụ đối với đoàn chiên, nhất là
những con chiên bệnh tật, bị thương tích, lạc đường... (câu 2-6) Vì thế Thiên
Chúa sẽ trừng phạt các mục tử và giải thoát đoàn chiên: “Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các
mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên Ta khỏi miệng
chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa”(34,10).
Chính
Chúa sẽ đảm nhận trách nhiệm mục tử: “Đây,
chính Ta sẽ chăm sóc đoàn chiên của Ta và thân hành kiểm điểm”(34,11). Chúa
sẽ là mục tử tốt lành, chăm sóc đoàn chiên, quy tụ chiên tản mác, kiếm tìm
chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và
dòng suối mát.
Người
Kitô hữu đọc đoạn văn này không thể không nhớ đến Ga 10,1-18, ở đó Chúa Giêsu
khẳng định, “Tôi chính là Mục tử nhân
lành”. Đặc điểm của vị mục tử nhân lành là Ngài biết chiên và hy sinh cho
đoàn chiên: “Tôi biết chiên của Tôi và
chiên Tôi biết Tôi, như Chúa Cha biết Tôi và Tôi biết Chúa Cha, và Tôi hi sinh
mạng sống cho đoàn chiên”(Ga 10,15). Đây cũng là điều mọi Kitô hữu phải
quan tâm suy nghĩ vì đã được chia sẻ chức năng mục tử của Chúa Kitô qua bí tích
Thánh Tẩy.
3. Tách biệt đoàn chiên
(34,17-31)
Ở
đây, chủ đề được chuyển từ việc lên án các mục tử không chăm sóc đoàn chiên
sang những con chiên lạm dụng quyền lợi của mình. Những con chiên khỏe mạnh,
béo tốt nhưng chỉ biết nghĩ đến mình và gây thiệt hại cho những con chiên gầy
gò đau yếu. Chúng sẽ bị xét xử: “Ta sẽ
xét xử giữa chiên với chiên”(34,22). Những lời này giúp các Kitô hữu ý thức
về đời sống trong cộng đoàn Giáo Hội, không chỉ là mối tương quan giữa giáo dân
và chủ chăn, nhưng còn là mối tương quan giữa giáo dân với nhau. Làm sao để xây
dựng một tương quan huynh đệ, liên đới, chia sẻ và đồng cảm với nhau; đó là một
trong những đòi hỏi mục vụ hàng đầu phải quan tâm tới.
Các
câu 23-24 chuyển sang một chủ đề mới là loan báo vị mục tử mới, một hoàng tử Mêsia.
Đavít sẽ là mục tử/hoàng tử được hứa ban và Đức Chúa là Thiên Chúa của chúng: “Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt
chúng; nó sẽ chăn dắt chúng, đó là Đavít, tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt
chúng, chính nó sẽ là mục tử của chúng... Đavít, tôi tớ của Ta, sẽ là ông hoàng
ở giữa chúng”(34,23).
Sang
đến câu 25-27, không còn hình ảnh mục tử nữa; thay vào đó Ê-dê-ki-en nói đến
giao ước bình an giữa Thiên Chúa và dân Người: “Ta sẽ thiết lập với chúng một giao ước bình an”(34,25). Chính Chúa
sẽ đem bình an và thịnh vượng đến cho Dân Người. Vị hoàng tử bình an và mục tử
lý tưởng mà Ê-dê-ki-en loan báo chính là Chúa Giêsu, Thiên Chúa xuống thế làm
người, và ở giữa loài người. Ngài đến để đem bình an cho nhân loại, thiết lập
giao ước mới và vĩnh cửu bằng máu Ngài đổ ra trên thập giá.
V. Chương 37-48
1. Thị kiến về những
bộ xương khô (37,1-14)
Thị kiến này là một trong những trình thuật
được biết đến nhiều nhất trong sách Ê-dê-ki-en. Trình thuật gồm hai phần: thị
kiến (câu 1-10) và giải thích (câu 11-14). Cơ hội để vị tiên tri công bố thị
kiến này là lúc dân lưu đày đã mất hết hy vọng vào tương lai. Họ đã từng nghĩ
rằng Giêrusalem là bất khả xâm phạm nhưng thực tế chứng minh đó chỉ là niềm hy
vọng hão huyền, và bây giờ chỉ còn lại niềm tuyệt vọng: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng
tôi đã rồi đời”(câu 11).
Trong bối cảnh tuyệt
vọng đó, tiên tri công bố thị kiến tràn ngập hy vọng. Trong một thung lũng tràn
ngập những bộ xương khô, nghĩa là những dấu chứng của chết chóc và tuyệt vọng,
Lời Chúa tra vấn vị tiên tri, “Liệu các
xương khô này có hồi sinh được không?” Vị tiên tri trả lời hết sức dè dặt,
“Chỉ một mình Người mới biết được!” Thế rồi Chúa sai vị tiên tri tuyên sấm trên
những bộ xương khô để một linh khí mới cùng với da thịt, các đường gân sẽ làm
cho nó hồi sinh (câu 4-6). Lần thứ hai, Chúa lại sai tiên tri gọi linh khí từ
bốn phương đến, và linh khí đã làm cho cả cánh đồng xương khô thành một đạo
quân hùng mạnh (câu 9-10).
Trong phần giải thích
tiếp theo, Thiên Chúa tuyên bố rằng những con người tuyệt vọng sẽ được hồi sinh
và có đời sống mới tại Ít-ra-en. Tuy nhiên hình ảnh được vận dụng ở đây lại là
hình ảnh những huyệt mộ được mở ra (câu 12) chứ không phải là cả cánh đồng
xương khô. Đồng thời câu 13 và 14 không chỉ nhấn mạnh đến miền đất mà dân sẽ
được định cư nhưng còn nhấn mạnh đến việc hiểu biết Chúa, “các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa”. Thị kiến này không
nhằm trình bày niềm tin vào sự phục sinh cá nhân cho bằng sự hồi sinh của một
dân tộc về mặt xã hội.
Thánh Phaolô dạy, “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng”
(Dt 11,1). Như thế, đức tin gắn liền với hy vọng, và sống đức tin là sống trong
hy vọng. Niềm hy vọng Kitô giáo có những nét đặc thù. Đó là niềm hy vọng cậy
dựa vào một mình Chúa là Thiên Chúa của sự sống và là Cha yêu thương, chứ không
dựa vào sức mạnh người đời. Đó là niềm hy vọng vượt qua cả biên cương sự chết
chứ không chỉ dừng lại ở những thành công trần thế. Chính niềm hy vọng đó ban
sức mạnh cho ta trong mọi nghịch cảnh. Tôi phải tự hỏi mình: tôi hy vọng điều
gì? Tôi hy vọng vào ai?
2. Dòng nước từ Đền Thờ
(47,1-12)
Phần
cuối trong sách Ê-dê-ki-en (40,1 – 48,35) gồm có một phác thảo kiến trúc về Đền
thờ (40,1 – 42,20), mô tả việc thờ phượng trong Đền thờ (43,1 – 44,3), những lề
luật về Đền thờ (44,4 – 47,12) và những ranh giới phân chia đất đai
(47,13-48,35). Ở đây chỉ tập trung vào thị kiến về dòng nước chảy ra từ Đền
thờ.
Tiên tri Ê-dê-ki-en và
người hướng dẫn trở lại phía cửa Đền thờ và thấy có nước vọt ra từ ngưỡng cửa
và chảy về phía đông. Càng đi xa về phía đông, tiên tri thấy dòng nước càng
dâng cao. Người hướng dẫn lấy thước đo bốn lần và mỗi lần nước lại dâng cao
hơn, cuối cùng thành dòng thác (câu 3-5). Ê-dê-ki-en thấy nhiều cây cối hai bên
bờ, và được giải thích rằng dòng nước ban sự sống phát xuất từ ngai Thiên Chúa
sẽ làm cho nước mặn chát của Biển Chết thành nước trong lành, làm cho cây cỏ
tốt tươi trổ sinh hoa trái, và lá không bao giờ tàn tạ. Hình ảnh này phát xuất
từ huyền thoại cổ xưa về thành phố trên đồi, từ đó phát sinh những dòng sông
trên trái đất (x.St 2,10-14). Hình ảnh này cũng được vận dụng trong văn chương
khải huyền (x.Kh 22).
Thị kiến của tiên tri Ê-dê-ki-en
loan báo việc thờ phượng sẽ được hồi sinh trong Đền thờ được tái thiết. Tuy
nhiên người Kitô hữu lại khám phá nơi thị kiến này những tầng ý nghĩa khác.
Trong trình thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thánh Gioan ghi nhận rằng,
“một người lính lấy giáo đâm vào cạnh
sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra”(19,34). Chúa Giêsu chính là Đền
thờ sống động (x.Ga 2,21), và dòng nước cùng máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm
thâu của Người chính là nguồn nước ban sự sống, được thông ban qua các bí tích,
cho tất cả những ai tin vào Người. Chính vì thế trong Đêm Vọng Phục Sinh, chủ
tế cử hành nghi thức làm phép nước để rửa tội cho các dự tòng và rẩy trên dân
chúng, khi đó cộng đoàn cùng hát lên, “Tôi
đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất
cả đều được cứu rỗi và reo lên: Alleluia, Alleluia”.
Trong cuộc sống ngày
nay, có quá nhiều “biển chết,” những vùng biển nhìn thật hấp dẫn và đẹp mắt
nhưng chỉ toàn cung cấp thứ nước mặn chát và chết chóc. Chỉ có nguồn nước mà
Chúa Giêsu ban cho mới đem đến sự sống dồi dào như Người đã hứa: “Ai khát, hãy đến với Tôi, ai tin vào Tôi,
hãy đến mà uống. Như Thánh kinh đã nói: từ lòng Người sẽ tuôn chảy dòng nước
hằng sống”(Ga 7,38). Liệu chúng ta có dám tin vào lời mời gọi của Chúa
Giêsu không? Nếu tin, ta đã đáp lại lời mời gọi đó như thế nào?
CUỐN SÁCH 34
ĐA-NI-EN (Đn)
I.
TỔNG QUÁT
Sách Đa-ni-en hẳn là đã
được một trong các bậc thầy thông thạo Lề Luật viết ra, khi xảy ra các cuộc
bách hại thời con cháu nhà Ma-ca-bê, để khuyến khích dân chúng lấy tinh thần mà
được đầu với nghịch cảnh. Có lẽ chính ông cũng thuộc số những hướng dẫn đức tin
được Thiên Chúa ân thưởng đặc biệt (Đn 11,32 và 13,3). Trong lúc con cháu nhà
Ma-ca-bê chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân xâm lược thì các bậc thầy này vốn thận trọng đối với
chính trị và vũ khí, chỉ chuyên lo nêu gương về lòng trung thành với Giao ước
của Thiên Chúa và Lề Luật của Người (Dẫn
nhập Sách Đa-ni-en, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Đa-ni-en gốm có 14 chương:
Chương |
Chương |
1. CÁC TRÌNH THUẬT
– Trẻ em Do Thái tại triều đình vua Na-bu-cô-đô-nô-xo |
8. THỊ KIẾN CỦA
ÔNG ĐA-NI-EN: CỪU ĐỰC VÀ DÊ ĐỰC - Thiên sứ Gáp-ri-en giải thích thị kiến |
2. Nhà vua hỏi các
thầy pháp sư - Ông Đa-ni-en can thiệp |
9. Lời kinh của
ông Đa-ni-en - Thiên sứ Gáp-ri-en cắt nghĩa lời tiên tri |
3. Vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo dựng tượng vàng - Người Do-thái bị tố cáo và kết án - |
10. THỊ KIẾN LỚN -
Thị kiến về người mặc áo vải gai - Thiên sứ hiện ra - Lời báo trước |
4. Vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo kể lại giấc chiêm bao |
11. Ngày tận số của
kẻ bách hại |
5. Bữa tiệc của Vua Bên-sát-xa |
12. Sống lại và thưởng
phạt - Lời sấm được niêm phong |
6. ÔNG ĐA-NI-EN
TRONG HẦM SƯ TỬ - Lòng ganh tị của các thống đốc - Ông Đa-ni-en cầu nguyện -
Ông Đa-ni-en bị quăng vào hầm sư tử - Lời tuyên xưng đức tin của vua Đa-ri-ô |
13. BÀ SU-SAN-NA VÀ
PHÁN QUYẾT CỦA ÔNG ĐA-NI-EN |
7. CÁC THỊ KIẾN -
Thị kiến về các con thú - Giải thích thị kiến |
14. THẦN BEN VÀ CON
RẮN - Ông Đa-ni-en và các tư tế của thần Ben - Ông Đa-ni-en giết con rắn -
Ông Đa-ni-en trong hầm sư tử |
1. Nội dung chương 1-6
Phần
đầu của sách Đa-ni-en là một tuyển tập sáu câu chuyện ngắn về Đa-ni-en và các
bạn của ngài. Theo các câu chuyện này, từ khi còn trẻ, Đa-ni-en đã bị đem đi
lưu đày bên Ba-by-lon năm 606 trước Công nguyên (1,1), ở đó cậu sống đạo đức và
được Chúa ban cho khả năng giải thích các giấc mộng và thị kiến. Những câu
chuyện được trình bày thuộc hai loại: những truyện kể về lòng trung thành
(chương 1,3,6) và những truyện kể về sự khôn ngoan (chương 2,4,5). Những truyện
này làm nổi bật giáo huấn: nhờ vâng phục lề luật, người tín hữu sẽ chiến thắng
địch thù và làm chứng cho quyền năng Thiên Chúa.
a. Những truyện kể về lòng trung thành
a.1.
Thử thách về thực phẩm (1,1-21)
Truyện
kể đầu tiên này giới thiệu Đa-ni-en và các bạn của ngài cũng như việc huấn
luyện họ trong triều đình vua Na-bu-cô-đô-nô-xô, đồng thời nói đến những thử
thách và cám dỗ nhằm đồng hoá họ với văn hoá ngoại giáo, cụ thể là dùng những
thực phẩm mà Lề luật Do thái cho là ô uế.
a.2.
Lò lửa (3,1-97)
Truyện
này đề cao dung nhan Thiên Chúa đích thực, Đấng mà Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô
thờ phượng. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, kể cả cái chết, còn hơn là phải
thờ phượng thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa của Ít-ra-en.
a.3. Hầm sư tử (6,2-29)
Truyện
kể về sự ghen tị của các quan chức trong triều đình đối với Đa-ni-en. Họ tìm
cách tố cáo ngài với vua Đa-ri-ô. Họ đã thành công khi Đa-ni-en bị ném vào hầm
sư tử, nhưng thành công đó đã trở thành án phạt cho họ khi Đa-ni-en được Chúa
gìn giữ và cứu thoát.
2. Những truyện kể về sự khôn ngoan của Đa-ni-en
a) Đa-ni-en giải mộng cho nhà vua (2,1-49)
Thiên
Chúa mạc khải cho Đa-ni-en những mầu nhiệm mà các pháp sư của nhà vua không
biết được, nhờ đó nhà vua nhìn nhận sự siêu việt của Thiên Chúa mà Đa-ni-en tôn
thờ.
b) Thị kiến về một thân cây vĩ đại
(3,98-4,34)
Vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo có giấc chiêm bao về một cây vĩ đại, ngọn cây chạm tới trời
(4,7-14) nhưng không ai giải thích thị kiến này được. Chỉ một mình Đa-ni-en có
thể giải thích, và cuối cùng những lời giải thích của ngài đã thành hiện thực.
c) Những dòng chữ trên tường (5,1 – 6,1)
Truyện
kể về sự phạm thánh của vua Bên-sát-xa khi ông lấy những chén vàng và bạc đã
lấy từ Đền thờ Giêrusalem về để uống rượu vui chơi. Ngay lập tức, những dòng
chữ xuất hiện trên tường... và Đa-ni-en đã giải thích ý nghĩa của những dòng
chữ đó, loan báo hình phạt dành cho nhà vua.
II. NHỮNG BÀI HỌC CHO
ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
1. Thiên Chúa là
nguồn sức mạnh và sự khôn ngoan
Dù
không dùng những thực phẩm cao lương mỹ vị, dù bị ném vào lò lửa hay hang sư
tử, Đa-ni-en và các bạn của ngài vẫn sống vì Thiên Chúa bảo vệ, chở che họ.
Thánh Phaolô nói thật hùng hồn: “Có Thiên
Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?... Ai có thể tách chúng
ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?...Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng
nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta”(Rm 8,31-37).
Nhờ
ơn soi sáng của Chúa, Đa-ni-en còn lĩnh hội được sự khôn ngoan vượt trên mọi
người, có thể giải thích được những điều bí nhiệm và đọc được ý nghĩa của lịch
sử. Chúa Giêsu đoan quyết với các môn đệ: “Chính
Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thù của anh em
không tài nào chống chọi hay cãi lại được”(Lc 21,15).
Người
tin Chúa đón nhận được sức mạnh và sự khôn ngoan này nhờ cầu nguyện. Nhờ cầu
nguyện, Đa-ni-en đón nhận được ơn soi sáng của Chúa (x. 2,14-24). Ngay giữa lò
lửa, các bạn của Đa-ni-en cất lời ngợi khen Chúa (3,24-90).
2. Trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh
Sách
Đa-ni-en được viết trong bối cảnh Dân Chúa đang chịu áp lực nặng nề của văn hoá
ngoại giáo, và những câu truyện trong sách khuyến khích mọi người trung thành
với Chúa trong mọi hoàn cảnh, cụ thể là trung thành với Lề Luật. Cho dù trong
thời điểm hiện tại, có thể thấy những lề luật đó không còn phù hợp, nhưng điều
quan trọng là sự thể hiện lòng trung thành. Trong bối cảnh thời đại ngày nay,
người Kitô hữu cũng cần trung thành với Lời Chúa. Đó là cách thể hiện cụ thể
đức tin và lòng trung thành của ta với Chúa.
PHẦN II. NHỮNG THỊ KIẾN CỦA DANIEL (chương
7-12)
Trong
những chương này, sách Đa-ni-en trình bày những thị kiến mang tính khải huyền.
Khải huyền là một thể văn phát triển mạnh từ năm 200 – 100 trước Công nguyên
(x. Is 24-27; Ed 38-39; Dn 7-12). Những tác phẩm khải huyền mạc khải những điều
mà trí khôn bình thường của con người không hiểu được. Những mạc khải này được
trình bày qua trung gian của các thiên sứ, thị kiến và biểu tượng. Trong sách Đa-ni-en,
những chương 7-12 khuyến khích những người đang phải chịu bách hại dưới thời
Antiochus IV hãy vững tâm vì thời đau khổ đã sắp hết. Những chương này trình
bày 4 thị kiến.
1. Thị kiến về bốn con thú (7,1-28)
Cảnh
thứ nhất (7,2-8): gió bốn phương trời khuấy động biển cả và bốn con thú từ biển
xuất hiện với những hình dạng đáng sợ (x.Kn 7,11), đặc biệt con thú mười sừng:
sừng nhỏ xuất hiện, có mắt người và miệng nói những lời ngạo mạn.
Cảnh
thứ hai (7,9-12): cảnh xử án trên trời, với Đấng Lão thành ngự trên ngai lửa và
hàng ngàn tôi tớ hầu hạ. Khi các cuốn sách được mở ra, bốn con thú bị đem ra
xử, và con thú thứ tư bị phân thây, làm mồi cho lửa. Những con thú còn lại bị
tước quyền thống trị nhưng còn được sống một thời hạn. Tiếp đó, Đa-ni-en thấy
một vị giống như Con Người, ngự trên đám mây mà đến. Vị này được Đấng Lão thành
trao cho quyền thống trị, vinh quang và vương vị.
Sau
khi chứng kiến, Đa-ni-en được giải thích. Bốn con thú tượng trưng cho bốn vương
quốc (Ba-by-lon, Mê-đi-an, Ba Tư, Hi Lạp) mà Dân thánh của Chúa sẽ chiến thắng.
Mười sừng của con thú thứ tư tượng trưng cho vương quốc Hi Lạp bị chia cắt, và
cái sừng nhỏ phạm thượng tượng trưng cho Antiochus IV Epiphanes là người đã
bách hại dân Do thái ở Giêrusalem (x.1 Mcb 1,20-63). Thiên thần bảo đảm với Đa-ni-en
rằng mặc dù cái sừng nhỏ này chống lại Dân Chúa nhưng quyền lực của nó chỉ tạm
thời (câu 24-26). Con Người ở đây là hình ảnh của Dân Chúa sẽ được trao quyền
thống trị trong tương lai.
2. Thị kiến về cừu
đực và dê đực (8,1-27)
Thị
kiến kể lại cuộc chiến giữa con cừu hai sừng (Mê-đi-an và Ba Tư) và con dê đực
(Alexander đại đế). Tuy dùng những hình ảnh khác, nhưng thị kiến này cũng nói
đến diễn tiến lịch sử như trong chương 7. Con dê đực hạ gục con cừu hai sừng
cách dễ dàng, ám chỉ việc Alexander đại đế đánh hạ Ba Tư trong các cuộc chiến
từ năm 334-331 trước Công nguyên. Tuy nhiên khi nó đang sung sức thì cái sừng
lớn bị gãy, ám chỉ cái chết yểu mệnh của Alexander năm 323, và bốn sừng khác
mọc lên, có ý nói về vương quốc của Alexander bị chia thành bốn: Macedonia,
Tiểu Á, Syria-Babylonia, và Ai Cập. Từ một trong các sừng lại xuất hiện cái
sừng nhỏ, ám chỉ Antiochus IV Epiphanes, là ông vua dám xúc phạm đến Đền thánh.
Được
thiên sứ Gáp-ri-enriel giải thích, Đa-ni-en hiểu rằng cơn giận của Thiên Chúa
sắp nổ ra và Antiochus sẽ bị lật đổ. Câu “cho đến hai ngàn ba trăm chiều và
sáng” được hiểu là 1150 ngày, tức là 3 năm và 70 ngày. Thời gian này tương ứng
với thời gian từ khi Đền thánh bị xúc phạm năm 167 đến khi được thánh hiến lại
năm 164 (x.1 Mcb 4,52-59 và 10,3).
3. Thị kiến thứ ba: Gáp-ri-en và 70 tuần
(9,1-27)
Thị
kiến thứ ba là mạc khải trực tiếp cho Đa-ni-en qua trung gian thiên sứ
Gáp-ri-en. Chương này được chia thành hai phần: lời cầu của Đa-ni-en (9,3-19)
và Thiên Chúa trả lời (9,20-27).
Lời
cầu nguyện của Đa-ni-en phát xuất từ việc suy niệm lời của tiên tri Giê-rê-m-ia
(x. Gier 25,11-12; 29,10): 70 năm phải trôi qua trước khi Giêrusalem mãn thời
kỳ điêu tàn.
Sau
đó, Gáp-ri-en được Chúa sai đến để giải thích cho Đa-ni-en về lời tiên tri của
Giê-rê-mi-a. 70 năm ở đây là 70 tuần năm, nghĩa là 490 năm. 70 tuần năm này
được chia thành ba thời kỳ: (1) bảy tuần (49 năm) cho đến khi vị lãnh đạo được
xức dầu xuất hiện (nghĩa là từ năm 587 trước Công nguyên (lưu đày lần II) đến
năm 538 (Kyrô xuất hiện). (2) 62 tuần (434 năm) đến khi một vị xức dầu bị thủ
tiêu: từ khi chấm dứt lưu đày năm 538 đến khi khi thượng tế Onias III bị ám sát
năm 170. Như thế phải tính là 368 năm chứ không phải 434 năm. Tuy nhiên các nhà
chú giải cho rằng sai sót này có thể hiểu được tác giả sách Daniel không nắm rõ
thời kỳ cai trị của Ba Tư. (3) một tuần (7 năm) từ 170 – 163 trước Công nguyên:
thời bách hại của Antiochus IV Epiphanes trong vòng nửa tuần, sau đó bị tiêu
diệt.
4. Thị kiến về các cuộc chiến tranh Hi Lạp
(10,1 – 12,13)
Thị kiến thứ tư này được chia làm ba phần:
- Dẫn nhập dài mô tả sự
xuất hiện của sứ giả và cuộc trò chuyện với Đa-ni-en (10).
- Cho biết về những
cuộc chiến giữa nhà Ptolemies tại Ai Cập và nhà Seleucides tại Syria, và kết
thúc là cái chết của Antiochus (11-12,4).
- Phần kết (12,5-13).
CUỐN SÁCH 35
SÁCH HÔ-SÊ (Hs)
Hô-sê đi vào lịch sử
như vị ngôn sứ bị vợ lừa dối, nhưng vẫn hằng yêu thương nàng dù nàng bất trung.
Các ngôn sứ mạc khải tình yêu Thiên Chúa đối với loài người rất thật và rất cá
vị đến nỗi có thể dùng ngôn ngữ yêu đương của loài người để diễn tả. Ngôn sứ
được Thiên Chúa kêu mời cảm nghiệm điều
chính người đã trải nghiệm. Ông Hô-sê cũng vác một thánh giá như Thiên Chúa, là luôn yêu thương và tha thứ
cho một người đàn bà bất nhất và bất trung. Chính ông là người sẽ kêu lên sự
phẫn nộ của Thiên Chúa trước các tội lỗi của Ít-ra-en. Ông Hô-sê bắt đầu rao
giảng vào quãng năm 746, nghĩa là vào cuối triều đại thịnh đạt của vua
Gia-róp-am II trong vương quốc Ít-ra-en, vương quốc phía bắc. Liền sau đó bắt
đầu thời suy sụp trong 20 năm, khiến Sa-ma-ri bị xâm chiếm và dân chúng phải
lưu đày (721) (Dẫn nhập Sách Hô-sê, Thánh
Kinh Cựu ước và Tân ước, Nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Hô-sê gồm có 14
chương:
Chương |
Chương |
1. HÔN NHÂN CỦA
ÔNG HÔ-SÊ: MỘT BIỂU TƯỢNG - Ông Hô-sê kết hôn và sinh con |
8. Báo động |
2. Viễn ảnh tương
lai |
9. Sầu khổ chốn
lưu đày - Ngôn sứ bị khủng bố vì loan báo cuộc trừng phạt – Trừng phạt tội ác
tại Ghin-gan |
3. Ông Hô-sê nhận lại
người vợ thất tín và sửa trị bà. Ý nghĩa của biểu tượng |
10. Ngẫu tượng
Ít-ra-en thờ sẽ bị phá huỷ |
4. ÍT-RA-EN PHẠM TỘI
VÀ BỊ TRỪNG PHẠT - Tình trạng đồi bại chung - Lên án hàng tư tế - Cảnh cáo
Giu-đa và Ít-ra-en |
11. ĐỨC CHÚA báo
oán cho tình yêu bị khước từ |
5. Tư tế và vua
chúa quan quyền đưa dân tới suy vong - Cảnh huynh đệ tương tàn - Giao ước với
ngoại bang chỉ là hư ảo |
12. Ít-ra-en lụn bại
về tôn giáo và chính trị |
6. Trở về với ĐỨC
CHÚA, nhưng không thật lòng |
13. Trừng phạt tội
thờ ngẫu tượng - Trừng phạt tội vô ơn bạc nghĩa - Vương quyền chấm dứt |
7. Trở về với ĐỨC
CHÚA, nhưng không thật lòng (tiếp) |
14. ÍT-RA-EN HỐI CẢI
VÀ ĐƯỢC CHÚA THƯƠNG - Ít-ra-en thành tâm trở về với ĐỨC CHÚA |
I. Chương 1-7
1. Tổng quát
- 1,1: Dẫn nhập: Tên
gọi Hô-sê nghĩa là “hành động cứu độ” hay “Đấng Cứu độ”. Sách Hô-sê mở đầu với
lời “Lời Đức Chúa phán với ông Hô-sê” (khác với A-mốt: Lời của A-mốt). Như thế
nhấn mạnh tính linh hứng của lời rao giảng.
- 1,2 – 3,5 : Giavê,
Phu quân của Ít-ra-en: Ba chương đầu tập trung vào cuộc hôn nhân của Hô-sê,
những bất trung của bà vợ Gô-me, nghi ngờ về con cái, và áp dụng hoàn cảnh này
cho giao ước của Ít-ra-en với Giavê.
- 4,1 – 5,7: Tội ác của
các nhà lãnh đạo: Tất cả những tội ác chống lại Thiên Chúa và tha nhân đều được
gọi là ngoại tình; như thế làm nổi bật mối tình thắm thiết của Giavê với Dân
Ngài.
- 5,8 – 8,14: Ám sát,
bất ổn, mất mát: Các chương này bàn đến những vụ ám sát các vua và hoàng tộc,
những chính sách ủng hộ hay chống Át-sua, những hứa hẹn to lớn nhưng thực chất
nghèo nàn...
2. Kinh nghiệm hôn nhân
và lời rao giảng
a.
Tiên tri Hô-sê có kinh nghiệm rất đau buồn về hôn nhân (1,2-8)
Người vợ của Hô-sê có
nguồn gốc không tốt đẹp, lại là một người vợ bất trung: “hãy đi cưới một người đàn bà làm điếm để sinh những đứa con đàng điếm”(1,2).
Cũng vì thế, nhà tiên tri đặt cho con cái mình những cái tên lạ thường: “không-được-thương”,
“không-phải-dân-Ta”. Hơn thế nữa, người vợ của ông lại còn ngoại tình. Thế
nhưng vâng lời Chúa, ông đã tha thứ cho vợ và đón nhận vợ trở về: “Một lần nữa, ngươi cứ đi yêu người đàn bà
đang có tình nhân và đang ngoại tình”(3,1-5).
b. Rao giảng Lời Chúa từ chính kinh nghiệm
bản thân
Kinh nghiệm về hôn nhân
đã giúp tiên tri Hô-sê cảm nghiệm tình yêu nóng bỏng của Thiên Chúa với Dân
Người: tình yêu tha thứ, tình yêu kiên nhẫn, tình yêu đổi mới. Người Kitô hữu
cũng được mời gọi để cảm nghiệm Thiên Chúa qua chính kinh nghiệm trong đời sống
gia đình của mình, trong tương quan vợ chồng, tương quan cha mẹ và con cái.
Tiên tri Hô-sê không chỉ rao giảng bằng lời nói nhưng còn bằng hành động và
chính cuộc sống của mình. Khi ông đi cưới một người đàn bà làm điếm là để nói
với dân rằng “cả xứ đều bỏ Đức Chúa mà đi
làm điếm”(1,2). Và khi ông đi cưới một người đàn bà đang ngoại tình, cũng
là để nói với dân về “Đức Chúa yêu thương
con cái Israel, trong khi chúng lại quay lưng đi theo các thần khác”(3,1).
Cũng thế, người Kitô hữu được mời gọi loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói
nhưng còn bằng chính cuộc sống cụ thể của mình. Vậy cuộc sống hằng ngày của tôi
có trở thành lời loan báo Tin Mừng không, hay lại là phản chứng?
c. Hôn nhân và giao ước giữa Thiên Chúa với
con người
Thiên Chúa đã ký kết
giao ước với Dân Ngài. Theo cách diễn tả của Môsê, giao ước này mang tính lề luật.
Với Hô-sê, giao ước này trở thành giao ước hôn nhân với nền tảng là tình yêu và
sự tín nhiệm lẫn nhau. Ở đây, hôn nhân mang ý nghĩa và giá trị đặc biệt vì diễn
tả chính tình yêu của Thiên Chúa với loài người, mở đường cho cách nhìn của
thánh Phaolô: “Sách Thánh có lời chép
rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả
hai sẽ nên một xương thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức
Kitô và Hội Thánh”(Ep 5,31-32).
3. Bước vào mối quan hệ
cá vị với Thiên Chúa
a. Tiên tri Hô-sê nói về Thiên Chúa
Khi
nói về Thiên Chúa, Hô-sê không chỉ nói về Thiên Chúa cách chung chung. Ít nhất
là 45 lần, Ngài sử dụng từ YAHWEH là Danh Thiên Chúa được tỏ cho Môsê (Xh 3,11-15),
nghĩa là Thiên Chúa là Đấng hằng ở với Dân. Khi Hô-sê dùng từ Elohim hay El để
nói về Chúa thì luôn luôn là “Chúa của anh em” hay “Chúa của tôi”:
- Nó sẽ thưa “Thiên Chúa của con”(2,25).
- Con cái Ít-ra-en sẽ
trở lại tìm kiếm Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng (3,5)
Cách
diễn tả này nói lên mối quan hệ mật thiết và sống động giữa Thiên Chúa và Dân
của Người. Đồng thời cách diễn tả này giúp ta ý thức hơn về đời sống đức tin.
b. Tin
là bước vào mối quan hệ cá vị với Thiên Chúa
Tin
không chỉ là nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa hoặc chấp nhận những định tín
về Ngài. Nhưng tin là bước vào mối quan hệ cá vị, thân tình, riêng tư với Thiên
Chúa như vợ chồng, cha mẹ và con cái, bạn với bạn... Cầu nguyện là cách thế tốt
nhất để diễn tả, đồng thời giúp ta sống mối quan hệ này.
II. Chương 9-14
1. Tổng quát
- 9,1 – 13,8: Những
niềm hy vọng giả tạo. Thay vì lắng nghe Lời Chúa qua miệng các ngôn sứ như
A-mốt và Hô-sê, vua cũng toan tính chính trị, cuối cùng dẫn đến kết thúc bi
thảm.
- 13,9 – 14,1: Vương
quyền chấm dứt và vương quốc sụp đổ.
- 14,2-9: Hoán cải,
chữa lành và sự sống mới.
2. Đâu là sức mạnh của
Dân Chúa?
a. Bối cảnh lịch sử: các triều đại
- Jeroboam II (786-746):
tự do và thịnh vượng.
- Zechariah (746-745): thoả
hiệp nhưng không hiệu quả (bị ám sát).
- Shallum (745): chống
đế quốc Át-sua (bị ám sát).
- Menahem (745-737): phò
đế quốc Át-sua.
- Pekahiah (737-736): phò
đế quốc Át-sua (bị ám sát).
- Pekah (736-732): chống
Át-sua (bị ám sát).
- Hoshea (732-724): phò
đế quốc, sau đó lại chống (bị bắt và xử tử).
b. Sức mạnh đích thực của dân Chúa ở đâu?
Các triều đại thay đổi
chính sách liên tục, lúc thì nghiêng về Ai Cập, lúc lại chạy theo Át-sua, để mong
tìm bình an và thịnh vượng “Ép-ra-im vô tâm vô trí tựa bồ câu khờ dại. Chúng
cầu cứu Ai Cập, chạy đến với Át-sua”(7, 8-12; 8,11-14). Nhưng kết quả chỉ là
điêu tàn và đổ vỡ: “Ít-ra-en đã quên Đấng
tác tạo ra nó và lo xây đền đài; còn Giuđa thì xây thêm những thành kiên cố.
Nhưng Ta sẽ phóng lửa xuống những thành này, và lửa sẽ ngốn hết các dinh thự”(8,14).
Dân Chúa cần tìm sức mạnh đích thực ở nơi Chúa, cần trung thành với giao ước
tình yêu đã ký kết với Chúa: “Chúng con
sẽ không cầu cứu Át-sua, sẽ không cậy nhờ vào chiến mã, cũng chẳng gọi là thần
những sản phẩm do tay chúng con làm ra, vì chỉ ở nơi Ngài, kẻ mồ côi mới gặp
được lòng thương xót”(14, 2-9).
c. Bài học cho Dân Chúa mọi thời
Đừng tìm kiếm sự thành
công và phát triển dựa vào những thế lực trần gian như tiền bạc, tính toán
chính trị, quyền lực. Lịch sử Giáo Hội làm chứng rằng những thành công và phát
triển đó, nếu có, chỉ là những thành công bên ngoài và chóng qua. Chúa Giêsu
chịu đóng đinh thập giá và các Thánh tử vì đạo là lời nhắc nhớ thường xuyên về
sự thành công sâu xa, đích thực của Nước Trời. Quả thật, “Đường lối Đức Chúa rất mực thẳng ngay. Trên con đường này, người công
chính sẽ hiên ngang tiến bước, còn kẻ gian ác sẽ phải té nhào”(14,10).
3. Tình yêu tha thứ
(11,1-9)
a.
Thiên Chúa là tình yêu
Tiên tri Hô-sê vận dụng
nhiều hình ảnh để diễn tả mối tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người: hình ảnh
vợ chồng (2,4-9), hình ảnh cha con (11,1-4), hình ảnh bạn tình (2,16). Tất cả
để làm nổi bật tình yêu Thiên Chúa. Và đặc điểm của tình yêu đó là sự tha thứ:
“Ta là Thiên Chúa chứ không phải người
phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ”(11,9).
b. Lời mời gọi cho người Kitô hữu
Tin vào tình yêu tha
thứ của Thiên Chúa không có nghĩa là an tâm ở lại mãi trong tội lỗi vì không sợ
Thiên Chúa trừng phạt. Niềm tin đích thực vào tình yêu này thúc đẩy ta hoán cải
không ngừng. Đồng thời một khi cảm nghiệm được tình yêu tha thứ của Chúa, cảm
nghiệm đó dẫn ta vào một lối sống mới trong tương quan với tha nhân, lối sống quảng
đại và tha thứ (x.Mt 18,21-35).
4. Sa mạc
a. Sa mạc trong ngôn ngữ của Hô-sê
- “Ta sẽ biến nó thành sa mạc hoang vu, cho nó trở nên đất khô khan cằn
cỗi, và làm cho nó chết khát” 2,5b).
-
“Này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa
mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình”(2,16).
b. Sa mạc trong đời sống đức tin
Sa mạc là nơi chết chóc
vì không có nước là yếu tố căn bản của sự sống, vì cái nắng gay gắt đe doạ sự
sống. Không những đe doạ sự sống tự nhiên, sa mạc còn đe doạ sự sống siêu nhiên
vì là nơi chốn của cám dỗ. Chính Chúa Giêsu đã bị cám dỗ trong sa mạc. Thế
nhưng sa mạc cũng là miền đất ân sủng. Sa mạc là cõi thinh lặng và cô tịch,
vắng mọi ồn ào và tiếng động bên ngoài. Chính trong cõi cô tịch và thinh lặng
đó, ta được mời gọi trở về với chiều sâu cuộc sống: sống với Chúa, sống nhờ
Chúa, sống cho Chúa. Vì thế, hãy tự tạo nên những khoảnh khắc sa mạc trong đời
sống hằng ngày.
CUỐN SÁCH 36
SÁCH GIÔ-EN (Ge)
1. Bối cảnh
Không
thể xác định rõ tác phẩm này đã được viết vào năm nào. Tuy nhiên phần lớn các
nhà nghiên cứu cho rằng sách đã được viết vào khoảng năm 400 trước Công nguyên,
sau khi dân Ít-ra-en hồi hương trở về Giêrusalem. Sách Giô-en gốm có 4 chương:
Chương |
Chương |
1. NẠN CHÂU CHẤU -
TOÀN DÂN SÁM HỐI VÀ CẦU KHẨN - Than vãn vì đất nước hoang tàn |
3. THỜI MỚI VÀ NGÀY
CỦA ĐỨC CHÚA - BAN THẦN KHÍ |
2. Báo động về
Ngày của ĐỨC CHÚA - Thị kiến về Ngày của ĐỨC CHÚA - Kêu gọi sám hối - ĐỨC
CHÚA TRẢ LỜI - Thị kiến về thời phồn vinh |
4. CÁC DÂN TỘC BỊ XÉT XỬ - Những chủ đề chung
- Triệu tập các dân tộc - Ngày của ĐỨC CHÚA - THỜI KỲ CỰC THỊNH CỦA ÍT-RA-EN
PHỤC HƯNG |
2. Giáo huấn
Sách
Giô-en được mở đầu bằng câu chuyện về nạn châu chấu tấn công và con người hoàn
toàn bó tay (1,1-4). Câu chuyện này khiến ta liên tưởng đến những khó khăn và
thử thách gặp phải trong cuộc đời. Đương nhiên, những khó khăn đó gây đau khổ
cho con người, nhưng đồng thời cũng có mặt tích cực của nó vì giúp ta ý thức
thân phận giới hạn của mình, và biết tìm kiếm sự trợ giúp từ nơi Thiên Chúa là
Đấng từ bi và nhân hậu: “Hãy hết lòng trở
về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng
xé áo. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em bởi vì Người từ bi và
nhân hậu, chậm bất bình và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa”(2,13).
Tiên
tri Giô-en cũng nhấn mạnh đến quyền năng Thánh Thần. Trong ngày lễ Hiện Xuống,
dưới tác động của Thánh Thần, các tông đồ đã rao giảng Lời Chúa bằng nhiều thứ
tiếng khác nhau. Khi có người cho rằng các tông đồ say rượu, thánh Phêrô đã lấy
lời của tiên tri Giô-en để nói với họ rằng các ngài không say vì mới là giờ thứ
ba trong ngày (9 giờ sáng), nhưng đúng hơn, đây là điều tiên tri Giôen đã nói:
“Ta sẽ đổ Thánh Thần của Ta trên hết thảy
người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành tiên tri, thanh niên sẽ
thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng”. Quyền năng của Thánh Thần đã được
thể hiện tỏ tường nơi các tông đồ, và quyền năng ấy sẽ tiếp tục tỏ hiện trong
đời sống Kitô hữu nếu ta mở rộng cánh cửa tâm hồn đón nhận Ngài.
CUỐN SÁCH 37
SÁCH A-MỐT (Am)
Cuối thế kỷ VIII trước Chúa Kitô, vương quốc Ít-ra-en có vẻ
rất phồn thịnh. Người có ít tài sản đã bán sạch và của cải nằm trong tay số ít
người giàu có, trong khi càng ngày càng có thêm nhiều người nghèo. Đột nhiên từ
Xi-on, Đức Chúa gầm lên và từ Giêrusalem, Người lên tiếng qua miệng của A-mốt,
một người chăn cừu ở Tơ-cô-a, một làng quê nhỏ bé cách Be-lem khoảng 9km về
phía nam, trong xứ Giuđa (Dẫn nhập Sách
A-mốt, Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước,
Nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách A-mốt gồm có 9 chương:
Chương |
Chương |
1. ÁN PHẠT CÁC NƯỚC
LÁNG GIỀNG VÀ ÁN PHẠT CHÍNH ÍT-RA-EN - Đa-mát - Ga-da và Phi-li-tinh - Tia và
Phê-ni-xi - Ê-đôm |
6. Cuộc sống an
toàn giả tạo của những người cầm quyền - Hình phạt kinh hồn |
2. Mô-áp - Giu-đa - Ít-ra-en |
7. CÁC THỊ KIẾN -
Thị kiến thứ nhất: châu chấu - Thị kiến thứ hai: hạn hán - Thị kiến thứ ba:
dây dọi - Xung đột với A-mát-gia. Ông A-mốt bị trục xuất khỏi Bết Ên. |
3. CẢNH CÁO VÀ ĐE
DOẠ ÍT-RA-EN - Tuyển chọn và trừng phạt |
8. Thị kiến thứ
tư: giỏ trái cây mùa hạ |
4. Tố cáo các mệnh
phụ vùng Sa-ma-ri - Ít-ra-en vẫn ảo tưởng, không chịu sám hối nên bị trừng phạt
|
9. Thị
kiến thứ năm: Đền Thờ bị sụp đổ - Vinh tụng ca - Mọi người tội lỗi sẽ phải chết
- VIỄN TƯỢNG PHỤC HƯNG VÀ PHỒN THỊNH THỜI THIÊN SAI
|
5. Than khóc
Ít-ra-en - Không hoán cải thì không thể được cứu độ - Vinh tụng ca - Đe doạ -
Khuyến cáo |
|
1. Ơn gọi tiên tri (7, 10-17)
a. Tiên tri, ơn gọi chứ không phai nghề nghiệp
Bối cảnh
xã hội: đất nước bị phân chia thành hai miền: vương quốc miền Nam (Giuđa) và
vương quốc miền Bắc (Ít-ra-en). Trong vương quốc Ít-ra-en, vua xây Đền Thờ ở
Bết-ên để ngăn cản dân, không cho họ xuống Đền Thờ Giêrusalem vốn thuộc vương
quốc Giuđa. A-ma-gia mệnh danh là một tiên tri nhưng ông thi hành sứ vụ tiên
tri như một nghề và thường nói những lời bênh vực nhà vua để làm vui lòng nhà
vua. Ngược lại, câu trả lời của A-mốt cho thấy, làm tiên tri không phải là một
nghề ông chọn nhưng là tiếng gọi của Chúa, tiếng gọi không thể cưỡng lại: “Tôi
không phải là tiên tri, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm tiên tri. Tôi chỉ
là người nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa Trời đã bắt lấy tôi
… và truyền cho tôi: ‘Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân ta’”. Khi đó lời mà
tiên tri công bố không còn là lời của loài người nhưng là Lời của Thiên Chúa.
b. Sống chức năng tiên tri của người Kitô hữu
Mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm làm tiên tri vì
được chia sẻ làm chức năng tiên tri của Chúa Kitô khi lãnh nhận bí tích Thánh
tẩy. Vậy lời nói của ta nhắm đến điều gì? Làm vui lòng người đời hay trung
thành với Lời Chúa? Cách cụ thể, trong đời sống gia đình, trong việc giáo dục
con cái, trong những mối quan hệ xã hội, lời nói của ta được sử dụng ra sao?
2. Thiên Chúa đứng về phía người nghèo (2,
6-16; 8, 4-8)
a. Thiên Chúa của kẻ nghèo
Đọc Thánh
Kinh, một trong những điều quan trọng là phải tự hỏi: Chúa là ai? Chúa mặc khải
Ngài là ai trong đoạn Thánh Kinh mà tôi đọc? Đồng thời phải ý thức rằng Thiên
Chúa tự tỏ mình ra (mặc khải) không chỉ qua lời nói mà còn qua những hành động,
những kỳ công mà Người thực hiện trong lịch sử. Ở đây, A-mốt dựa vào hành động
quan trọng nhất là việc Chúa giải thoát dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai
Cập: “Chính Ta đã đem các ngươi lên khỏi đất Ai Cập, dẫn các ngươi đi
trong sa mạc bốn mươi năm trường, để các các ngươi chiếm hữu đất của người
E-mô-ri”(2,10). Ngài lấy đó là điểm quy chiếu để khám phán dung nhan Thiên
Chúa là Đấng đứng về phái người nghèo, người bị áp bức. từ đó, Ngài lên án tình
trạng bóc lột, bất công, gian dối trong xã hội bàng những lời lẽ rất mạnh: “vì
tội của Ít-ra-en đã lên tới cực độ, Ta sẽ không rút lại bản án” (2,6) “Đức Chúa
đã lấy thánh danh là niềm hãnh diện của Giacop mà thề: Ta sẽ chẳng bao giờ quên
một hành vi của chúng”(8,7).
b. Suy niệm
Rất nhiều người xưng mình là người tin Chúa nhưng
Chúa là ai? Có khi nào tự uốn nắn hình ảnh Thiên Chúa theo sở thích của mình để
biện hộ cho lối sống bất chính của mình? Đã từng có một triết gia phê phán
rằng: không phải Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài,
mà chính con người đã dựng nên Thiên Chúa theo hình ảnh họ”(Feuerbach). Dù
không đồng ý với nhận định này, ta cũng không thể phủ nhận một phần chân lý hàm
chứa trong đó khi nhìn vào thực tế. Vì thế, phải luôn quay về với Thánh Kinh để
khám phán dung nhan đích thực của Thiên Chúa, và thờ phượng Thiên Chúa như Ngài
là chứ không như ta mong muốn. Cách cụ thể, dựa trên giáo huấn của tiên tri A-mốt,
nếu Thiên Chúa đứng về phía người nghèo, tôi có thể nhân danh Chúa mà làm những
việc gây thiệt hại cho người nghèo? Có quyền khinh bỉ người nghèo?
3. Nền
phụng tự đích thực (5,21-27)
a. Thế nào là phụng tự mà Thiên Chúa muốn?
Phụng tự
là hành vi căn bản của niềm tin tôn giáo. Nhưng đâu là phụng tự đích thực? Phải
chăng chỉ là những nghi lễ bên ngoài? Lời kết án của A-mốt cho thấy điều gì?
Nền phụng tự Chúa mong muốn là phụng tự phải đi đôi với lẽ phải và công
lý: “Hãy dẹp bỏ tiếng hát om sòm của ngươi, ta không muốn nghe tiếng
đàn của ngươi nữa. Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như
dòng suối không bao giờ cạn”(5,23-24).
b. Suy niệm
So sánh với nhiều nơi trên thế giới, trong các nghi
thức phụng tự người Công giáo Việt Nam tham dự rất đông. Tỷ lệ người Công giáo
Việt Nam tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật có lẽ vào hàng cao nhất thế giới. Nhưng
liệu có nguy cơ tách ly giữa phụng tự và đời sống không? Có những cử hành nghi
lễ thật rầm rộ, đồng thời đời sống thiếu yêu thương, bác ái và công bằng? Những
câu hỏi này nêu lên không nhằm xét đoán ai nhưng cho chính mình. Hiến chế Mục
vụ Vui Mừng và Hy Vọng dạy: “Sự phân ly giữa các Kitô hữu tuyên xưng với
cuộc sống thường nhật của họ phải được kể vào số những sai lầm trầm trọng nhất
trong thời đại chúng ta. Trong Cựu Ước, các tiên tri đã mạnh mẽ tố cáo gương
xấu này, và trong Tân Ước chính Chúa Giêsu Kitô còn ngăm đe nhiều hơn nữa bằng
những hình phạt nặng nề. Do đó không được tạo ra sự đối nghịch giả tạo giữa
sinh hoạt nghề nghiệp xã hội và đời sống tôn giáo. Đối với người Kitô hữu, xao
lãng bổn phận trần thế là xao lãng bổn phận đối với tha nhân và hơn nữa đối với
Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa“(số 43).
CUỐN SÁCH 38
SÁCH Ô-VA-ĐI-A (Ôv)
Sách Ô-va-đi-a
có lẽ được viết trong khoảng sau 500 và trước cuộc chinh phạt Ê-đôm vào năm
300. Tác phẩm của ông là một bài kêu gọi báo thù; thật ra điều này cho thấy ông
tin vào sự công bằng của Thiên Chúa.
Nội dung của sách là những lời tiên tri chống lại dân Ê-đôm
của một vị ngôn sứ có tên Ô-va-đi-a (trong tiếng Do-thái nghĩa là đầy tớ của
Đức Chúa). Vị ngôn sứ này không được xác định rõ lai lịch theo bất kỳ nhân vật
lịch sử nào trong Cựu Ước bởi có tới 10 nhân vật mang tên này. Truyền thống Do thái
Giáo và Chính Thống Giáo cho rằng đó là ông Ô-va-đi-a, quản đốc hoàng cung của
vua A-kháp (1V 18,3) mà Thánh Kinh Công Giáo Tiếng Việt dịch là Ô-vát-gia-hu.
Giáo Hội Công Giáo cho rằng không có căn cứ để xác định chính xác ông là nhân
vật nào. Sách Ô-va-đi-a gốm có 1 chương: Lời tựa -
Bản án cho Ê-đôm - Tận diệt Ê-đôm - Tội lỗi của Ê-đôm - Vào ngày của ĐỨC CHÚA,
Ít-ra-en báo thù Ê-đôm - Ít-ra-en mới.
CUỐN SÁCH 39
SÁCH GIÔ-NA (Gn)
1. Bối cảnh
Sách Giô-na được biên
soạn tại Palestina khoảng thế kỷ V trước Công nguyên, khi người Do thái vẫn
đang ở trong thời kỳ hồi phục sau cuộc hồi hương từ Ba-by-lon. Trong suốt thế
kỷ VIII và IX trước đó, nhiều thế lực ngoại bang đã tác động trên lịch sử Ít-ra-en.
Năm 722, đế quốc Át-sua đã chiếm vương quốc Ít-ra-en, đưa những thanh phần ưu
tú của dân lưu đày, và đưa những nhóm dân khác đến đây định cư. Còn tại vương
quốc Giuđa, quyền lực của Át-sua phải nhường lại cho Ba-by-lon, và dân Ít-ra-en
lại chịu sự thống trị của một đế quốc khác. Năm 587 vua Na-bu-cô-đô-no-xô và
quân đội của ông phá hủy thành Giêrusalem và lưu đày dân cư sang Ba-by-lon. 50
năm sau tức là năm 538, vua Ky-rô của Ba Tư đánh bại Ba-by-lon, ra sắc lệnh cho
người Do thái hồi hương và xây lại Đền thờ. Có sự đấu tranh giữa những người
hồi hương và những người vẫn ở lại từ trước, thêm vào đó là sự nghèo khổ và lao
động vất vả để tái thiết đất nước. Tất cả những điều đó làm nên bối cảnh trong
đó sách Giô-na được biên soạn. Sách Giô-na gốm có 4 chương:
Chương |
Chương |
1.
Ông Giô-na cưỡng lại sứ mạng ĐỨC CHÚA giao |
3. Thành
Ni-ni-vê sám hối và được tha thứ |
2.
Ông Giô-na được cứu thoát |
4.
Ông Giô-na bực mình. ĐỨC CHÚA trả lời. |
2. Nội dung
a. Tổng quát
- Cuộc gặp gỡ giữa Giô-na
và Đức Chúa (1,1-16).
- Lời nguyện của Giô-na
(2,1-11).
- Giô-na ở Ni-ni-vê
(3,1-10).
- Thiên Chúa trả lời
Giô-na (4,1-11).
b. Ý nghĩa
Những
người Do thái hồi hương xác tín rằng sở dĩ họ phải chịu đau khổ là vì họ đã bất
trung với Thiên Chúa. Do đó họ chủ trương phải tuân giữ lề luật thật khắt khe,
và phải xa tránh bất cứ điều gì có thể làm họ xa rời Chúa, cụ thể là theo những
tập tục ngoại giáo và kết hôn với người ngoại giáo (x. Er 9,1-13; 10,10-15; Nkm
13,23-30).
Sách Giô-na được viết
ra để chống lại thái độ loại trừ này, thái độ cho rằng phải xa lánh mọi người
thì mới có thể trung thành với Chúa. Trong câu chuyện, Chúa gọi Giô-na đi nói
tiên tri không phải cho dân Người mà là cho dân Ni-ni-vê, thủ đô đáng ghét của Át-sua.
Và Giô-na đã tìm mọi cách để trốn tránh tiếng gọi của Chúa, vì ông biết rằng
Chúa là Đấng nhân từ, và ông sợ rằng nếu ông rao giảng và dân Ni-ni-vê ăn năn
sám hối thì Chúa sẽ tha thứ cho họ. Ông thích một Thiên Chúa trừng phạt dân Ni-ni-vê
hơn là một Thiên Chúa tha thứ. Câu chuyện của Giô-na trình bày một chân lý làm
dân Do thái sửng sốt, đó là cả các dân tộc khác cũng được Thiên Chúa yêu
thương.
3. Ơn gọi của Giô-na (1,1-16)
a. Chúa
gọi Giô-na
Trong Thánh Kinh, những
trình thuật ơn gọi thường có những yếu tố sau: (1) Gặp gỡ, (2) Thiên Chúa ngỏ
lời, (3) sai đi, (4) người được sai thoái thác, (5) Chúa trấn an với lời hứa
‘Ta ở với ngươi’ (6) hứa ban một dấu chỉ. Trình thuật ơn gọi Giô-na cũng theo
thứ tự đó nhưng có vài điểm đặc biệt: Lời Chúa đến với ông (1,1) và sai ông đi
giảng cho dân Ni-ni-vê (1,2). Giô-na không những chống lại mệnh lệnh này mà còn
tìm cách chạy trốn (1,3). Chúa đã không chỉ trấn an Giô-na nhưng còn theo sát
ông và dùng quyền năng của Người lôi ông trở về với sứ mạng tiên tri (1,4 –
2,10). Rồi trình thuật bắt đầu lại: “Lời
Chúa đến với Giô-na lần thứ hai” -(3,1).
b. Rao giảng cho dân Ni-ni-vê
Ni-ni-vê
là thủ đô của Át-sua, một đế quốc hùng mạnh ở vùng Mesopotamia vào thế kỷ VIII
trước Công nguyên. Át-sua đã đánh bại Ít-ra-en vào năm 722 và bắt họ đem đi lưu
đày, vì thế dân Ít-ra-en căm ghét Át-sua. Giô-na không muốn đi Ni-ni-vê không
phải vì muốn trốn tránh tiếng gọi của Chúa cho bằng vì căm ghét Át-sua, không
muốn đem Lời Chúa đến cho dân đó.
c.
Thiên Chúa hành động
Giô-na
mô tả Thiên Chúa là Đấng “làm ra biển
khơi và đất liền”(1,9), Đấng chế ngự biển khơi và mọi loài trong đó. Hình
ảnh được làm nổi bật ở đây là sự toàn năng của Đấng Tạo hoá, Đấng đã trao phó
sứ mạng cho Giô-na và thúc đẩy ông chu toàn sứ mạng. Điều buồn cười là nếu Giô-na
biết Chúa toàn năng như thế, tại sao ông lại nghĩ ông có thể chạy trốn khỏi bàn
tay Chúa? Và mỗi người chúng ta cũng nghĩ rằng mình có thể chạy trốn được Chúa?
(hãy đọc Thánh vịnh 139).
4. Thiên Chúa trả lời
cho Giô-na (3,1-10)
a. Tại
sao Giô-na chạy trốn?
Vì ông biết rằng Chúa
là Đấng “từ bi nhân hậu, chậm giận và
giàu tình thương, và hối tiếc vì đã giáng họa”(4,2). Ông nổi giận vì biết
rằng Chúa không phải là vị thẩm phán thích trừng phạt tội ác nhưng là vị Thiên
Chúa giàu lòng thương xót và hối hận vì đã thịnh nộ.
b. Thiên Chúa giáo huấn Giô-na
Thiên
Chúa không trừng phạt Giô-na vì tội chạy trốn và đào ngũ và vì ông thiếu lòng
thương xót, nhưng Chúa tìm cách giáo huấn ông bằng hành động cụ thể (x.
4,4-10)... và kết luận: “Còn Ta, chẳng lẽ
Ta lại không thương Ninivê sao?”(4,11). Giô-na và mỗi người chúng ta tin
Chúa như Chúa là hay chúng ta bắt Chúa phải hành xử theo tính toán nhỏ nhen và
chật hẹp của mình.
CUỐN SÁCH 40
SÁCH MI-KHA (Mk)
1. Bối cảnh
Ngôn sứ Mi-kha là người sống đồng thời với ngôn
sứ I-sai-a. Hai con người này có những nét trái ngược nhau: Mi-kha là một người
ở đồng quê, còn I-sai-a là người thượng lưu và có văn hóa. Tuy thế họ đều nói
về nhưng biến cố giống nhau và cùng có một tinh thần như nhau. Ngôn sứ Mi-kha
là người Mô-re-sét, một làng quê nằm ở ven đồng bằng nơi quân đội Át-sua và Ai
Cập thường qua lại. Ông biết rõ những khổ đau và tàn phá của chiến tranh, cũng
như sự bóc lột các nông dân. Một ngày kia Thiên Chúa đã gọi ông, ban cho ông
sức mạnh và can đảm để ông ra đi tố cáo tội của Ít-ra-en. Ông nói nhân danh một
vị Thiên Chúa chẳng được ai yêu mến, và ông tố cáo sự bất công đang hoành hành
khắp nơi. Cũng giống như ngôn sứ I-sai-a, sau khi kết án xã hội ông đang sống,
ông loan báo sự thịnh vượng mà Đức Chúa dành cho Giêrusalem trong tương lai. Sách
Mi-kha gồm có 7 chương:
Chương |
Chương |
1. ÍT-RA-EN BỊ KIỆN,
ĐE DOẠ VÀ TRỪNG PHẠT - Án xử Sa-ma-ri - Bài ai ca khóc các thành miền đất thấp |
5. Các nước bị đập
tan ở Xi-on (tiêp |
2. Chống những kẻ
trục lợi - Lời hứa tái thiết |
6. ÍT-RA-EN LẠI BỊ KIỆN CÁO, KHIỂN TRÁCH VÀ ĐE DOẠ -
ĐỨC CHÚA kiện cáo dân Người - Chống sự gian giảo của dân thành - Gương
Sa-ma-ri
|
3. Chống các thủ
lãnh áp bức dân - Chống các ngôn sứ hám lợi - Báo cho nhà chức trách về cảnh
điêu tàn của Xi-on |
7. Bất công ở khắp nơi - Xi-on bị kẻ thù sỉ nhục
- Lời sấm tiên báo ngày hồi phục - Xin Thiên Chúa thứ tha |
4. CÁC
LỜI HỨA VỚI XI-ON - Triều đại tương lai của ĐỨC CHÚA ở Xi-on - Đàn chiên tản mác được tập hợp ở Xi-on -
Xi-on bị bao vây, lưu đày và được giải thoát - Các nước bị đập tan ở Xi-on
|
|
2. Lời
tiên tri
“Phần ngươi, hỡi Belem Ép-ra-tha...” Ép-ra-tha là tên của một địa
điểm ở phía bắc Giêrusalem, gần Ra-ma là nơi bà Ra-khen qua đời (x.1Sm 10,2; Gr
31,15). Đây cũng là tên một bộ tộc là dòng dõi của Ép-ra-tha, vợ thứ hai của Ca-lép
(x.1Sb 2,18-19, 50-55 nhắc đến Bết Ga-đe và Be-lem). “Nguồn gốc của Người có từ thuở trước, từ thuở xa xưa”(5,1): bản văn
Hípri dùng từ “nguồn gốc” ở số nhiều, có ý nhắc đến lịch sử ba trăm năm của
triều đại Đavít. Nhưng người Kitô hữu quy chiếu bản văn này về Chúa Kitô, và
đọc bản văn này như nói về nguồn gốc vĩnh cửu của Ngôi Hai Thiên Chúa. “... cho
đến thời một phụ nữ sinh con”(5,2): Giống như I-sai-a (7,14), Mi-kha làm nổi
bật khuôn mặt người mẹ của vị vua tương lai. Trong Cựu Ước, hoàng hậu chiếm vị
trí quan trọng tại triều đình (x.1V. 1,11-37). Bản văn không nói gì đến người
cha của vị vua tương lai. Các Kitô hữu đầu tiên đã coi đây như lời ám chỉ về
việc thụ thai đồng trinh của Mẹ Maria. “Chính Người sẽ đem lại hoà bình”(5,4):
Truyền thống Kitô giáo nối kết câu này với phần trên nói đến vị vua tương lai (x. Bài đọc I, Chúa nhật IV Mùa Vọng, năm C).
3. Lời tiên tri và
phụng vụ Công giáo
Vào
Chúa nhật IV Mùa Vọng năm C, Hội Thánh đọc Mk 5,1-4a cùng với bài Tin Mừng Lc 1,39-45.
Sự chọn lựa này làm nổi bật những điểm chính yếu: (1) Mi-kha đã nói tiên tri về
việc giáng sinh của Chúa Giêsu, (2) Hài nhi trong lòng Mẹ Maria là Thiên Chúa “nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ
thuở xa xưa”, (3) Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Các bài
Thánh Kinh trong Chúa Nhật IV Mùa Vọng có mục đích giúp ta chuẩn bị tâm hồn cử
hành lễ Giáng Sinh. Trong thực tế, người Công giáo ngày nay cử hành lễ Giáng
Sinh thế nào? Có còn đầy đủ ý thức đức tin không hay chỉ còn là dịp vui chơi và
mua sắm?
4. Đức Chúa kiện cáo
dân người (6,1-8)
a. Đọc bản văn
Mi-kha dùng từ “vụ
kiện” nên bản văn cũng được trình bày như diễn tiến một vụ kiện ở toà án:
- Triệu tập phiên toà
(6,1-2): cả vũ trụ trở thành toà án, chứng nhân là “các núi và nền tảng vững bền của cõi đất,” còn nguyên cáo là chính
Đức Chúa.
- 6,3-4: những câu hỏi
liên tiếp được đặt ra, không những nhắc lại những việc tốt lành Thiên Chúa đã
làm cho Dân Người, mà còn diễn tả nỗi đau đớn của Thiên Chúa khi chứng kiến sự
vô đạo của dân.
- 6,5: nhắc đến câu
chuyện vua Ba-lác triệu Bi-lơ-am đến để nguyền rủa Ít-ra-en nhưng thay cho lời
nguyền rủa, Bi-lơ-am lại chúc phúc (x.Ds 22-24). Sít-tim là giai đoạn cuối
trong hành trình từ Ai Cập đến phía đông sông Gio-đan. Ghin-gan là thánh điện
nổi tiếng gần Giê-ri-khô (Am 4,4). Như thế câu này nhắc lại toàn bộ lịch sử Ít-ra-en
từ khi ra khỏi Ai Cập đến khi vào Đất Hứa. Tất cả để làm nổi bật những việc tốt
lành Chúa đã làm.
- 6,7-8: Dân tìm biện
hộ cho mình bằng những nghi thức tế tự: lễ toàn thiêu, dâng bê một tuổi, dâng
ngàn dê đực, dâng vạn suối dầu, dâng cả con trai đầu lòng... tưởng rằng có thể
làm nguôi cơn giận của Đức Chúa trước tội ác của họ. Thế nhưng điều Thiên Chúa
muốn là “thực thi công bằng, quý yêu nhân
nghĩa, và khiêm tốn bước đi với Chúa”.
b. Liên kết với cử hành phụng vụ
Mi-kha
6,1-2 đã gợi hứng cho thánh thi Improperia (Những lời trách cứ) được hát trong
Nghi thức Thứ Sáu Tuần Thánh, trong khi cộng đoàn hôn kính Thánh Giá Chúa
Giêsu. Bạn hãy sống lại bầu khí của Thứ Sáu Tuần Thánh, đặt mình đối diện với
Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, và lắng nghe lại những lời này: “Dân Ta ơi, Ta đã làm gì cho ngươi? Ta đã làm
chi khiến ngươi phiền lòng? Hãy trả lời Ta đi?” Chúa đã làm gì cho bạn, và
bạn đã làm gì cho Chúa?
CUỐN SÁCH 41
SÁCH NA-KHUM (Nk)
1. Bối cảnh
Ngôn
sứ Na-khum tuyên sấm vào lúc sức mạnh của Át-sua sụp đổ, sau khi Át-náp-pa, vị
vua cuối cùng của ho băng hà vào năm 626. Năm 612, người Mê-đi và Ba-by-lon
liên minh với nhau đến tấn công và phá hủy thành Ni-ni-vê, thủ đô người Át-sua.
Tuy thế, trước thời điểm đó, người Át-sua đã mất quyền kiểm soát các dân mà họ
đã bắt làm nô lệ, những kẻ vô vùng câm phẫn họ. Người Do thái ở trong số đó.
Các bài thơ của Ngôn sứ Na-khum cho ta thấy nỗi lòng của một người yêu nước tin
tưởng rằng Đức Chúa điều khiển lịch sử của các dân tộc (Dẫn nhập Sách Ngôn sứ Na-khum, Cựu Ước và Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).
Sách Na-khum gồm có 3 chương:
Chương |
1.
Thánh vịnh - Cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA - Lời sấm về Giu-đa và Ni-ni-vê. |
2. Tấn
công - Bản án cho con sư tử Át-sua. |
3. Bản
án cho Ni-ni-vê đàng điếm - Bài học Nô A-môn - Ni-ni-vê chuẩn bị, nhưng vô
ích - Điếu văn. |
2. Thiên Chúa không
dung tha sự bất công (Nk 3,1-7)
Chủ
đề thần học của sách Na-khum là Thiên Chúa sẽ không dung tha mãi mãi cho sự bất
công. Chủ đề này xuất hiện rõ nét trong lời sấm về Ninivê (thủ đô của Át-sua)
sụp đổ. Lời sấm này cảnh báo rằng đế quốc Át-sua ở bất cứ thời đại nào và nơi
chốn nào, kể cả tên bạo chúa đang ngự trị trong lòng người, sẽ đều bị Thiên
Chúa trừng phạt. Theo luật của Át-sua, người nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tình sẽ bị tước lột quần áo và thành phương tiện thoả mãn cho bất cứ ai. Na-khum
dùng những sự kiện này để mô tả về án phạt cho Ni-ni-vê (3,5-6). Ở đây cũng có
thể liên tưởng đến sách Khải Huyền, chương 17, nói về sự trừng phạt Ba-by-lon.
“Ai còn cảm thương nó?” (3,7). Tên
của Na-khum có nghĩa là “người được an ủi,” còn ở đây Nakhum đảo ngược ý nghĩa
“Ai còn cảm thương nó” để mô tả án
phạt giáng xuống trên Ni-ni-vê.
“Halleluia! Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu độ, Đấng vinh hiển uy quyền...
Người đã xét xử con điếm khét tiếng từng dùng chuyện gian dâm mà làm cho mặt
đất ra hư hỏng, và Người đã bắt nó phải đền nợ máu các tôi tớ của Người mà
chính tay nó đã giết... Halleluia! Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng Chúa lời
tôn vinh, vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã
trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền”(Kh
19,1-2.6-8).
CUỐN SÁCH 42
SÁCH KHA-BA-CÚC (Kb)
1. Bối cảnh
Trong Thánh Kinh, ngôn sứ Kha-ba-cúc là người đầu tiên dám
cật vấn Thiên Chúa. Suốt nhiều thế kỷ, đức tin vẫn tuyên xưng công lý của Thiên
Chúa. Tuy nhiên, công lý ấy không bao giờ cũng rõ ràng và nhiều người phải im
lặng giấu đi mối ngờ vực của mình. Ngôn sứ Kha-ba-cúc là người đầu tiên đạt ra
câu hỏi: Tại sao Đức Chúa cho phép bất công chiến thắng? Khi Người trừng phạt
kẻ áp bức, tại sao Người lại thay thế kẻ ấy bằng một người khác tệ hơn? Câu trả
lời có 2 vế:
- Đức Chúa giữ bí mật về cách thức Người điều
hành thế giới, Người chỉ đòi hỏi chúng ta một điều đó là luôn trung thành: Người công chính thì được sống, nhờ lòng
thành tín của mình (Kb 2,4).
- Vị ngôn sứ chiêm ngắm
vinh quang của Thiên Chúa, Đấng rồi ra sẽ thực thi công lý.
Ngôn sứ Ha-ba-cúc tuyên sấm từ năm 605-600, khi vua
Na-cô-đô-nô-xo vừa tiêu diệt đế quốc Át-sua hung hãn, chính ông đang trở nên
đầy quyền lực và đang áp bức Ít-ra-en (Dẫn
nhập Sách Ngôn sứ Kha-ba-cúc, Cựu Ước và Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách
Kha-ba-cúc gồm có 3 chương:
Chương |
1. CUỘC
ĐỐI THOẠI GIỮA NGÔN SỨ VÀ THIÊN CHÚA - Lời phàn nàn thứ nhất của ngôn sứ: Sự
công chính suy thoái - Sấm ngôn đầu tiên: Dân Can-đê, một tai hoạ ĐỨC CHÚA gửi
đến - Lời phàn nàn thứ hai của ngôn sứ: Kẻ áp bức đòi tiền hối lộ. |
2. Sấm
ngôn thứ hai: Người công chính sẽ được sống nhờ lòng thành tín - NHỮNG LỜI
CHÚC DỮ CHO KẺ ÁP BỨC. |
3. CẦU
XIN ĐỨC CHÚA CAN THIỆP. |
2. Cuộc đối thoại giữa
Tiên tri Kha-ba-cúc (1,2 – 2,5a)
Cuộc
đối thoại gồm hai phần, trong mỗi phần vị tiên tri đặt câu hỏi với Chúa và than
khóc (1,2-4; 1,12-17), sau đó là lời đáp trả của Thiên Chúa. Vị tiên tri đặt ra
những câu hỏi thật đau đớn, cũng là những câu hỏi của người tín hữu khi lâm vào
tình trạng khổ đau: “Tại sao Ngài bắt con
phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau?” “Tại sao Ngài
cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt trửng người
chính trực hơn mình?”(1,3.13).
Câu trả lời của Thiên
Chúa được đúc kết trong 2,4: “Này đây, ai
không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính, nhờ đức tin, sẽ
được sống.” “Đức tin” ở đây là sự thành tín (Xh 34,5-8). Đây cũng là từ
chìa khoá trong thần học của thánh Phaolô về sự công chính hoá bởi đức tin: “Trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa
được mạc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công
chính nhờ đức tin sẽ được sống”(Rm 1,17). Thư Do thái nối kết đức tin với
sự kiên nhẫn: “Người công chính của Ta
nhờ đức tin sẽ được sống, nhưng nếu người ấy bỏ cuộc thì Ta không hài lòng về
người ấy”(Dt 10,38).
CUỐN SÁCH 43
SÁCH XÔ-PHÔ-NI-A (Xp)
1. Bối cảnh
Ngôn sứ I-sai-a đã kết
thúc sứ vụ khoảng năm 690, và sau đó những người Giuđa trung nghĩa đã bị bắt bớ
dưới triều đình vua Mơ-na-se. Suốt thời gian này, người ta không được nghe Lời
của Thiên Chúa. Khoảng năm 630, lời rao giảng của ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã phá vỡ
sự im lăng ấy, nhưng không gây được tiếng vang bao nhiêu trong một dân đa bị
ảnh hưởng ngoại giáo (Dẫn nhập Sách Ngôn
sứ Xô-phô-ni-a, Cựu Ước và Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Xô-phô-ni-a
gồm có 3 chương:
Chương |
1.
NGÀY CỦA ĐỨC CHÚA TẠI GIU-ĐA - Lời mở đầu liên quan đến vũ trụ - Hạch tội thờ
các thần ngoại bang - Hạch tội những kẻ buôn bán ở Giê-ru-sa-lem - Hạch tội
những kẻ không tin - Ngày của ĐỨC CHÚA. |
2. Kết
luận: Kêu gọi trở lại - Kẻ thù ở phương Tây: quân Phi-li-tinh. |
3. HẠCH
TỘI GIÊ-RU-SA-LEM - Hạch tội các nhà lãnh đạo quốc gia - Bài học của các nước
- Các dân tộc trở lại - Thiểu số Ít-ra-en còn sót lại - Thánh vịnh mời gọi
Xi-on vui mừng. |
2. Sống
trong hy vọng (Xp 3,9-20)
a. Số Sót
“Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo
hèn và bé nhỏ, chúng sẽ tìm nương ẩn nơi Danh Đức Chúa”(3,12). Từ anawim
trong tiếng Hipri nói đến những người nghèo hèn nhưng còn hàm chứa ý nghĩa thần
học về sự khiêm tốn, nghèo khó, thấp hèn. Đó là những người không cậy dựa vào
thế lực người đời nhưng hoàn toàn cậy dựa nơi Thiên Chúa. Thánh Mátthêu đặt vào
môi miệng Chúa Giêsu lời mời gọi: “Hãy
học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 21,29).
b. Thánh thi ngợi khen (3,14-18a)
Đối
chiếu thánh thi này với trình thuật Truyền tin cho Đức Mẹ (Lc 1,26-38) sẽ thấy
nhiều điểm tương đồng:
- Reo vui lên (câu 14).
- Đừng sợ (câu 16).
- Thiên Chúa ở giữa
ngươi (câu 17).
- Vị Cứu tinh hùng mạnh
(câu 17).
Việc
đối chiếu này giúp ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của trình thuật Truyền Tin cũng như ý
nghĩa của kinh Kính Mừng và chuỗi Mân Côi. Mẹ Maria đang mang Chúa Giêsu trong
lòng dạ, Mẹ được giới thiệu như là Giêrusalem mới và là mẫu mực cho những người
nghèo của Thiên Chúa, những người đặt trọn niềm tín thác và cậy trông nơi Thiên
Chúa.
CUỐN SÁCH 44
SÁCH KHÁC-GAI (Kg)
1. Tổng quát
Ngôn sứ Khác-gai là vị
đầu tiên trong các ngôn sứ sau thời lưu đày. Tên gọi “Khác-gai” có nghĩa là lễ
hội. Tên gọi này có thể chỉ về ngày sinh của vị tiên tri là một lễ hội. Tên gọi
này cũng có thể nói về nhiệm vụ của ông là tái thiết Đền thờ để phục vụ các cử
hành tôn giáo, những lễ hội. Tiên tri Khác-gai bắt đầu công bố các sấm ngôn bắt
đầu từ năm 520 trước Công nguyên. Đối tượng ông nhắm đến là những người Do thái
từ lưu đày trở về lần II dưới sự lãnh đạo của Dơ-rúp-ba-ven và Giơ-hô-xa-đắc (khoảng
năm 522). Sách Khác-gia gốm có 2 chương:
Chương |
1.
Tái thiết Đền Thờ. |
2. Hạch
hỏi các tư tế - Lời hứa cho được mùa - Lời hứa cho Dơ-rúp-ba-ven. |
Sách
tiên tri Khác-gai có thể được phân chia như sau:
Phần I: Tái thiết Đền
thờ (1,1-15a).
1,1 -11: Lời sấm thứ
nhất: Cổ võ việc xây lại Đền thờ.
1,12-15a: Lời sấm thứ
hai: Đáp ứng của dân và lời bảo đảm của Chúa.
Phần II: Vinh quang
tương lai của Đền thờ (1,15b– 2,23).
1,15b – 2,9: Lời sấm
thứ ba: Lời hứa của Chúa.
2,10-19: Lời sấm thứ tư
: Những quyết định và phúc lành tương lai.
2,20-23: Lời sấm thứ
năm: Tương lai của Dơ-rúp-ba-ven
CUỐN SÁCH 45
SÁCH DA-CA-RI-A (Dcr)
1. Tổng quát
Sách
Da-ca-ri-a không cho biết tên tác giả. Mặc dù những phát hiện tại Qumran cho
thấy không có sự phân chia giữa Da-ca-ria-a chương 1-8 và chương 9-14 (tức là Da-ca-ria-a
I & II), các học giả ngày nay vẫn cho rằng đây là hai phần tách biệt dựa
vào những khác biệt về nội dung, văn phong, và từ vựng. Về nội dung, Da-ca-ria-a
I quan tâm đến việc tái thiết đền thờ, các khuôn mặt lịch sử, và các lời sấm
được xác định về thời gian; còn Da-ca-ria-a II lại quan tâm đến án xử của Thiên
Chúa và những lời hứa mang tính cánh chung. Về văn phong, Da-ca-ria-a I là
tuyển tập chín thị kiến và những lời giải thích được viết như thơ; còn Da-ca-ria-a
II là một chuỗi những lời sấm quy chiếu về các tiên tri thời trước. Về từ vựng,
Da-ca-ria-a I bắt đầu bằng công thức truyền thống của các tiên tri, còn Da-ca-ria-a
lại bắt đầu hai phần lớn trong sách bằng câu “Lời sấm: Lời của Đức Chúa…”(9,1;
12,1).
Chúng ta cũng không có
được những chi tiết xác định thời gian tác phẩm được biên soạn. Tuy nhiên các
học giả dựa vào một số điểm để xác định thời gian biên soạn: (1) việc sử dụng
các lời tiên tri trước và trong thời lưu đày (I-sai-a, Hô-sê, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en,
Giô-en); (2) một vài ám chỉ đến những biến cố xảy ra sau năm 333 trước Công
nguyên (x. chương 9); (3) văn phong và nội dung mang tính cánh chung, đặc biệt
chương 14, gợi ý về thời kỳ sau khi mới từ lưu đày trở về. Dựa vào những chi
tiết trên, các học giả cho rằng sách Da-ca-ria-a II đã được biên soạn sau cuộc
chinh phục của Alexander đại đế (năm 333 trước CN) và trước năm 200 trước Công
nguyên.
Phần mở đầu của sách
giới thiệu “Tiên tri Da-ca-ri-a, con ông Berekia, ông này là con ông Iddo”. Tên
gọi Da-ca-ri-a có nghĩa là “Thiên Chúa đã nhớ đến”. Ông Iddo, ông nội của Da-ca-ri-a
là một trong các tư tế đã từ cảnh lưu đày Babylon trở về, do đó nhiều người
nhấn mạnh đến nguồn gốc tư tế của tiên tri Da-ca-ri-a. Dựa vào những chỉ dẫn về
thời gian trong sách, người ta chia sách Da-ca-ri-a thành hai phần: phần thứ
nhất (chương 1-8) và phần thứ hai (chương 9-14). Hai phần này trình bày hai
giai đoạn khác nhau trong lịch sử tôn giáo và chính trị của Ít-ra-en. Sách
Da-ca-ri-a gồm có 14 chương:
Chương |
Chương |
1.
Khuyên nhủ sám hối - Thị kiến thứ nhất: các kỵ mã |
8. Viễn
ảnh ơn cứu độ thời Đấng Mê-si-a - Trả lời về vấn đề ăn chay |
2. Thị
kiến thứ hai: sừng và thợ rèn - Thị kiến thứ ba: người đo - Hai lời kêu gọi
dân lưu đày |
9. Đất
mới - Đấng Mê-si-a - Tái thiết Ít-ra-en |
3. Thị
kiến thứ bốn: mặc y phục cho ông Giê-su-a - "Chồi non" xuất hiện |
10.
Trung thành với ĐỨC CHÚA - Ít-ra-en được giải phóng và được trở về |
4. Thị
kiến thứ năm: chân đèn và những cây ô-liu - Ba lời nói liên quan đến ông
Dơ-rúp-ba-ven |
11. Hai
người mục tử |
5. Thị
kiến thứ sáu: cuốn sách bay |
12.
Giê-ru-sa-lem được giải thoát và được đổi mới |
6. Thị
kiến thứ tám: chiến xa - Đội triều thiên cho ông Giê-su-a |
13.
Nhân cách hoá lưỡi gươm: dân mới |
7. Thắc
mắc về việc ăn chay - Trở về với quá khứ của dân tộc |
14.
Cuộc chiến thời cánh chung. Vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem. |
2. Sách Da-ca-ri-a I
gồm những phần chính như sau:
Phần I: Dẫn vào sách Da-ca-ri-a
I (1,1-6).
Phần II: Những thị kiến
(8 thị kiến và lời đáp trả của Chúa) (1,7 – 6,15).
Phần III: Những lời sấm
về chay tịnh và tương lai (7,1- 8,23).`
a. Da-ca-ri-a I (chương 1-8) - Đọc Da-ca-ri-a
2,10-17
Đoạn
này gồm hai phần. Phần thứ nhất (2,10-13) là những mệnh lệnh cho dân lưu đày và
lời cảnh cáo cho các dân đã cai trị họ. Dân lưu đày được khuyến cáo hãy trốn
khỏi đất “phương Bắc” trước khi Chúa phân tán dân Ba-by-lon đi bốn phương trời
(câu 10). Ba-by-lon ở đây không chỉ một miền đất về mặt địa lý nhưng ám chỉ tất
cả những kẻ áp bức Israel. Hình phạt giáng xuống trên chúng là “chúng trở thành chiến lợi phẩm cho những kẻ
đã làm tôi chúng”(câu 13). Tại sao Thiên Chúa lại phản ứng mạnh mẽ như thế?
Vì “kẻ nào động đến các ngươi là động đến
con ngươi mắt Ta”(câu 12). Hình ảnh này diễn tả tấm lòng thương yêu đặc
biệt Chúa dành cho dân lưu đày và cho thấy họ có tầm quan trọng như thế nào đối
với Chúa. Thiên Chúa luôn luôn dành tình thương đặc biệt cho những người cô
thân cô thế, những kẻ bị áp bức. Dựa trên chân lý này, Hội Thánh nhấn mạnh đến
tình thương ưu tiên cho người nghèo.
Phần thứ hai (câu 14-17)
trình bày một mạc khải mới bằng ngôn ngữ truyền thống: “Hỡi con gái Sion, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại
giữa ngươi, sấm ngôn của Đức Chúa”(x.Xp 3,14-15). Trong Chúa nhật III Mùa
Vọng (năm C), Hội Thánh diễn tả tâm tình này trong bài đọc I để nói lên niềm
vui vì ngày giáng sinh của Đấng Mêsia đã gần đến: “Phần tôi, tôi làm phép Rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền
thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép
Rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa”(bài Tin Mừng CN III Vọng, năm
C).
3. Da-ca-ri-a II
(chương 9-14)
Da-ca-ri-a
II được chia thành hai phần chính:
- Phần I: Án xử của
Thiên Chúa (9,1 11,17).
- Phần II: Phục hưng
(12,1 – 14,21).
a. Chân dung Đấng Mêsia
Từ
Mêsia trong tiếng Do thái được dịch sang tiếng Hi Lạp là Christos (tiếng Việt
là Kitô), có nghĩa là Đấng-được-xức-dầu. Sách Da-ca-ri-a II trình bày dung mạo
Đấng Mêsia đích thực và chân dung này sẽ được thể hiện trọn vẹn nơi Chúa Giêsu.
Đấng Mêsia là Đức Vua
nhưng không phải vị vua theo quan niệm quen thuộc của người đời. Người là vị
vua khiêm tốn, khó nghèo: “Kìa Đức Vua
của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng, khiêm
tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ”(9,9). Chính vị vua
khiêm tốn và nghèo khó đó sẽ “công bố hoà
bình cho muôn dân, thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng
cõi đất”(9,10). Thế nhưng Đấng Mêsia lại bị dân Chúa ruồng bỏ và giết hại
như hình ảnh Người Tôi tớ trong sách I-sai-a, để rồi họ khám phá ra chính Người
là nguồn Ơn Cứu độ: “Chúng sẽ ngước nhìn
lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa
con một. Chúng sẽ thương tiếc như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng…. Ngày
ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem để tẩy trừ tội
lỗi và ô uế”(12,10 – 13,1).
b. Sách Da-ca-ri-a trong cử hành phụng vụ
Trong
Phụng vụ Mùa Vọng, vào Chúa nhật Hồng giữa mùa Tím, Hội Thánh mượn lời của Da-ca-ri-a
II mà hát lên niềm vui của mình: “Nào
thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo
hò! Vì Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi” (9,9). Lễ Giáng sinh đang đến
gần, Chúa Kitô sắp được sinh ra, lấp đầy những khát vọng sâu xa nhất của lòng
người.
Trong Phụng vụ Mùa
Chay, vào ngày Lễ Lá, khi tưởng niệm việc Chúa Giêsu long trọng vào thành
Giêrusalem và được mọi người tung hô chào đón, Hội Thánh lại lấy lời của Da-ca-ri-a
II mà nhắc nhớ: “Đức Vua khiêm tốn, ngồi
trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ”(9,10). Quả là một hình ảnh
khiêm tốn, và hình ảnh ấy là luồng ánh sáng soi chiếu suốt hành trình Tuần
Thánh, ở đó chúng ta chiêm ngắm Vua Giêsu hấp hối trong vườn Dầu, bị bắt bớ và
đánh đập dã man, bị kết án và vác thập giá lên đồi Canvê, cuối cùng bị đóng
đinh vào thập giá, một hình khổ chỉ dành cho quân trộm cướp và phản loạn vào
thời đó. Nhưng chính Vua Giêsu đó là Đấng mà người ta phải ngước nhìn và than
khóc (12,10). Cũng từ cạnh sườn vua Giêsu ấy, một dòng nước và máu sẽ chảy ra,
dòng nước thanh tẩy mọi tội lỗi và ô uế, dòng nước ban tràn đầy ân sủng. Thánh
Gioan đã ghi lại thật vắn tắt nhưng cũng thật phong phú ý nghĩa: “Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn
Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và
lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả
anh em nữa cũng tin… Có lời Kinh Thánh chép rằng: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm
thâu”(Ga 19,34-37).
CUỐN SÁCH 46
SÁCH MA-LA-KHI (Ml)
1. Bối cảnh
Tiên tri Ma-la-khi hoạt
động vào khoảng năm 450 trước Công nguyên. Khi đó, Đền thờ đã được tái thiết và
các sinh hoạt tôn giáo đang được khôi phục. Tuy nhiên có những dấu hiệu tiêu
cực trong đời sống đạo của dân chúng. Một số người hoài nghi về quyền năng
Thiên Chúa, cho rằng Chúa không đem lại sự thịnh vượng mà các tiên tri loan
báo; một số khác tuy vẫn giữ những nghi thức tế tự nhưng chỉ là hình thức bên
ngoài. Trong bối cảnh đó, tác giả sách Ma-la-khi nhấn mạnh đến tinh thần của
giao ước Thiên Chúa đã ký kết với Môsê. Sự trung thành với giao ước phải phát
xuất tự tấm lòng và đặt nền trên sự kính trọng yêu thương chứ không phải trên
việc tuân giữ các lề luật cách hình thức. Sách Ma-la-khi gồm có 3 chương:
Chương |
1.
Tình thương của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en - Cáo tội các tư tế. |
2.
Hôn nhân hỗn hợp và ly dị - Ngày của ĐỨC CHÚA. |
3. Nộp
thuế thập phân cho Đền Thờ - Người công chính khải hoàn trong ngày ĐỨC CHÚA. |
2. Giáo huấn
Tiên
tri Ma-la-khi trình bày Thiên Chúa như một vị vua vĩ đại và toàn năng, “Từ Đông sang Tây, Danh Ta thật cao cả giữa
chư dân”(1,11), nhưng cũng là Đấng chan chứa tình yêu đối với dân: “Ta đã yêu thương các ngươi. Thế mà các ngươi
nói: Ngài yêu thương chúng con ở chỗ nào?”(1,2). Có lẽ vì thế mà một số người
quan niệm rằng, “Phụng thờ Thiên Chúa
thật là viển vông, tuân giữ các lệnh truyền của Đức Chúa và bước đi ủ rũ trước
nhan Người, nào có lợi chi?”(3,14). Hoặc vẫn làm việc thờ phượng nhưng chỉ
là hình thức bên ngoài đến nỗi Thiên Chúa trách mắng dân vì cung cách thờ
phượng của họ: “Khi các ngươi tiến dâng
một con vật mù để làm lễ tế, đó chẳng phải là xấu sao? Và khi các ngươi dâng
một con vật què hay bệnh tật, đó chẳng phải là xấu sao? Hãy dâng con vật ấy cho
tổng đốc của ngươi, liệu nó có bằng lòng với ngươi chăng?”(1,8).
Giáo
huấn của tiên tri Ma-la-khi vẫn rất cần thiết cho đời sống đức tin của ta ngày
nay. Trong đời sống thờ phượng, lễ vật tiến dâng là cách biểu hiện lòng tôn
kính của ta đối với Thiên Chúa, vì thế lễ dâng phải là những lễ vật có giá trị.
Chúa Giêsu giúp ta hiểu giá trị ở đây không chỉ là giá trị vật chất nhưng là
chiều sâu tâm hồn của người hiến dâng. Ngoài ra tiên tri Ma-la-khi nhấn mạnh
đến việc nộp thuế cho Đền thờ. Đây cũng không chỉ là chuyện đóng góp của cải
vật chất nhưng là phương thế giúp ta ý thức mình thuộc về một cộng đồng hiệp
nhất, và có trách nhiệm góp phần xây dựng cộng đồng. Vì thế cùng với việc dâng
lễ tế là đời sống tốt lành theo ý Thiên Chúa và lề luật của Người, “Hãy trở lại với Ta và Ta sẽ quay lại với các
ngươi”(3,7).
Mục lục
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI ĐỌC CỰU ƯỚC
SỬ BIÊN NIÊN I & II
(1Sb & 2Sb)
SÁCH ÉT-RA VÀ NƠ-KHE-MI-A
(Er & Nkm)
I-SAI-A ĐỆ NHỊ ( Is 40-55
= 16 chương)
I-SAI-A ĐỆ TAM ( Is 56-66
= 10 chương)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét