Trang

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

Học Thánh Kinh Cựu Ước (Thánh Kinh 100 Tuần _ Đức Cha Khảm)

 

 

HỌC THÁNH KINH CỰU ƯỚC

TỔNG QUÁT VÀ NHỮNG ĐIỂM CHÍNH YẾU

 

        

    Lời nói đầu

 

Căn bản của đời sống người Kitô hữu là học và sống Lời Chúa (Thánh Kinh), vì Lời Chúa là lương thực và nguồn mạch của đời sống đức tin của chúng ta. Cho nên, Sách giáo lý Hội Thánh dạy: “Việc nghiên cứu Thánh Kinh phải là như linh hồn của khoa Thần học. Nhờ chính lời Thánh Kinh này, thừa vụ Lời Chúa, gồm có việc giảng thuyết của các vị chủ chăn, việc dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô giáo, trong đó bài diễn giảng trong phụng vụ phải chiếm ưu thế, được nuôi dưỡng lành mạnh và tăng cường sinh lực thánh thiện” (số 132). Vì thế, Thánh Vịnh gọi “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105). Nói cách cụ thể: Thánh Kinh dẫn chúng ta đến gặp gỡ và sống với Thiên Chúa. Thánh Giê-rô-ni-mô còn khẳng định: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô”. Mà không biết Chúa Kitô thì chúng ta không thể là Kitô hữu, là người có Chúa Kitô được.

 

Với ước mong ấy, chúng con dùng toàn bộ Sách “Đường về Emmaus”, Thánh Kinh 100 Tuần, Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm. Bên cảnh đó tham khảo phần dẫn nhập của Thánh Kinh Cựu Ước & Tân Ước, Nhóm Giờ Kinh Phụng VụSách Chú giải Thánh Kinh Cựu Ước, tác giả Am Roguet, xuất bản 1970 hầu giúp anh chị em học hỏi tổng quát và những điểm chính yếu trong các Sách Cựu Ước.

 

Chúng con xin phép Qúy Đức Cha và Qúy tác giả cho chúng con lấy lại phần đánh máy  Thánh Kinh 100 Tuần từ trang Web giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp (http://dmhcg.org/CustomLinkModule/KT100Tuan.aspx#). và sắp xếp thứ tự các bài học lại có khác với bản gốc mong Qúy Đức Cha và Qúy tác giả thông cảm và giúp đỡ chúng con. Chúng con xin chân thành cảm ơn Qúy Đức Cha và Qúy tác giả. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và ban muôn ơn cho Qúy Đức Cha và Qúy tác giả.

 

 

 

Lưu hành nội bộ

 

                  

 

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI ĐỌC CỰU ƯỚC

 I. NHÌN BAO QUÁT

Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử để ban ơn cứu chuộc cho loài người. Sự can thiệp đó giống như một vết dầu loang, bắt đầu tự một người, một gia đình, một nòi giống, một dân tộc, rồi tràn lan ra khắp cả nhân loại. Thiên Chúa đã kêu gọi Áp-ra-ham và hứa cho miêu duệ ông biến thành một dân tộc lớn. Ngài đã ký giao ước với Mô-sê, và sai ông lãnh đạo việc giải phóng con cái Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai-cập. Ngài đã thành lập nước Ít-ra-en quân chủ với Đavít. Ngài đã sai các tiên tri giảng giáo và cải huấn khi họ phản bội Ngài và bị Ngài để cho lâm vào cảnh lưu đày. Trong tất cả những biến thiên lịch sử của Ít-ra-en, Ngài đã can thiệp và điều khiển một cách khôn ngoan và nhiệm mầu để chuẩn bị lòng người Ít-ra-en và tất cả chư dân thiên hạ đón nhận Tin Mừng "THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI" ban ơn cứu chuộc.

Tất cả những việc xảy ra trong giai đoạn chuẩn bị và chờ đón Đức Kitô, đã được ghi chép trong phần đầu bộ Thánh Kinh. Đó là phần Cựu Ước. Các sách thuộc pho Cựu Ước đã được biên soạn bằng nhiều thể văn khác nhau: lịch sử, ngạn ngữ, thi ca và một lối văn riêng gọi là tiên tri… Nhưng tất cả những sách đó đều nhằm kể lại cho chúng ta, những tư tưởng tôn giáo của dân tộc đã được Thiên Chúa tuyển chọn, trải qua lịch sử của họ.

Cựu Ước có thể coi được như một viên ngọc muôn màu sắc, sáng lạn xinh tươi. Chúng ta có thể nhìn ngắm từng khía cạnh để tìm hiểu toàn thân. Trước tiên chúng ta hãy nhìn ngắm khía cạnh lịch sử… Cựu Ước thực là pho sử tường thuật những quá trình của một bậc vĩ nhân, một gia đình, một nòi giống và một dân tộc… Muốn khảo cứu lịch sử dân tộc đó, ta cần phải quan sát và khảo học về khung cảnh địa lý, lịch sử chung của những dân tộc lân bang với họ. Câu chuyện lịch sử này đã được ghi chép bằng một thứ văn tự riêng. Điều đó đòi ta phải học hỏi về khung cảnh văn chương của bộ sách.

Thiên Chúa đã chọn dân tộc Ít-ra-en làm trung gian, chứng kiến, để Ngài tự mặc khải và gia ơn cứu rỗi cho loài người. Thế nên trong hết mọi chi tiết lịch sử  Israel, Thiên Chúa đã can thiệp và hướng dẫn tất cả mọi biến cố. Lịch sử ơn cứu chuộc, chính là câu chuyện giữa Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc và con người, những người hy vọng ơn cứu rỗi. Qua lịch sử Ít-ra-en, chúng ta cần nhận xét sự tiến triển của những ý tưởng tôn giáo và luân lý của họ và của tất cả loài người. Với cái nhìn của nhà thần học, chúng ta có thể nhằm vào ba khía cạnh:

- Lòng nhân hậu và sự quan phòng của Thiên Chúa.

- Định mệnh, tội lỗi và trách nhiệm cá nhân của con người.

- Ý định và chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã đem ra thi thố cho loài người và sự kiện nhân loại mong chờ Đức Cứu thế.

Sau nữa, Giáo hội ngày nay là hiện thân của Ít-ra-en lịch sử. Giáo hội chính là Ít-ra-en mới của Thiên Chúa. Tân ước là liên tục của Cựu ước. Sự kiện đó khiến ta không ngừng mắt chiêm ngưỡng trong lịch sử Ít-ra-en, những sử tích, những nhân vật khả dĩ được coi là tiêu biểu điển hình cho những sự kiện ghi chép trong Cựu và Tân ước. Đan cử một thí dụ: Biến cố xuất hành hay là cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ Ai Cập, đã được người Ít-ra-en nhìn nhận như một sự kiện làm tiêu biểu cho việc họ được thoát ách lưu đầy Ba-by-lon. Trong Tân ước, chúng ta thấy Đức Kitô và Thánh Phaolô đã coi việc xuất hành như biến cố tiên báo và điển hình cho phép rửa và sự phục sinh. Đó là chúng ta tìm hiểu ý nghĩa thiêng liêng của câu chuyện.

II. KHUNG CẢNH ĐỊA LÝ

Không cần mất giờ minh chứng, ai cũng thấy rằng muốn am hiểu Thánh Kinh Cựu cũng như Tân ước, người ta phải biết địa lý xứ Palestina. Renan đã có lý để coi việc am hiểu địa lý xứ Palestina như là đọc một cuốn Phúc âm thứ năm. Thực vậy, Phúc âm là sử chuyện cũng như các sách thuộc pho Cựu ước là sử chuyện… Đã là sử chuyện phải có những địa điểm làm nơi diễn tiến lịch sử. Đối với lòng đạo đức, địa lý xứ Palestina cũng không vô ích. Vì nếu nhờ khảo cổ học hay là có dịp quan sát tận nơi những địa điểm lịch sử của Phúc âm, tất nhiên người ta cũng thêm lòng tin tưởng. Đối với Cựu ước, địa lý xứ Palestina cũng không kém bề cần thiết. Cựu ước là lịch sử của một dân tộc, cố nhiên có liên hệ mật thiết với địa lý hơn câu chuyện của một người. Sau nữa, người ta có thể coi Cựu ước như là thứ tôn giáo được Thiên Chúa nâng đỡ nhiều hơn bằng các ân thưởng và những hứa hẹn vật chất. Giáo lý trong Cựu ước, nhất là trong sách Nhị luật, chứng tỏ Thiên Chúa thường hứa thưởng cho Ít-ra-en "được thoát ách nô lệ ngoại bang, được một miền đất tràn trề sữa và mật ong”(Đnl 11,9; Tv.37). Vì vậy, nếu thông hiểu địa lý Palestina, khi đọc những bài ghi chép nhiều địa điểm, thí dụ như Thánh vịnh 60, tất nhiên người ta cũng dễ hiểu hơn.

Trong thánh điện, Chúa Trời tuyên phán: "Khấp khởi mừng, Ta chia cắt Si-khem,Ta đo đạc cả đồng bằng Xúc-cốt. Ga-la-át về Ta, Mơ-na-se cũng về Ta, Ta lấy Ép-ra-im làm mũ chiến đội đầu, lấy Giu-đa làm cây gậy chỉ huy. Mô-áp là chậu Ta tắm rửa, Ê-đôm là chỗ Ta liệng giày, đánh bại Phi-li-tinh, Ta reo mừng thắng trận"(Tv 60,8-10).

Chương trình học hỏi Thánh Kinh của chúng ta quá ngắn ngủi, nên chúng ta không đủ giờ để học hỏi sâu hơn địa lý Palestina. Chúng ta chỉ học tổng quát toàn bộ Thánh Kinh Cựu ước gồm 46 cuốn.

 

 

 

 

 

 

NGŨ THƯ – NĂM CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN CỦA THÁNH KINH

 

Đây là dẫn nhập cho năm quyển sách đầu tiên của Cựu Ước gồm: sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lê-vi, sách Dân số và sách Đệ nhị luật. Nó cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về bộ Ngũ Thư, sự kết nối với nhau giữa năm quyển sách; đồng thời chúng ta thấy rõ được lịch sử hình thành dân tộc Ít-ra-en, dân riêng của Thiên Chúa.

I. Ngũ Thư là gì?

Chữ “Ngũ Thư” bởi tiếng Hy lạp là pentateuchos, gồm hai phần: Phần thứ nhất là Penta nghĩa là “số 5”, phần thứ hai là teuchos nghĩa là “cuộc giấy, tập sách”. Do đó, chữ pentateuchos có thể dịch là “5 cuộn giấy”, hay “5 tập sách”. Người ta dùng từ “Ngũ Thư” để gọi năm quyển đầu tiên trong bộ Thánh Kinh, đó là sách Sáng thế, Xuất hành, Lê-vi, Dân số và Đệ nhị luật. Riêng người Do thái gọi bộ Ngũ Thư là Torah, nghĩa là Luật.

II. Nội dung của bộ Ngũ Thư

Ngũ Thư là một câu chuyện diễn tiến liên tục về lịch sử của một dân tộc và một đất nước, đó là Ít-ra-en, dân riêng của Thiên Chúa. Qua dân tộc này, Thiên Chúa thực hiện kế hoạch yêu thương cho toàn thể nhân loại. Diễn tiến câu chuyện như sau:

1. Sách Sáng thế

Sau những chương đầu tường thuật về nguồn gốc loài người và vũ trụ, sách Sáng Thế tập trung vào gia đình Áp-ra-ham, một người có đức tin mạnh mẽ, được Chúa chọn để khởi đầu cho dân tộc mới, kế hoạch mới. Nối tiếp Áp-ra-ham, sách kể lại những câu chuyện về con cháu của ông, đó là I-xa-ác, Gia-cóp, Giu-se… Cuối sách, gia đình Áp-ra-ham trở nên một “gia tộc” đông đúc nhưng phải sống nơi đất khách quê người, đó là Ai cập.

2. Sách Xuất hành

Trải qua gần 400 năm, con cháu Áp-ra-ham ngày càng đông, tạo nên sự nguy hiểm cho vua Ai cập. Cho nên, họ bị các vua này đàn áp. Trong hoàn cảnh đó, Thiên Chúa dùng Mô-sê để giải phóng dân Ít-ra-en ra khỏi nô lệ Ai cập và dẫn đưa họ về Đất Hứa. Sách Xuất hành tường thuật hai biến cố vĩ đại của Thiên Chúa, đó là cuộc giải phóng dân và ký kết giao ước với dân tại núi Si-nai. Qua giao ước này, Chúa nhận Ít-ra-en là dân riêng của Người. Người sẽ bảo vệ họ với điều kiện là họ tuân giữ các giới răn Người ban trên hai bia đá. Ít-ra-en trở thành một “dân tộc”.

3. Sách Lê-vi

Thiên Chúa là Đấng Thánh thì Ít-ra-en, dân của Người cũng phải là dân thánh. Sách Lê-vi tập trung vào việc thờ phượng, những quy định, luật lệ. Đó là những cách thức giúp cho dân Ít-ra-en thật sự là dân thánh của Chúa.

4. Sách Dân Số

Sách Dân Số thuật lại việc dân Ít-ra-en chuẩn bị vào Đất Hứa. Mặc dù gần kề Đất Hứa, nhưng dân Ít-ra-en luôn phạm tội. Cho nên, Thiên Chúa cần thanh luyện dân qua hành trình 40 năm trong sa mạc, để có một thế hệ mới xứng đáng hơn. Ngoài tường thuật về hành trình trong sa mạc, sách này cũng thuật lại những chỉ dẫn cần thiết của Chúa dành cho dân khi họ vào Đất Hứa.

5. Sách Đệ nhị luật

Sách Đệ nhị luật ghi lại những lời nhắc nhở của Mô-sê dành cho dân Ít-ra-en về sự công bình và lòng trung thành của Chúa trong quá khứ và ông cũng nói đến những thách thức của họ trong tương lai. Sau các diễn từ, Mô-sê chúc phúc cho dân, trao quyền hướng dẫn dân cho Giô-suê và ông đã từ trần.

CUỐN SÁCH 1

SÁCH SÁNG THẾ (St)

 

I. TỔNG QUÁT VỀ SÁCH SÁNG THẾ

Cuốn sách đầu tiên trong Ngũ thư và trong toàn bộ Thánh Kinh. Trong tiếng Hipri, sách này mang tên là Khởi Nguyên. Sách Sáng Thế được hình thành từng đoạn trong nhiều thế kỷ. Mãi đến thế kỷ thứ 5 TCN, nó mới được hình thành vĩnh viễn, khi dân Do thái từ đất lưu đày Ba-by-lon trở về đã đem theo niềm tin của mình viết thành văn tự, một áng văn để đời (Dẫn nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).

Ai đã soạn Sách Sáng Thế? Không phải là một nhưng là nhiều tác giả. Đừng quên rằng dân của Thánh Kinh đã được hình thành cách tiệm tiến, do nhiều bộ lạc du mục tập hợp lại với nhau. Họ đều không biết chữ nhưng ấp ủ trong lòng những kỷ niệm về ông bà tổ tiên của họ và những điềm thiêng dấu lạ mà Thiên Chúa đã thực hiện cho họ: họ kể lại cho nhau nghe bằng lời, mọi sự đều là truyền khẩu (Dẫn nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).

Sách chia làm 3 phần: phần 1: Chương 1-11 bàn về những vấn đề vượt trên thời gian và lịch sử: tạo dựng thế giới và con người, tội lỗi đột nhập trần gian, sự ác tràn ngập… Cần vượt lên trên những hình ảnh cụ thể để nắm bắt nội dung tác giả muốn chuyển tải. Vì không nắm vững điều này nên nhiều Kitô hữu đã cảm thấy hoang mang khi đọc Thánh Kinh và đối chiếu với những khám phá khoa học hiện đại. Phần 2: Chương 12-36 và Phần 3: Chương 37-50 trình bày lịch sử các tổ phụ dân Ít-ra-en.

Chương

Chương

1. Thiên Chúa sáng tạo trời đất

26. Ông I-xa-ác tại Gơ-ra - Những giếng nước giữa Gơ-ra và Bơ-e Se-va - Giao ước với vua A-vi-me-léc - Các bà vợ người Khết của ông Ê-xau 

2. Vườn địa đàng. Thử thách.

27. Ông Gia-cóp đoạt lời chúc phúc của ông I-xa-ác - Ông I-xa-ác sai ông Gia-cóp đến nhà ông La-ban

3. Sa ngã

28. Ông Ê-xau lấy vợ lần nữa - Giấc mộng của ông Gia-cóp

4. Ca-in và A-ben - Dòng dõi ông Ca-in

29. Gia-cóp đến nhà ông La-ban - Ông Gia-cóp lấy hai vợ - Các con ông Gia-cóp

5. Các tổ phụ trước Hồng Thuỷ - Loài người sa đoạ - Chuẩn bị

30. Ông Gia-cóp làm giàu

6. Con trai Thiên Chúa và con gái loài người. Loài người sa đoạ - Chuẩn bị

31. Ông Gia-cóp trốn đi - Ông La-ban đuổi theo ông Gia-cóp

7. Lụt Hồng Thủy

32. Ông Gia-cóp chuẩn bị gặp ông Ê-xau - Vật lộn với Thiên Chúa

8. Nước rút - Ra khỏi tàu

33. Ông Gia-cóp gặp ông Ê-xau - Ông Gia-cóp và ông Ê-xau chia tay - Ông Gia-cóp đi Si-khem

9. Trật tự mới của thế giới - Ông Nô-ê và các con

34. Cô Đi-na bị làm nhục - Thoả thuận về hôn nhân với dân thành Si-khem - Ông Si-mê-ôn và ông Lê-vi bội ước và báo thù

10. Các dân trên mặt đất

35. Ông Gia-cóp tại Bết Ên - Ông Ben-gia-min chào đời. Bà Ra-khen từ trần - Ông Rưu-vên loạn luân - Ông I-xa-ác qua đời

11. Tháp Ba-ben - Các tổ phụ sau Hồng Thuỷ - Dòng dõi ông Te-ra

36. Ông Ê-xau tại Ê-đôm - Ông Ê-xau di cư - Dòng dõi ông Ê-xau tại Xê-ia

12. Thiên Chúa gọi ông Áp-ram - Ông Áp-ram ở bên Ai-cập

37. Ông Giu-se và các anh - Ông Giu-se bị các anh bán

13. Ông Áp-ram và ông Lót chia tay

38. Ông Giu-đa và bà Ta-ma

14. Cuộc viễn chinh của bốn vua - Ông Men-ki-xê-đê

39. Thời đầu của ông Giu-se bên Ai-cập - Ông Giu-se bị quyến rũ - Ông Giu-se vào tù

15. Lời hứa và giao ước của Thiên Chúa

40. Ông Giu-se giải mộng cho các quan của Pha-ra-ô

16. Ông Ít-ma-ên chào đời

41. Các giấc chiêm bao của Pha-ra-ô - Ông Giu-se làm quan - Các con ông Giu-se

17. Giao ước và phép cắt bì

42. Ông Giu-se gặp các anh lần đầu tiên - Các con ông Gia-cóp trở về xứ Ca-na-an

18. Thiên Chúa hiện ra tại Mam-rê - Ông Áp-ra-ham can thiệp cho thành Xơ-đôm

43. Các con ông Gia-cóp đem Ben-gia-min đi theo - Cuộc gặp gỡ tại nhà ông Giu-se

19. Thành Xơ-đôm bị phá huỷ - Nguồn gốc người Mô-áp và người Am-mon

44. Chén bạc của ông Giu-se trong bao của ông Ben-gia-min - Ông Giu-đa can thiệp

20. Ông Áp-ra-ham tại Gơ-ra

45. Ông Giu-se tỏ cho anh em nhận ra mình - Pha-ra-ô mời gia đình ông Gia-cóp sang Ai-cập - Anh em ông Giu-se trở về đất Ca-na-an

21. Ông I-xa-ác chào đời - Ha-ga và Ít-ma-ên bị đuổi

46. Ông Gia-cóp lên đường đi Ai-cập - Gia đình ông Gia-cóp - Ông Giu-se đón tiếp cha

22. Ông Áp-ra-ham dâng I-xa-ác làm lễ tế - Dòng dõi ông Na-kho

47. Vào chầu Pha-ra-ô - Chính sách điền địa của ông Giu-se - Những lời trối trăng của ông Gia-cóp

23. Mồ mả của các tổ phụ

48. Ông Gia-cóp nhận hai người con ông Giu-se làm con và chúc phúc cho chúng

24. Ông I-xa-ác lấy bà Rê-bê-ca

49. Những lời chúc phúc của ông Gia-cóp - Ông Gia-cóp qua đời

25. Dòng dõi bà Cơ-tu-ra - Ông Áp-ra-ham qua đời - Dòng dõi ông Ít-ma-ên - Ông Ê-xau và ông Gia-cóp chào đời - Ông Ê-xau nhượng quyền trưởng nam

50. Đám tang ông Gia-cóp - Từ khi ông Gia-cóp qua đời đến khi ông Giu-se qua đời

II. Phần I: CHƯƠNG 1-11

1. Tổng quát

         Chương 1-11 cố đưa ra dây chuyền nối kết những đoạn thời gian khổng lồ kéo dài từ lúc khởi đầu công trình sáng tạo cho đến “các tổ phụ tiên khởi trong đức tin” mà ai nấy đều ghi nhớ tên tuổi, và người đi đầu dĩ nhiên là ông Áp-ra-ham.    

2. Chương 1-2: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người

Về việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người, trong sách Sáng Thế có hai trình thuật. Trình thuật I (1,1 – 2,4a) là trình thuật của truyền thống P (Priesterkedex – tư tế), do các tư tế biên soạn trong thời lưu đày ở Babylon. Trình thuật II (2,4b – 5,32) ) là trình thuật của truyền thống J (Jave – Giavê), cổ xưa hơn và cụ thể, sống động hơn khi trình bày Thiên Chúa gần gũi con người, trò chuyện với con người.

a. Công trình tạo dựng vũ trụ

Câu đầu tiên (1,1) mô tả trước khi có hành động tạo dựng của Thiên Chúa, thế giới là một khối hỗn mang. Rồi “ngọn gió của Thiên Chúa” bắt đầu hoạt động trên khối hỗn mang đó. Thiên Chúa tạo dựng mọi sự bằng Lời quyền năng của Người (1,3). Hành động tạo dựng của Thiên Chúa được trình bày trong khuôn khổ sáu ngày:

Ngày 1: Ánh sáng

Ngày 2: Bầu trời, tách biệt nước ở trên vòm và nước dưới vòm
Ngày 3: Đất và thảo mộc

Ngày 4: Các chòm sáng trên bầu trời

Ngày 5: Chim muông và cá

Ngày 6: Các loài động vật và con người

b. Con người

Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Đây là định nghĩa tuyệt vời và súc tích nhất về con người. Giải thích thần học thường nhấn mạnh rằng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên có linh hồn. Tuy nhiên, cách nhìn của Thánh Kinh không mang tính phân biệt xác-hồn. Đúng hơn, hình ảnh ở đây nói lên chức năng của con người là đại diện của Thiên Chúa trên trái đất. Cũng như Thiên Chúa là Đấng cai quản bầu trời, thì con người là đại diện của Người được trao trách nhiệm cai quản trái đất (1,26). Vì con người là hình ảnh Thiên Chúa nên những gì nói về Thiên Chúa đều có liên hệ đến ta, vd. mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Đồng thời con người có thể nói về Thiên Chúa khởi đi từ kinh nghiệm nhân loại của mình, dĩ nhiên là rất giới hạn. Từ ngữ chuyên môn gọi là loại suy. Chúa Giêsu chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đến nỗi ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha; do đó Ngài chính là khuôn mẫu cho ta để sống trọn nhân tính của mình. Con người có nam có nữ (1,28; 2,18-24), bình đẳng với nhau và bổ túc cho nhau. Đây là một tầm nhìn rất mới trong bối cảnh thời đại xa xưa. Vì con người được Thiên Chúa tạo dựng có nam, có nữ, nên những tình trạng như sự bất bình đẳng nam nữ hoặc chủ trương xoá tan sự độc đáo của mỗi giới đều không phù hợp ý muốn của Đấng Tạo hoá. Chiều kích xã hội của con người cũng được thể hiện ngay từ đầu, với căn bản là gia đình (2,18). Nền tảng gia đình được thiết lập. Chính Thiên Chúa liên kết hai người nam nữ nên một để họ bổ túc cho nhau và sinh sản con cái. Con người làm chủ trái đất (1,28; 2,19): con người được giao quyền làm chủ với tư cách là quản lý và là người cộng tác vào chương trình tạo dựng của Thiên Chúa.

c. Ngày sabát (2,2-3), dấu ấn của truyền thống P

Ngày sabát được liên kết với việc Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Trong tuần tạo dựng, Thiên Chúa đã có tám hành động tạo dựng, nhưng tám hành động này lại được xếp vào khuôn khổ sáu ngày (ngày thứ ba và thứ sáu, mỗi ngày có hai hành động). Mục đích là để làm nổi bật ý nghĩa của ngày sabát. Luật giữ ngày sabát được công bố trong sách Xuất Hành (20,8) nhưng ở đây đã được liên kết với thuở đầu tạo dựng, nghĩa là với trật tự tạo dựng của Thiên Chúa ngay từ đầu.

3. Chương 3 – 5

a. Tội của Adam và Eva (2,25 – 3,7)

    a.1. Con rắn

Trong bản văn, không có chỗ nào con rắn được đồng hoá với thần dữ. Việc đồng hoá chỉ diễn ra sau này vào thế kỷ I (Kn 2,24). Ở Canaan, rắn có liên hệ mật thiết với việc thờ phượng sự sung túc phì nhiêu, cũng là cám dỗ thường xuyên cho dân Ít-ra-en khi họ định cư ở đất Canaan. Vì thế đây là lời cảnh giác hãy tránh xa những việc thờ quấy này. Rắn ở đây cũng không liên hệ gì đến con rắn đồng trong sách Xuất hành. Sự kiện rắn đồng trong sách Xuất hành cho thấy Thiên Chúa có thể “dĩ độc trị độc!” Và Chúa Giêsu chấp nhận cái chết để ban tặng sự sống. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15).

    a.2. Ý nghĩa cám dỗ

Chiến thuật của mọi cám dỗ là chỉ nói một nửa sự thật: (1) các ngươi sẽ không chết, (2) mắt các ngươi sẽ mở ra, (3) các ngươi sẽ được giống như Thiên Chúa. Thực tế là sau khi ăn trái cấm, con người đã không chết nhưng lại không sống mãi, đã mở mắt ra để chỉ thấy mình trần truồng, và đã giống như Thiên Chúa biết thiện ác nhưng chỉ là cái biết giới hạn. Đây cũng là chiến thuật Satan áp dụng khi cám dỗ Chúa Giêsu (x. Mt 4, 1-11). Và cả ngày nay, với chúng ta.

Cây biết thiện ác (2,17): Ý nghĩa sâu xa của hình ảnh và trình thuật này là chỉ một mình Thiên Chúa – với sự toàn tri và khôn ngoan của Người – mới biết rõ ranh giới thiện ác và tốt xấu. Con người không thể tự mình xác định vì tầm nhìn giới hạn của phận người nên chỉ thấy được một phần nhỏ. Vì thế, phải biết trân trọng Lời Chúa về cây biết thiện ác (2,17) thì mới đến được cây trường sinh (3,22). Đây là bài học rất lớn cho con người hôm nay, nhất là trong lãnh vực luân lý. Quỷ cám dỗ bằng cách gây nghi ngờ, từ đó chối từ và vứt bỏ Lời Chúa. Vì thế cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Lời Chúa như Chúa Giêsu khi đối diện với những cám dỗ trong sa mạc. 

   a. 3. Hậu quả của tội

Hậu quả lập tức của tội lỗi là con người nhận ra sự trần trụi của mình và họ tìm cách che đậy sự trần trụi đó (3,7). Khi Đức Chúa lên tiếng hỏi “Ngươi ở đâu?” con người đưa ra lý do lẩn tránh Thiên Chúa, “bởi vì tôi trần trụi.” Thực ra con người không trần truồng vì đã lấy lá vả che thân, nhưng con người nhận ra mình trần trụi vì tương quan giữa họ với Thiên Chúa đã bị bẻ gẫy. Bẻ gẫy tương quan với Chúa, tội lỗi cũng phá hỏng những mối tương quan căn bản trong cuộc sống con người: đánh mất sự thống nhất nơi chính bản thân; tương quan vợ chồng biến thành tương quan thống trị và thèm khát thay vì yêu thương phục vụ; tương quan với tha nhân (anh em trong nhà, người ngoài) được dệt bằng dối trá, sợ hãi, đối đầu; cả tương quan với thế giới cũng trở nên khó khăn vì chính thiên nhiên tàn phá con người. Tất cả những điều này sẽ được trình bày trong những chương kế tiếp.

   b. Cain và Abel (4,1-16)

Câu truyện về Cain và Abel được nối kết cách lỏng lẻo với câu truyện trước đó về con người sa ngã. Một số học giả cho rằng đây là câu truyện hoàn toàn độc lập nhưng được tác giả sách Sáng Thế liên kết với câu truyện trước nhằm mục đích riêng của ông. Câu truyện này giả thiết lúc đó đã có các dân khác (St 4,14: “bất cứ ai gặp con sẽ giết con”); xã hội đã có tổ chức trong đó có những ngành nghề khác nhau, và một nền thờ phượng cũng đã bắt đầu phát triển. Mối quan tâm của tác giả là nhấn mạnh đến tội lỗi và hậu quả của nó chứ không nhằm những chi tiết khác, do đó khiến ta có những thắc mắc, vd. tại sao Chúa không nhận lễ vật của Cain. Có giả thuyết cho rằng câu truyện này muốn trình bày sự tranh chấp giữa các dân có nền văn hoá và ngành nghề khác nhau, cụ thể là giữa lối sống du mục và nông nghiệp. Cũng có giả thuyết khác cho rằng đây là cách nói về nguồn gốc của bộ tộc Kenites, mang tattoo trên trán và sống tách biệt các bộ tộc khác. Bộ tộc này cũng thờ phượng Thiên Chúa nhưng chưa bao giờ là thành viên của dân Ít-ra-en. Thiết nghĩ ý tưởng chính của câu truyện là lòng con người đã nghiêng về điều xấu. Từ tội lỗi của những con người đầu tiên, nhân loại tiếp tục xa rời Thiên Chúa, chìm sâu trong tội đến nỗi Thiên Chúa đã lấy làm tiếc vì tạo dựng loài người (6,6). Chính vì tội lỗi nhân loại tràn lan như thế nên cuối cùng Thiên Chúa đã tuyển chọn một dân để từ dân đó, toàn thể nhân loại giao hoà với Thiên Chúa. Đó là nội dung sẽ được trình bày từ chương 12 trở về sau.

4. Chương 5-11

  a. Lụt Hồng Thủy (6,1 – 9,29)

Có sự giống nhau giữa trình thuật này và một truyện thần thoại của Babylon (Gilgamesh Epic), theo đó hội đồng các thần linh quyết định hủy diệt nhân loại. Ea là thần khôn ngoan hiện ra với Utnapishtim và báo cho biết tai hoạ sắp tới, đồng thời dạy phải làm tầu để cứu cả nhà. Utnapshtim làm tầu rồi đem gia đình và cả thú vật lên tầu. Các thần cho cơn bão hoành hành nhưng rồi chính các thần linh cũng không kiểm soát nổi cơn bão, và phải run sợ ẩn nấp trên trời. Khi bão tan, Utnapishtim thả những cánh chim ra để xem xét tình hình. Khi vừa lên bờ, họ dâng lễ tạ ơn thần linh và được các thần thưởng cho sự bất tử. Tuy nhiên giữa truyện thần thoại này và trình thuật Thánh Kinh có những khác biệt căn bản. Trong trình thuật sách Sáng Thế, không hề có bóng dáng đa thần. Thiên Chúa và chỉ một mình Người mà thôi điều khiển tất cả và không có chuyện cơn bão lụt vượt ra ngoài sự kiểm soát của Thiên Chúa. Cơn lụt được trình bày rõ ràng là hình phạt của tội, và sau cơn lụt, Noê bước vào giao ước với Thiên Chúa chứ không để hưởng sự bất tử.

         Bản văn cũng nói đến cuộc hôn nhân giữa con trai Thiên Chúa và con gái loài người (6,1-4). Ở đây có âm vang của các chuyện thần thoại mang dáng dấp đa thần. Tác giả Thánh Kinh vận dụng câu truyện này để dẫn vào chuyện lụt hồng thủy như hình phạt tội lỗi, tội lỗi đã lan rộng đến độ vượt qua cả ranh giới giữa đất và trời! Ý nghĩa này được nhấn mạnh hơn nữa trong 6,5-8; 8,21-22 với ghi nhận rằng “Lòng con người toan tính điều xấu”. Trong văn hoá Hípri, trái tim (lòng) trước hết không phải là trung tâm tình cảm nhưng là nguồn tri thức và ý muốn. Do đó, điều nhấn mạnh ở đây là toàn bộ suy tư và đời sống con người đã ra xấu xa. Trình thuật này đã được vận dụng vào trong đời sống của Hội Thánh cách phong phú. Nước trong Lụt hồng thủy được coi như hình bóng của bí tích Thánh tẩy. Cũng như nước hồng thủy vừa hủy diệt nhân loại tội lỗi vừa tác sinh nhân loại mới, thì nước Thánh Tẩy cũng tha thứ tội lỗi và biến đổi chúng ta thành những con người mới. Con tầu Noê cũng được xem là hình bóng về Hội Thánh. Con tầu Noê được làm mà không có bánh lái, như thế giống như một Đền thờ hơn là con tầu Hình ảnh này diễn tả về Hội Thánh hoàn toàn ở trong tay Thiên Chúa (7,17). Noê cũng là hình ảnh loan báo Chúa Kitô, Đấng là Đầu nhân loại mới được canh tân trong Chúa Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy. Noê đã dâng lên Thiên Chúa hiến lễ đẹp lòng Người, và Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước bao gồm cả nhân loại (8,21). Giao ước này loan báo giao ước tối hậu trong Chúa Kitô.

 b. Các dân tộc trên thế giới (10,1 – 11,27)

    b.1. Bản danh sách các dân tộc (10,1 – 11,27)

Ý nghĩa thần học của bản danh sách này là sự thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa trong St 1,28: “Hãy sinh sôi nảy nở đầy mặt đất”. Ít-ra-en là một trong số các dân, và việc Thiên Chúa tuyển chọn họ không phát xuất từ những ưu điểm của họ nhưng hoàn toàn do lòng từ ái của Thiên Chúa mà thôi.

    b.2.Tháp Babel (11,1-9)

Tháp Babel biểu tượng cho giấc mơ rồ dại của con người muốn xây dựng một thế giới vắng bóng Thiên Chúa. Sau này, trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ quy tụ và hiệp nhất các dân nước khác nhau trong cùng một ngôn ngữ.

III. PHẦN II: CHƯƠNG 12-36

1. Tổng quát

Phần này gợi lên hình ảnh của các thị tộc du mục lúc ấy đã tin vào một Thiên Chúa gần gũi và cứu giúp họ, “Thiên Chúa của cha ông” họ. Các câu chuyện này xảy ra trên đất Ca-na-an, vào thời kỳ dân Ít-ra-en chưa khai sinh (giữa Tk XVIII và XV TCN). Nó cho thấy Thiên Chúa đã dùng lời hứa với ông Áp-ra-ham và ông Gia-cóp mà chuẩn bị công trình cứu độ của Người (Dẫn nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).

2. Chương 12-19

St 11,28 – 36,43 là những trình thuật về các tổ phụ, bắt đầu với tổ phụ Áp-ra-ham. Chủ đề xuyên suốt các trình thuật này là lời hứa của Thiên Chúa và việc thưc hiện lời hứa đó trong lịch sử.

 a. Tiếng gọi và lời đáp trả của Áp-ram (11,28 – 12,9)

   a. 1. Tiếng gọi của Thiên Chúa

Áp-ram và Áp-ra-ham là những cách gọi khác của cùng một tên, cũng như Xa-rai và Xa-ra. Sự thay đổi trong cách gọi bắt đầu diễn ra từ St 17,5.15 để làm nổi bật mối quan hệ mới của Áp-ra-ham với Thiên Chúa sau khi ký kết giao ước. Sau khi trình bày lịch sử nguyên thủy của toàn nhân loại, tác giả sách Sáng Thế bắt đầu tập trung vào một con người, từ con người này sẽ hình thành một gia đình, sau đó là một dân tộc. Việc tuyển chọn Áp-ram vẫn là một huyền nhiệm, hoàn toàn do sáng kiến của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa sẽ làm cho Áp-ram thành một dân lớn (12,2). Để được như thế, Áp-ram cần có hậu duệ và đất đai. Yếu tố cuối cùng trong lời hứa của Thiên Chúa là nhờ Áp-ram, “mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”(12,3). Điều này có nghĩa là Áp-ram, và sau này Ít-ra-en, được coi như trung gian của những phúc lành Thiên Chúa ban cho thế giới (Hc 44,21).

  a.2. Lời đáp trả của Áp-ram

Bản văn không cung cấp chi tiết gì về phản ứng của Áp-ram trước lời đề nghị của Thiên Chúa, cũng không cho biết lý do tại sao ông vâng phục. Bản văn chỉ ghi nhận vắn tắt, “Áp-ram ra đi như Đức Chúa đã phán với ông” (12,4). Hàm nghĩa ở đây là niềm tin không tra vấn và sự vâng phục tuyệt đối của tổ phụ Áp-ram. Chủ đề đức tin là chủ đề quan trọng sẽ được nhắc đến nhiều lần trong trình thuật về tổ phụ Áp-ra-ham. Thánh Phaolô đã mô tả đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham bằng những lời lẽ tuyệt vời, “Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Ra đi mà không biết mình đi đâu! Đức tin không chỉ là dùng lý trí để chấp nhận một số chân lý hoặc mệnh đề đức tin, nhưng là vâng nghe tiếng Chúa và phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa đến nỗi ra đi mà không cần biết mình đi đâu, chỉ cần biết là đi với Chúa và đi theo Chúa, thế là đủ. Tổ phụ Áp-ra-ham mãi mãi là mẫu mực cho đời sống đức tin của mọi tín hữu.

 b. Giao ước với Áp-ra-ham (15,1-21)

Về mặt chuyên môn, các học giả Thánh Kinh cho rằng trình thuật này là sự phối hợp giữa hai nguồn văn P và J, nhưng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề này. Điều nên quan tâm ở đây là nghi thức ký kết giao ước được mô tả trong các câu 9-11 và 17-20.

Nghi thức ký kết giao ước cũng như ý nghĩa của nó được nhắc đến trong Giêrêmia 34,18. Những khám phá trong thế kỷ vừa qua cho thấy đây là cách phổ biến trong vùng Cận Đông xưa. Xẻ đôi con vật và bước đi qua giữa con vật đã bị xẻ đôi là cách kết nối và ràng buộc hai bên ký kết giao ước với nhau. Nếu họ không tuân giữ những điều khoản của giao ước, họ sẽ bị nguyền rủa và phải chịu số phận như những con vật bị xẻ đôi. Áp-ram chìm vào trong giấc ngủ sâu tức là trạng thái ngưng hoạt động và bước vào tình trạng đón nhận mạc khải của Chúa. Nghi thức ký kết được kết thúc bằng hình ảnh một lò lửa nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua những con vật đã bị xẻ đôi. Lửa chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Chính Chúa đã có sáng kiến ký kết giao ước và Người tự “buộc” mình vào giao ước đó. Những câu cuối cùng (18-21) xác định rõ vùng Đất Hứa, và những xác định này phù hợp với lãnh thổ của vương quốc Đavít dưới thời Salomon.

Nghi thức ký kết giao ước này giúp cho mỗi tín hữu ý thức lại giao ước mà mình đã ký kết với Thiên Chúa và những đòi hỏi của nó. Điều quan trọng nhất là sự trung tín. Về phía Thiên Chúa, Người luôn luôn trung thành với giao ước Người đã ký kết, mặc cho những đổi thay từ phía con người. Nhưng bản thân ta có trung thành với giao ước không, đó là điều mỗi Kitô hữu phải thường xuyên tự vấn và sám hối.

  c. Phá hủy thánh Xơ-đôm (19,1-29)

Trình thuật này khẳng định thái độ không hiếu khách (vốn là đòi hỏi quan trọng trong xã hội du mục) và sự bại hoại về luân lý tính dục là nguyên nhân chính dẫn đến việc Thiên Chúa trừng phạt Xơ-đôm. Ngày nay khi nghe kể rằng để giàn xếp mọi chuyện cho êm thắm, ông Lót đã đề nghị đem hai trinh nữ ra cho người ta thoả mãn tuỳ thích... chúng ta không chịu được! Nhưng vào thời đó, vấn đề lại không bị nhìn cách trầm trọng như thế. Hơn nữa sự kiện này càng làm nổi bật sự vô luân và tội ác của dân Xơ-đôm, và như thế, hình phạt của Thiên Chúa đã gần kề. Ông Lót được cảnh báo phải đưa cả gia đình đi tránh nạn. Bà vợ ông đã bị biến thành tượng muối vì đã không tuân theo lời căn dặn của hai vị sứ giả, “Đừng ngoái lại đằng sau” (9,17).

Lề luật của Thiên Chúa được đặt ra không nhằm trói buộc con người nhưng mở đường dẫn tới hạnh phúc đích thực. Khi con người nhân danh tự do để phủ nhận lề luật và trượt sâu vào sự sa đoạ về luân lý, thì con người tự hủy diệt chính mình, huỷ diệt nhân tính, huỷ diệt những tương quan xã hội, và hủy diệt vận mệnh vĩnh cửu của mình. Trình thuật về Xơ-đôm làm chứng điều đó, và những gì đang diễn ra trong cuộc sống ngày nay cũng làm chứng điều đó. Vì thế trình thuật này là lời mời gọi mỗi người suy nghĩ về chính cuộc sống của mình cũng như của toàn xã hội.

3. Chương 20-25

    a. Hiến tế I-xa-ác (22,1-19)

Đây là một trong những áng văn đẹp nhất của Thánh Kinh Cựu Ước. Hãy hình dung cảnh tượng hai cha con bước đi trong thinh lặng của núi rừng mà lòng Áp-ra-ham trĩu nặng. Hãy nghĩ đến những tâm tư thầm kín của tổ phụ Áp-ra-ham trong từng bước đi. Hãy nhớ đến câu hỏi thật đơn sơ và ngây thơ của I-xa-ác hỏi cha mình... Tất cả làm nên một trình thuật không những sâu sắc về tư tưởng mà còn thật cuốn hút về mặt văn chương. Các học giả ghi nhận mối quan hệ giữa trình thuật này với tục lệ sát tế con cái để dâng cho thần linh. Đây là tục lệ của những dân tộc lân cận với Ít-ra-en thời đó, và một số người trong dân Ít-ra-en cũng đã bắt chước dù bị cấm (x.1V 16,34; 2V 3,27; 23,10). Có thể trình thuật này nhắm mục đích phê phán và phủ quyết tục lệ này. Tuy nhiên điểm nhấn của trình thuật vẫn là việc thử thách đức tin của Áp-ra-ham. Thiên Chúa đã thử thách Áp-ra-ham đến độ đòi hỏi ông phải hiến tế chính đứa con duy nhất của mình, đứa con làm nên niềm vui và hy vọng duy nhất của đời ông. Và tổ phụ Áp-ra-ham đã chứng tỏ niềm tin tín thác trọn vẹn và tuyệt đối của ông vào Thiên Chúa. Tên gọi “Đức Chúa sẽ liệu” (câu 14) mà Áp-ra-ham đặt cho nơi ông hiến dâng con mình đã diễn tả tất cả, diễn tả sự phó thác trọn vẹn của ông vào Thiên Chúa, đồng thời diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa với lời hứa của Người. Chủ đề về Lời hứa một lần nữa được nhấn mạnh trong trình thuật này (câu 15-19).

Khi đọc trình thuật này, ta dường như dành trọn sự thương cảm cho Áp-ra-ham, và cùng với sự thương cảm đó là một chút “ác cảm” với Thiên Chúa vì cho rằng đòi hỏi của Người quá “phi lý” và “bất nhân.” Thế nhưng có khi nào ta đọc câu chuyện này và nhớ lại khung cảnh của đồi Canvê, khi Thiên Chúa dìu Người Con chí ái của Người lên đồi và chấp nhận để cho thế gian đóng đinh Con của Người vào thập giá? Có khi nào ta hình dung nỗi đau của Thiên Chúa khi chứng kiến Con của Người đang quằn quại theo từng nhát búa? Hãy hình dung như thế để khám phá lại tấm lòng yêu thương mà Thiên Chúa dành cho nhân loại. Hãy hình dung như thế để hiểu rằng tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người luôn luôn vĩ đại hơn niềm tin của con người dành cho Thiên Chúa, cho dù con người đó là Áp-ra-ham. Hãy hình dung như thế để bước đi trong niềm tín thác vào Thiên Chúa Tình yêu bởi vì “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32).

  b. Tìm vợ cho I-xa-ác (24,1-67)

Hàm ẩn trong câu truyện dễ thương này vẫn là chủ đề về lời hứa. Thiên Chúa tiếp tục hướng dẫn tổ phụ Áp-ra-ham từng bước để thực hiện lời Người đã hứa. Tuy nhiên Người không can thiệp cách trực tiếp mà qua sự hướng dẫn trong tâm hồn và qua những dấu chỉ. Theo tập quán thời đó, tổ phụ Áp-ra-ham phải sắp xếp cuộc hôn nhân cho con mình. Vì tuổi cao sức yếu nên ông trao phó nhiệm vụ này cho người lão bộc trung thành với những lời căn dặn thật rõ ràng và chu đáo. I-xa-ác sẽ không kết hôn với phụ nữ Canaan, nghĩa là loại trừ việc kết hôn khác đạo. Cũng không thể để I-xa-ác trở về quê cũ của tổ phụ Áp-ra-ham vì Đức Chúa “đã phán và thề với tôi rằng: Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này” (câu 7). Như thế trong mọi sự, Áp-ra-ham luôn tín thác vào Chúa là Đấng đã hứa và trung thành với lời hứa của Người. Người lão bộc đã thực hiện đúng như lời tổ phụ Áp-ra-ham căn dặn. Dưới sự hướng dẫn của Chúa, ông đã tìm được Rê-bê-ca, được gia đình của Rê-bê-ca chấp thuận, và đã đưa Rê-bê-ca về cho I-xa-ác. Toàn bộ câu truyện ánh lên niềm xác tín rằng cuộc hôn nhân giữa I-xa-ác và Rê-bê-ca không chỉ do những tính toán của con người nhưng chính Thiên Chúa dẫn đường chỉ lối cho họ đến với nhau. Như thế câu truyện này thể hiện niềm tin đã được nhấn mạnh trong sách Sáng Thế và Chúa Giêsu cũng lập lại: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).

4. Chương 25-36

  a. Ê-xau, Gia-cóp và mầu nhiệm tuyển chọn (25,19-26)

Với bản gia phả của I-xa-ác (câu 19-20), sách Sáng Thế đưa ta vào một giai đoạn mới trong lịch sử các tổ phụ, là giai đoạn của I-xa-ác và Gia-cóp. Bản gia phả được tiếp nối bằng câu chuyện về việc sinh hạ Ê-xau và Gia-cóp. Bà Rê-bê-ca là một phụ nữ hiếm muộn cũng giống như bà Xa-ra. Nhưng chính sự hiếm muộn này lại làm nổi bật sự can thiệp của Chúa trong việc bà thụ thai (câu 21). Niềm vui thụ thai của bà lại trở thành nỗi lo lắng vì cảm nhận những đứa con “đánh nhau” ngay trong lòng dạ mình. Chính ở đây xuất hiện lời sấm được coi như tâm điểm của trình thuật, “Có hai dân tộc trong lòng ngươi, hai dân từ dạ ngươi sinh ra và sẽ chia rẽ nhau. Dân này sẽ mạnh hơn dân kia, đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé” (25,23). Lời sấm này đã loan báo trước những gì sẽ được trình bày trong câu chuyện về Ê-xau và Gia-cóp.

Tác giả sách Sáng Thế cũng mô tả một số đặc tính của hai đứa trẻ sơ sinh, báo trước tính cách của mỗi đứa trẻ và mối tương quan giữa Ê-xau và Gia-cóp sau này. Ê-xau “đỏ hoe” (admoni) và “đầy lông lá” (séar), sau này sẽ trở thành tổ phụ của dân Edmonites sống ở vùng Seir. Việc mô tả Gia-cóp ra sau nhưng “nắm gót chân” của Ê-xau cũng mang tính biểu tượng, diễn tả tính cách của Gia-cóp. Tên gọi Gia-cóp là thể rút ngắn của Jacobel, nghĩa là “xin Thiên Chúa bảo vệ”. Trình thuật được tiếp nối bằng những câu chuyện về việc Ê-xau bán quyền trưởng nam của mình (25,27-34), kể cả việc bà Rê-bê-ca tìm cách đánh lừa I-xa-ác để ông chúc lành cho Giacóp (27,1-46). Những câu chuyện trên có thể làm cho ta đặt nhiều câu hỏi, ví dụ tại sao Gia-cóp lại được chọn thay vì Ê-xau, phải chăng hành động lừa dối của bà Rê-bê-ca là hành động tốt vì phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa đã được bày tỏ trong lời sấm (25,23)? Tác giả sách Sáng Thế không đưa ra câu trả lời. Ông chỉ kể chuyện. Ở đây chúng ta đối diện với một mầu nhiệm sẽ còn tái diễn nhiều lần trong lịch sử cứu độ, là mầu nhiệm tuyển chọn của Thiên Chúa. Sự chọn lựa của Thiên Chúa mãi là một huyền nhiệm vượt trên những tính toán và suy nghĩ bình thường của con người. Thiên Chúa điều khiển và thực hiện dự định của Ngài, vượt trên những tính toán của chúng ta.

  b. Hành trình của Gia-cóp

Trong một thị kiến ở Bết-ên (28,10-12), Gia-cóp thấy một cái thang nối Trời với Đất, và ông nghe nhắc lại những lời hứa đã được ban cho tổ phụ Áp-ra-ham. Nhưng Gia-cóp không biết: “Có Đức Chúa ngự nơi này mà tôi không biết” (28,16). Sau đó Gia-cóp lấy hòn đá ông đã gối đầu qua đêm dựng lên làm trụ, và khấn hứa rằng nếu Thiên Chúa gìn giữ ông được bình an, thì ông sẽ trở về dựng bàn thờ kính Chúa (28,18-22). Gia-cóp lại có một thị kiến khác, đó là ông vật lộn với Thiên Chúa tại Pơ-nu-ên (32,22-33). Sau biến cố này, Giacóp trở thành một con người khác, ông mang tên gọi mới là Ít-ra-en và sống cuộc đời chính trực. Sau cùng, khi trở về Bết-ên (35,1-18), ông hoàn tất lời thề xây một bàn thờ tại Bét-ên để kính Thiên Chúa, “Đấng đã đáp lời tôi ngày tôi gặp bước gian truân, và đã ở với tôi trong chuyến đi tôi đã thực hiện” (35,3).

Bài học rút ra từ những sự kiện và biến cố trong đời tổ phụ Gia-cóp cho thấy đức tin là cả một hành trình dài chứ không chỉ là một lý thuyết hay sự vật mà ta chỉ cần nắm lấy một lần là xong. Tin là bước vào mối tương quan gắn kết với Thiên Chúa, mối tương quan mà ta cảm nghiệm, vun đắp và xây dựng xuyên qua những biến cố dọc dài cuộc sống. Trong hành trình đó, không ít lần ta cảm nhận nỗi khó khăn khi sống đức tin, nhất là khi phải đối diện với những thử thách và cám dỗ. Quả thật sống đức tin là cả một cuộc vật lộn với Thiên Chúa, vật lộn với lời mời gọi của Ngài, vật lộn với lý tưởng Phúc Âm. Thế nhưng chính khi ta chấp nhận cuộc vật lộn đau đớn đó, con người mới dần dà được hình thành nơi ta. Sứ điệp đầu tiên và căn bản nhất mà Chúa Giêsu gửi đến những ai muốn theo Ngài là “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” nghĩa là phải đổi mới thường xuyên. Là Kitô hữu là đón nhận một tên gọi mới, một danh hiệu mới, và phải sống cuộc sống mới.

IV. PHẦN III -  CHƯƠNG 37-50

  1. Tổng quát

Phần 3 là truyện ông Giuse, cho lóe lên một tin sáng đầu tiên trên những tấn kịch đời sống con người. Loài người cần đến một vị Cứu Tinh, và ơn cứu thoát của họ sẽ đến nhờ những người mà trước đó họ đã ngược đãi và loài trừ. (Dẫn nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).

2. Chương 37-50

- 37,1-36: Giuse bị bán làm nô lệ bên Ai Cập. Sự ưu ái mà tổ phụ Gia-cóp dành cho Giuse được coi là nguyên nhân gây bất bình trong anh em. Giuse bị anh em bắt và bán cho người lái buôn sang Ai Cập.

- 38,1-30: Giuđa và Ta-ma. Một chuyện loạn luân nhưng tác giả không nhắm đến khía cạnh đạo đức ở đây. Điều được quan tâm là qua Tamar, dòng dõi Giacóp được tồn tại, và chính qua dòng dõi này mà vị vua vĩ đại của Ít-ra-en là Đavít xuất hiện.

- 39,1-23: Sự thăng trầm của Giuse. Giuse bị bán cho một gia đình Ai Cập và sớm được tín nhiệm. Rồi thử thách đến với ông, khiến ông phải nằm tù.

- 40,1-23: Giuse đoán mộng cho các tù nhân, nhờ đó gây sự chú ý của một quan chức hầu cận nhà vua.

- 41,1- 57: Giuse đoán mộng cho vua Pha-ra-ô và được vua tín nhiệm đặt làm quan lớn trong triều. Ông được ban cho một tên gọi Ai Cập là Xóp-nát Pa-nê-ác, nghĩa là “Thiên Chúa nói và sống.”

- 42,1-38: Giuse thử thách anh em. Vì đói kém, tổ phụ Gia-cóp phải sai các con sang Ai Cập, nhưng giữ lại nhà người con út là Ben-gia-min. Giuse đòi phải thấy Ben-gia-min để chứng tỏ nhóm người này không phải là quân do thám.

- 43,1-34: Anh em của Giuse trở lại Ai Cập. Vừa thấy Ben-gia-min, Giuse hết sức xúc động nhưng vẫn chưa tỏ mình ra.

- 44,1-34: Giuse thử anh em lần cuối. Họ đã đi được một quãng đường rồi bị bắt lại. Qua những lời tâm huyết của Giu-đa, Giuse hiểu rằng anh em đã thay đổi tâm tính và cách sống, quan tâm chăm sóc cho Ben-gia-min.

- 45,1-28: Giuse tỏ mình cho anh em. Anh em làm hòa với nhau.

- 46,1 – 47,28: Gia-cóp đi Ai Cập và định cư tại đó

- 47,29 - 48,22: Chúc lành cho Ép-ra-im và Mơ-na-se. Chi tộc Giuse được tách hai thành chi tộc Ép-ra-im và Mơ-na-se.

- 49,1-27: Chúc lành của Gia-cóp.

- 49,28 - 50,14: Tổ phụ Gia-cóp qua đời và được mai táng tại Mác-pê-la là nơi chôn cất tổ phụ Áp-ra-ham và Xa-ra.

- 50,15-21:  Giuse trấn an anh em.

- 50,22-26:  Giuse qua đời.

 b. Thiên Chúa rút ra điều lành từ sự dữ

         Tổ phụ Giuse phải chịu nhiều nỗi oan khiên: bị anh em bán làm nô lệ sang Ai cập (37,1-36), bị vu oan giá họa đến nỗi phải vào tù (39,1-23). Thế nhưng Thiên Chúa đã biến những đau khổ này thành cơ may cho cá nhân Giuse khi ông được Pha-ra-ô phong làm tể tướng (41,1-57), và hơn nữa cho cả một dân vì nhờ ông mà cả một dân được cứu khỏi nạn đói. Ai sẽ là Đấng giải oan cho Giuse khỏi những cáo buộc và hành động bất công? Về mặt loài người, xem ra Giuse hoàn toàn cô thân cô thế trong những nghịch cảnh này. Chỉ có Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự và xét xử công minh, Người sẽ trả lại cho mỗi người phần thưởng xứng với việc họ làm.

Cuộc đời tổ phụ Giuse được nhìn như hình bóng báo trước cuộc đời Chúa Kitô. Ngài phải chịu mọi nỗi oan khiên nhưng chính nhờ những đau khổ Ngài chịu mà chúng ta được cứu. Quả thật, “hòn đá người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường” (Tv 118,22-23). Hội Thánh hân hoan hát lên lời tuyên xưng này cách đặc biệt trong dịp lễ Phục Sinh.

Cuộc đời tổ phụ Giuse và cuộc đời Chúa Kitô là bằng chứng thuyết phục về quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Chính Người là Đấng dẫn dắt lịch sử nhân loại cũng như cuộc đời mỗi người đến chỗ hoàn thành. Vì thế, người Kitô hữu được mời gọi tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, đồng thời luôn kiếm tìm và thi hành Thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, bởi lẽ đó chính là nẻo đường cứu độ và bình an.

 

CUỐN SÁCH 2

SÁCH XUẤT HÀNH (Xh)

1. Tổng quát

         Sách Xuất hành là cuộc ra đi khỏi Ai-cập. Đây là kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa trong Cựu Ước: Cuộc ra đi khỏi đất nô lệ tiến về Đất Hứa. Thiên Chúa giải thoát dân người “với uy lực cao cả, bàn tay mạnh mẽ và cánh tay dang rộng (nghĩa là đánh mạnh)”, mở cho dân một con đường vượt biển. Sách Xuất hành là cuốn sách thứ hai trong Thánh Kinh Cựu Ước. Sách gồm có 40 chương, được viết vào khoảng năm 1450-517 TCN, không rõ tác giả là ai, truyền thống cho là ông Môsê (Dẫn nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Xuất hành gồm có 40 chương.

Chương

Chương

1. Cảnh sống thịnh vượng của người Híp-ri ở Ai-cập - Dân Híp-ri bị áp bức

21. Bộ Luật giao ước - Luật về người nô lệ - Giết người –đánh đập và gây thường tích – lấy trộm thú vật

2. Ông Mô-sê chào đời - Ông Mô-sê trốn sang Ma-đi-an - Thiên Chúa nhớ tới dân Ít-ra-en

22. Bộ Luật giao ước - Xâm phạm tiết hạnh gái trinh - Của đầu mùa và con đầu lòng

3. Thiên Chúa gọi ông Mô-sê từ bụi cây bốc cháy - Sứ mạng của ông Mô-sê - Mặc khải danh Thiên Chúa - Chỉ thị về sứ mạng của ông Mô-sê - Tước đoạt của cải người Ai-cập

23. Bộ Luật giao ước - Công lý Bổn phận đối với kẻ thù - Các ngày lễ của Ít-ra-en - Lời hứa và chỉ thị liên quan đến biến cố vào xứ Ca-na-an

4. Ông Mô-sê làm dấu lạ - Ông A-ha-ron, phát ngôn viên của ông Mô-sê - Ông Mô-sê rời Ma-đi-an trở về Ai-cập - Con ông Mô-sê được cắt bì - Ông Mô-sê gặp ông A-ha-ron

24. Ký kết giao ước - Ông Mô-sê ở trên núi

5. Cuộc hội kiến đầu tiên với Pha-ra-ô - Dân than trách. Ông Mô-sê kêu cầu.

25. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Đóng góp để dựng nơi thánh  - Nhà Tạm và Hòm Bia - Bàn để bánh tiến - Trụ đèn

6. Trình thuật khác về việc Thiên Chúa gọi ông Mô-sê - Gia phả ông Mô-sê và ông A-ha-ron

26. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Nhà Tạm. Vải và bạt - Khung lều - Bức trướng

7. Cây gậy biến thành con rắn - Các tai ương bên Ai cập: Nước biến thành máu và ếch nhái

27. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu - Khuôn viên - Dầu thắp đèn

8. Các tai ương bên Ai cập: Muỗi và ruồi nhặng

28. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế  - Phẩm phục của các tư tế - Áo ê-phốt - Túi đeo trước ngực - Áo khoác - Dấu thánh hiến - Y phục của tư tế

9. Các tai ương bên Ai cập: ôn dịch, Ung nhọt và mưa đá

29. Ông A-ha-ron và các con ông được thánh hiến. Công việc chuẩn bị - Thanh tẩy, mặc phẩm phục và xức dầu - Lễ vật

10. Các tai ương bên Ai cập: châu cháu và cảnh tối tăm

30. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Hương án - Thuế thân - Vạc đồng - Dầu tấn phong

11. Báo tin các con đầu lòng sẽ phải chết

31. Chỉ thị về việc dựng nơi thánh và các tư tế - Thợ dựng nơi thánh - Nghỉ ngày sa-bát - Thiên Chúa trao cho ông Mô-sê các tấm bia ghi Lề Luật

12. Lễ Vượt Qua - Lễ Bánh Không Men - Chỉ thị về lễ Vượt Qua - Tai ương thứ mười: các con đầu lòng bị giết - Tước đoạt của cải người Ai-cập - Dân Ít-ra-en ra đi - Chỉ thị về lễ Vượt Qua (cắt bì được ăn lễ)

32. Con bê bằng vàng – ĐỨC CHÚA báo tin cho Mô-sê  - Ông Mô-sê chuyển cầu cho dân  - Ông Mô-sê đập vỡ các tấm bia Lề Luật - Vai trò của ông A-ha-ron trong lỗi lầm của dân

13. Các con đầu lòng - Bánh không men - Các con đầu lòng - Dân Ít-ra-en ra đi

33. Lệnh lên đường - Lều Hội Ngộ - Ông Mô-sê chuyển cầu cho dân - Ông Mô-sê ở trên núi

14. Từ Ê-tham đến Biển Đỏ - Người Ai-cập đuổi theo dân Ít-ra-en - Phép lạ tại Biển Đỏ

34. Tái lập giao ước. Các bia ghi Lề Luật - ĐỨC CHÚA hiện ra - Giao Ước - Ông Mô-sê lại xuống núi

15. Bài ca chiến thắng – hành trình Sa mạc - Mara

35. Dựng nơi Thánh - Luật nghỉ ngày sa-bát - Quyên góp vật liệu - Thợ dựng nơi thánh

16. Man-na và chim cút

36. Nhà Tạm - Khung lều - Bức trướng

17. Nước phun ra từ tảng đá - Giao chiến với người A-ma-lếch

37. Hòm Bia - Bàn để bánh tiến

18. Ông Mô-sê gặp ông Gít-rô - Đặt các thẩm phán

38. Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu

19. Tới núi Xi-nai - Chuẩn bị giao ước - Cuộc thần hiện

39. Y phục của thượng tế - Áo ê-phốt

20. Mười điều răn – bộ Luật giao ước: Luật về bàn thờ

40. Dựng và thánh hiến Nhà Tạm - Thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa - ĐỨC CHÚA chiếm hữu Nhà Tạm - Mây dẫn đường cho dân Ít-ra-en

2. Tầm quan trọng của Sách Xuất hành

  a. Ý nghĩa của Sách Xuất hành

         Biến cố Xuất hành là tâm điểm kinh nghiệm đức tin của dân Ít-ra-en. Biến cố này trở thành điểm quy chiếu cho dân trong mọi hoàn cảnh lịch sử (x.Is 40,3; Kng 11,5). Trong sách Xuất hành, Thiên Chúa tự mạc khải là vị Thiên Chúa dấn thân vào lịch sử nhân loại để giải thoát nhân loại, khác hẳn hình ảnh về Thiên Chúa trừu tượng và xa lạ người ta thường nghĩ. Cũng trong sách Xuất hành, Ít-ra-en xuất hiện như là Dân Chúa qua giao ước Xi-nai. Đây là điều làm cho Ít-ra-en khác hẳn các dân.

 b. Sách Xuất hành với người Kitô hữu

Biến cố Xuất hành là tín hiệu báo trước Ơn Cứu độ được hoàn thành trong Chúa Kitô. Vì thế, sách Xuất hành cũng được gọi là Tin Mừng về Ơn Cứu Độ. Biến cố này còn gợi hứng cho những suy tư và hành động đức tin của người Kitô hữu ngày nay. Tuy nhiên, cần đặt biến cố Xuất hành trong tương quan với mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, vì chỉ như thế ta mới có thể hiểu đúng ý nghĩa của biến cố này trong nhãn quan Kitô giáo.

3. Chương 1-7

 a. Ơn gọi của Môsê (3,1-15)

         Môsê đã trải qua 40 năm sống ẩn dật tại nhà cha vợ ở xứ Ma-đi-an, nhưng chính lúc đó, Thiên Chúa đã can thiệp, đã kêu gọi ông, một ơn gọi rất đặc biệt và đặc thù. Chúa muốn dùng ông làm người lãnh đạo để giải phóng dân Chúa khỏi ách nô lệ và khỏi nạn diệt chủng của các Pha-ra-ô, đang khi ông chỉ là người chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô (còn gọi là Rơ-u-en), vị tư tế của dân Ma-đi-an. Ơn gọi của Môsê xem ra như là một việc tình cờ mà ngay cả Môsê cũng không nghĩ đến. Thực ra Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ơn gọi và sứ mạng của ông ngay từ lúc lọt lòng mẹ. Sự quan phòng của Thiên Chúa đối với ơn gọi và sứ mạng của ông sau này khiến ông được Pha-ra-ô và công chúa Hatshepsut tiếp nhận và nuôi dạy trong cung điện của Pha-ra-ô để giúp ông trở thành người lãnh đạo đầy khả năng cho dân Chúa sau này. Khác với những nhà lãnh đạo cách mạng của các nước khác trên thế giới, Môsê không tự ý đảm nhận vai trò lãnh đạo dân Do Thái trong biến cố xuất hành này. Chính Thiên Chúa đã chọn ông và đã giao cho ông sứ mạng quan trọng này cùng với A-ha-ron anh trai của ông. Ông được chọn để làm người trung gian giữa Thiên Chúa với Dân của Người. Chính Chúa là Đấng đã giao phó cho ông trách nhiệm dẫn dắt, tổ chức, hướng dẫn và giúp cho dân sống Giao ước với Chúa.

  b. Danh Thiên Chúa (YHWH)

Đối với Ít-ra-en cũng như các dân vùng Cận Đông, tên của một người không chỉ là tên gọi bên ngoài nhưng còn là chính con người. Muốn biết tên một người là muốn bước vào quan hệ thân tình với họ. Vì thế không lạ gì khi Môsê xin được biết danh thánh Thiên Chúa. Câu trả lời của Thiên Chúa cho Môsê là một câu rất huyền nhiệm: YHWH. Có những cách dịch khác nhau trong các bản dịch Thánh Kinh sang tiếng Việt, vd. Ta là Đấng tự hữu – Ta là Đấng hằng hữu – Ta là Đấng hiện hữu. Thiết nghĩ trong mỗi cách dịch đã hàm chứa một ý nghĩa thần học. Các học giả cố gắng tìm ra ý nghĩa của danh xưng này bằng cách nối kết với những lời Thiên Chúa nói với Môsê. Theo đó, danh xưng này muốn nhấn mạnh rằng Thiên Chúa là Đấng dấn thân và tham gia cách tích cực trong lịch sử của Dân.

  c. Bụi gai bốc cháy

Có thể tác giả chọn từ ngữ bụi gai (trong tiếng Hípri là seneh) vì muốn liên hệ với Xi-nai, núi của Thiên Chúa. Như thế, bụi gai bốc cháy ở đây nối kết với ngọn lửa trong cuộc thần hiện ở Xi-nai (19,18). Môsê vừa bị thu hút bởi cảnh tượng kỳ lạ, vừa kinh sợ và che mặt đi khi Đức Chúa tỏ mình. Đây cũng là kinh nghiệm thiêng liêng của các tiên tri như Isaia và Jeremia. Thiên Chúa tỏ mình cho Môsê cũng là Thiên Chúa của các tổ phụ (3,16). Như thế, không chỉ vào thời Môsê nhưng Thiên Chúa đã luôn hoạt động qua bao thế kỷ vì yêu thương dân của Người. Môsê được gọi để trở thành phát ngôn viên của Chúa, nói thay cho Chúa. Truyền thống Do thái vẫn nhìn Môsê như một tiên tri (x. Đnl 18,15-20), và tiên tri chính là người nói nhân danh Chúa và vì hạnh phúc đích thực của Dân.

4. Chương 7-15: Cuộc vượt qua của Dân Ít-ra-en

 a. Cuộc vượt qua của người Do thái

Dân Ít-ra-en phải sống trong cảnh nô lệ lầm than (Xh 1, 8-22). Nhưng Thiên Chúa đã thấy cảnh lầm than của họ và sai Môsê đến để giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ, đưa họ vượt qua Biển Đỏ (Xh 14,15-31). Nhờ Chiên được sát tế và máu chiên bôi lên thành cửa, dân Israel được cứu thoát và lên đường đi đến miền đất tự do (Xh 12,29-34. 12-14). Chính Thiên Chúa thực hiện cuộc giải thoát này bằng những điềm thiêng dấu lạ, nhưng Chúa đã chọn Môsê làm người lãnh đạo Dân Chúa và thực hiện kế hoạch của Người.

Môsê đưa ra những chỉ thị về việc cử hành lễ Vượt Qua (Xh 12,14) và người Do thái vẫn trung thành tuân giữ cho đến ngày nay. Trong nghi thức cử hành lễ Vượt Qua, sau tuần rượu thứ hai, một người con trong gia đình sẽ lên tiếng hỏi: tại sao đêm nay lại khác mọi đêm? Và người cha trong gia đình sẽ giải thích dựa vào Đnl 26,5-11.

  b. Cuộc vượt qua của người Kitô hữu

Nhân loại vẫn sống trong cảnh nô lệ tội lỗi là thứ nô lệ tồi tệ nhất, làm cho con người bị tha hoá, đánh mất phẩm giá đích thực của mình là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúa Kitô là Môsê mới, là vị lãnh đạo của Dân mới. Chiên được sát tế trong lễ Vượt Qua là hình bóng Chúa Kitô hiến dâng chính mình, nhờ đó chúng ta được sống (x. Ga 19,31-37). Việc vượt qua Biển Đỏ loan báo bí tích Thánh Tẩy: giải thoát ta khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, biến ta thành con cái Thiên Chúa, và cho ta thành phần tử của Dân mới là Hội Thánh.

Chúa Giêsu đã cử hành Bữa Tiệc Ly trong bối cảnh lễ Vượt Qua (Lc 22,14-20). Tuy nhiên trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã làm hai cử chỉ độc đáo. Một là Ngài chuyển chén rượu của người đứng đầu gia đình cho mọi người trong nhà, hai là Ngài thêm vào những lời minh giải: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em,” “Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu đổ ra vì anh em”. Những lời này cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa Tiệc Ly và biến cố thập giá. Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Trong Thánh Kinh, tưởng niệm không chỉ đơn thuần là nhớ lại một sự kiện trong quá khứ, nhưng bao hàm cả ba chiều kích thời gian là hiện tại, quá khứ và tương lai. “Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng ĐỨC CHÚA. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời” (Xh 12,14). Chính vì thế, thần học Công giáo giải thích về tưởng niệm như là signum rememorativum (dấu chỉ tưởng nhớ hành động cứu độ đã xảy ra trong quá khứ), signum demonstrativum (dấu chỉ Ơn Cứu độ đang diễn ra trong hiện tại), signum prognosticum (dấu chỉ loan báo bữa tiệc cánh chung trong Nước Chúa). Cử hành Thánh Thể là làm theo lời di chúc của Chúa Giêsu. Vì thế, trong suốt lịch sử, Hội Thánh không ngừng cử hành Thánh Thể (x. Cv 2,42.46; 1Cr 11,23), và người Kitô hữu phải hết sức trân trọng việc cử hành này.

5. Chương 16-24: Hành trình Sa mạc và giao ước Xi-nai

  a. Kinh nghiệm của dân Ít-ra-en trong sa mạc (15,22 – 18,27)

Được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập, Ít-ra-en còn phải trải qua hành trình lâu năm trong sa mạc mới được đặt chân vào Đất Hứa. Hành trình sa mạc đã ban tặng cho họ nhiều kinh nghiệm. Trước hết, họ kinh nghiệm về sự thiếu thốn lương thực cũng như những hiểm nguy đe doạ, và những khó khăn này không chỉ dừng lại ở mức độ vật chất nhưng còn dẫn đến những thử thách cho chính đức tin: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (17,7). Cùng với kinh nghiệm về những khó khăn và thử thách trong sa mạc, Dân Chúa lại cảm nghiệm được từng ngày và qua từng biến cố sự đồng hành và tình thương chăm sóc Thiên Chúa dành cho dân của Người.

         Kinh nghiệm sa mạc của Dân Chúa trong Cựu Ước cũng giúp ta nhìn lại đời sống Kitô hữu của mình trong ánh sáng mới. Trở thành Kitô hữu là bước vào một hành trình dài trong đó ta phải đối diện với rất nhiều cám dỗ và thử thách, hy sinh và từ bỏ. Như Dân Chúa ngày xưa, nhiều lần ta cảm thấy mệt mỏi, muốn bỏ cuộc và quay về nếp sống cũ. Tuy nhiên chính những khó khăn và thử thách đó lại là những cơ hội Thiên Chúa dùng để giáo dục và thanh luyện ta nên giống Chúa Kitô hơn.

  b. Trong bối cảnh Giao Ước

Giao ước là sự thiết lập một tương quan trong đó quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên được xác định và chấp nhận, vd. giao ước giữa Gia-cóp và La-ban (St 31,43-32,3). Tuy nhiên, giao ước giữa Thiên Chúa và Ít-ra-en không phải là giao ước giữa hai bên ngang hàng với nhau. Đúng hơn, Thiên Chúa ký kết giao ước với Ít-ra-en chỉ vì tình thương cho không. Môsê đã nhấn mạnh điều này nhiều lần, và trình thuật về Mười Điều Răn cũng làm nổi bật tình thương của Thiên Chúa giao ước: Mười điều răn được mở đầu bằng khẳng định của Thiên Chúa là Đấng đã trực tiếp can thiệp vào đời sống của dân: “Ta là Đức Chúa đã đưa ngươi ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập”(20,2). Thiên Chúa dùng ngôi thứ hai để nói trực tiếp với dân. Như thế, thập điều không phải là hệ thống luật pháp vô hồn, nhưng được đặt nền trên một ngôi vị.

  c. Đón nhận Mười điều răn cách tích cực

Những nhận xét trên giúp ta khám phá Mười điều răn như là những điều khoản của giao ước tình yêu. Kinh nghiệm về giao ước hôn nhân có thể giúp ta hiểu phần nào ý nghĩa cao quý này. Trong giao ước hôn nhân có những điều khoản mà hai người phối ngẫu cam kết với nhau, chẳng hạn một vợ một chồng, chung thủy với nhau đến trọn đời. Tuy nhiên, tất cả những điều khoản đó được đặt nền trên tình yêu, và là sự diễn tả ra bên ngoài những đòi hỏi nội tại của tình yêu đích thực. Tương tự như thế, Mười điều răn là cách thể hiện tương quan yêu thương trong giao ước giữa Thiên Chúa và dân của Người. Tách biệt Mười điều răn ra khỏi tương quan giao ước sẽ biến Mười điều răn thành một bộ luật luân lý vô hồn và mất đi tính năng động của nó. Đồng thời khi nhìn Mười điều răn trong bối cảnh của giao ước, ta sẽ khám phá giá trị tích cực của Mười điều răn như con đường đưa đến sự sống phong phú chứ không chỉ là những rào cản ngăn lối hạnh phúc của con người như nhiều người ngày nay lầm tưởng.

6. Chương 25-34: Nhà Tạm và Hòm Bia giao ước

  a. Ý nghĩa

Trong trình thuật về cuộc Thần hiện (24,15b-18), tác giả nối kết cuộc thần hiện trên núi Xi-nai với việc xây cất thánh điện (40,17,33b). Cũng như mây bao phủ núi Xi-nai và vinh quang Đức Chúa ngự trị ở đó (24,15-16) thì mây cũng bao phủ Lều Hội Ngộ và vinh quang Đức Chúa tràn ngập thánh điện (40,34). Như thế, việc thờ phượng trên núi Xi-nai là mẫu mực cho việc thờ phượng của dân. Đồng thời Đức Chúa truyền lệnh cho Môsê làm một nơi thánh để Chúa ngự giữa dân. Nơi này được gọi bằng hai từ là Lều Hội Ngộ (40,34) và Nhà Tạm (25,9). Thiên Chúa là Đấng siêu việt nhưng Nhà Tạm sẽ là nơi Ngài gặp gỡ con cái Ít-ra-en (29,42-43). Hòm Bia là hòm làm bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi; trong hòm đặt bia đá mà Đức Chúa đã ban cho Môsê (câu 16,21 // 31, 18).

  b. Cho đời sống Kitô hữu

Trong các nhà thờ Công giáo, Nhà Tạm là nơi thánh, nơi Chúa ngự giữa dân Ngài, nơi dân được gặp Chúa. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân đến ở giữa loài người (Ga 1,14), và Ngài còn ở lại với chúng ta cho đến tận thế (Mt 28,20) trong bí tích Thánh Thể. Nhà Tạm là nơi cất giữ Thánh Thể. Vậy tôi có thực sự coi đó là nơi thánh, nơi Chúa ở giữa cộng đoàn, nơi tôi gặp gỡ Chúa không? Mỗi khi ta rước lễ, chính lòng ta trở thành “nhà tạm” của Chúa. Liệu chúng ta có ý thức về điều đó không, hay thói quen đã làm phai nhạt ý thức về sự thánh thiện đó? Và liệu người ta có thể thấy nơi chúng ta sự thánh thiện và tình thương của Chúa không? Ở đây cũng là dịp cho ta chiêm ngắm Mẹ Maria. Truyền thống Công giáo gọi Đức Mẹ là Hòm Bia Thiên Chúa vì Mẹ mang trong lòng dạ Mẹ chính Thiên Chúa làm người. Đây cũng là nền tảng để các thánh suy niệm về mầu nhiệm Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Chính vì Mẹ là Hòm bia Thiên Chúa nên Mẹ được giữ gìn khỏi tội Tổ tông truyền, và Mẹ được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đức Mẹ thực sự là dấu chỉ hy vọng và là mẫu gương tuyệt vời cho Dân Chúa trong hành trình về quê trời vĩnh cửu.

  c. Con bê vàng

Trình thuật về việc dân Ít-ra-en thờ lạy bò vàng (32,1-6) làm nổi bật ý nghĩa này: Con người tự làm ra thần thánh theo ý muốn của mình chứ không nhìn nhận Đấng Thiên Chúa đã làm nên họ và cứu sống họ (32,1). Ông A-ha-ron đã nhượng bộ theo yêu cầu của dân quá dễ dàng. Sách Xuất Hành cũng kể rằng Dân Ít-ra-en muốn ruồng bỏ Môsê để có một vị lãnh đạo mới, và như thế họ ruồng bỏ chính Thiên Chúa (32,2-4). Sách Dân Số 12,1-8 còn ghi nhận A-ha-ron đã chống lại Môsê khiến Đức Chúa nổi giận. Trình thuật này là bài học quý giá cho người Kitô hữu. Chỉ trong Chúa Giêsu, ta mới biết Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Chỉ một mình Chúa Giêsu là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6). Vì thế, chỉ nơi Chúa Giêsu, chúng ta mới nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa đích thực, chứ không phải những thần thánh con người tự tạo ra theo sở thích và ý muốn của mình.

Thánh Phêrô và những Đấng kế vị ngài là những người Chúa chọn để lãnh đạo Dân Chúa như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Sức mạnh chống lại quyền lực tử thần không phải là sức mạnh của cá nhân Phêrô nhưng là quyền năng của Thiên Chúa hoạt động trong con người Phêrô cũng như trong các vị kế vị Thánh Phêrô và các tông đồ. Chính tầm nhìn đức tin này dẫn ta đến thái độ vâng phục đối với Đức Giáo hoàng là “nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các giám mục cũng như giữa các tín hữu” (Hiến chế Tín Lý Giáo Hội, số 23).

7. Chương 35-40: Xây dựng Nhà Chúa và Chúa hiện diện

a.    Xây dựng nhà Chúa, công việc của mọi người (35,1 – 36,7)

Nội dung căn bản của phần này là thi hành những mệnh lệnh Chúa đã truyền cách trực tiếp hay gián tiếp. Vì thế ở đây nhắc lại những huấn lệnh căn bản. Trước hết là giữ ngày sabát: “Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng đối với anh em, ngày thứ bảy sẽ là một ngày thánh, ngày sabát, ngày nghỉ hoàn toàn, dành cho Đức Chúa” (35,2), kể cả không được đốt lửa trong ngày sabát; kế đó là quyên góp vật liệu: “Anh em hãy lấy của cải mình mà đóng góp vào việc thờ phượng Đức Chúa” (35,5), kêu gọi các thợ thủ công: “Trong anh em, ai là người khéo tay thì hãy đến thực hiện tất cả những gì Đức Chúa đã truyền”(35,10). Công việc được bắt đầu tiến hành (36,1). Tác giả sách Xuất hành ghi nhận rằng dân Ít-ra-en đã đáp ứng những mệnh lệnh của Chúa cách hết sức quảng đại (35,20-29). Quả thật, họ rất phấn khởi và nhiệt thành đối với việc xây dựng Nhà Chúa đến độ Môsê phải ra lệnh ngưng quyên góp vật liệu (36,2-6). Các thợ thủ công cũng nhiệt tình đóng góp khả năng đề hoàn tất công việc. Điều đáng ghi nhận ở đây là tất cả mọi người đều tham gia vào công việc xây dựng Nhà Chúa. Lịch sử Hội thánh tại khắp nơi, cách riêng tại Việt Nam, tiếp tục làm chứng về nhiệt tình đó. Dù cuộc sống vật chất còn thiếu thốn nhưng nhiều cộng đoàn tín hữu đã sẵn sàng hy sinh tất cả, người góp công người góp của để xây dựng những ngôi nhà thờ xứng đáng làm nơi Chúa ngự. Tinh thần này không thể chỉ ngưng lại ở việc xây dựng nhà thờ vật chất nhưng còn cần được triển khai trong việc xây dựng cộng đoàn Hội thánh. Đây không chỉ là việc của Linh mục nhưng là công việc mọi thành phần Dân Chúa phải tham gia. Đó cũng là định hướng mục vụ mà các Giám mục tại Á châu mong muốn triển khai, đó là xây dựng Hội thánh như một cộng đoàn hiệp thông và một Giáo hội tham gia, trong đó mọi người đều ý thức mình thuộc về Giáo hội và tham gia vào sứ mạng chung của Giáo hội.

b.    Đức Chúa chiếm hữu nhà tạm (40,34-38)

Đối với nguồn văn tư tế (P) thì Xi-nai chính là mẫu mực cho việc thờ phượng. Theo trình thuật về việc Thiên Chúa ký kết giao ước với Dân trên núi Xi-nai (Xh 24,15-16), mây bao phủ núi và vinh quang Đức Chúa ngự trên núi Xi-nai. Ở đây cũng thế, mây bảo phủ thánh điện và vinh quang Đức Chúa ngập tràn thánh điện (40,34). Như thế Nhà Tạm trong hành trình sa mạc cũng lấy lại kinh nghiệm trên núi Xi-nai. Sự kiện mây bao phủ và ngự trị cũng là dấu ấn Thiên Chúa chấp nhận tất cả những gì mà Môsê và dân đã làm, nghĩa là Đức Chúa chiếm hữu Nhà Tạm. Đây cũng là kinh nghiệm của Ít-ra-en khi vinh quang Đức Chúa ngập tràn đền thánh thời Sa-lô-môn, và các tư tế không thể thi hành nhiệm vụ vì đám mây bao phủ (1V 8,10-11). Cột mây và đám lửa cũng là dấu hiệu cho dân Ít-ra-en biết khi nào hạ trại và khi nào nhổ trại (Ds 9,15-23). Hình tượng đám mây vẫn được Thánh Kinh Tân Ước vận dụng để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi truyền tin cho Mẹ Maria, sứ thần loan báo: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). Khi kể lại việc Chúa Giêsu biến hình trên núi thánh, các thánh sử ghi nhận: “Ông Phêrô còn đang nói thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình ở trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”(Lc 9, 34-35). Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa hiện diện giữa loài người. Ngày nay Ngài không còn hiện diện cách hữu hình nhưng vẫn tiếp tục hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Nhà Tạm, nơi cất giữ Thánh Thể, là Nhà của Thiên Chúa ở giữa chúng ta. Vì thế, “đặt Nhà Tạm đúng chỗ trong nhà thờ giúp nhận biết sự hiện diện thật của Chúa Kitô trong bí tích Thánh thể. Do đó, vị trí nơi cất giữ bánh Thánh Thể phải được mọi người trông thấy ngay khi bước vào nhà thờ, một phần cũng nhờ ánh đèn chiếu sáng liên tục làm dấu hiệu” (Đức Bênêđictô XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis, số 74).

CUỐN SÁCH 3

SÁCH LÊ-VI (Lv)

1. Tổng quát

Sách Lê-vi là cuốn sách về sự thánh thiện, về Thiên Chúa chí thánh và về một dân được gọi là thánh. Theo từ nguyên, “thánh” trong tiếng Hípri có nghĩa là “được cắt riêng ra, tách ra” có ý nói đến sự tách biệt giữa thánh thiện và phàm tục. Sách Lêvi đưa ra một định hướng và những chỉ dẫn cụ thể cho việc nên thánh, được tập trung vào lời mời gọi: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (19,2).

Tên gọi của sách này là sách Lê-vi vì cuốn sách mô tả những hoạt động của các tư tế thuộc chi tộc Lê-vi. Tuy nhiên trong bản văn Thánh Kinh Do Thái, tên gọi của sách này là một từ Do Thái có nghĩa là “Ngài đã gọi”. Như thế, nội dung sách nhấn mạnh đến ơn gọi và ơn gọi căn bản là sống thánh thiện được trình bày cụ thể trong bộ luật về sự thánh thiện (chương 17-26). Sách Lê-vi là cuốn sách thứ ba trong Kinh Thánh Cựu Ước. Sách gồm có 27 chương, được viết vào khoảng năm 1450-517 TCN, không rõ tác giả là ai, truyền thống cho là ông Môsê (Dẫn nhập Sách Sáng Thế - Thánh Kinh Cựu Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Lêvi gồm có 27 chương:

Chương

Chương

1. Nghi thức các lễ tế: Lễ toàn thiêu -

15. Ô uế về sinh dục

2. Lễ phẩm

16. Ngày xá tội

3. Hy lễ kỳ an

17. Luật về sự thánh thiện: Sát sinh. Các lễ vật

4. Lễ tạ tội

18. Những điều cấm đoán về sinh dục

5. Một số trường hợp phải dâng lễ tạ tội - Lễ tạ tội cho một thường dân (tiếp)

19. Chỉ thị về luân lý và phụng tự

6. Hàng tư tế và các lễ tế

20. Quy định về hình phạt

7. Quyền lợi của các tư tế - Quy tắc chung - Phần của tư tế

21. Sự thánh thiện của hàng tư tế

8. Lễ tấn phong tư tế: Nghi thức thánh hiến

22. Phải thánh mới được ăn của thánh

9. Các tư tế nhậm chức

23. Nghi thức cử hành các lễ trong năm

10. Quy định bổ sung

24. Quy định bổ sung về nghi lễ - Nói phạm thượng. Luật báo phục tương xứng.

11. Liên quan đến thanh sạch và ô uế: Loài vật thanh sạch và loài vật ô uế - Đụng vào loài vật ô uế

25. Các năm thánh - Thiên Chúa bảo đảm về năm sa-bát - Chuộc đất, chuộc nhà - Chuộc người

12. Thanh tẩy đàn bà mới ở cữ

26. Các lời chúc phúc - Các lời nguyền rủa

13. Bệnh phong hủi ở người - Quy chế người phong hủi

27. Phụ lục - Quy định đặc biệt về việc chuộc lại những của thánh hiến

14. Thanh tẩy người phong hủi

 

Những phần chính trong sách Lêvi:

  Phần I (1-7) Nghi thức các lễ tế

  Phần II (8-10) Nghi thức tấn phong tư tế

  Phần III (11-16) Luật liên quan đến sự thanh sạch về lề luật

  Phần IV (17-26) Luật về sự thánh thiện

  Phần V (27) Tóm kết

2. Chương 1-16

  a. Lễ toàn thiêu (1,1-17)

         Mới nhìn thoáng qua, ta chỉ thấy những quy định quá tỉ mỉ về Lề luật xem ra có vẻ nặng hình thức. Vì thế cần phải khám phá lại ý nghĩa hàm ẩn bên trong những quy định này. Theo nguyên ngữ trong tiếng Hipri, “toàn thiêu” chỉ có nghĩa đơn giản là “đi lên”. Như thế, ý nghĩa đầu tiên của lễ toàn thiêu là sự khẳng định rằng Thiên Chúa là Đấng ban cho ta quà tặng sự sống, bây giờ của lễ (bò, chiên hay chim) được dâng lên cho Chúa bằng cách đốt cháy của lễ. Khói bốc lên cùng với hương bay lên là hương thơm làm vui lòng Đức Chúa “Tư tế sẽ đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, trên củi đặt trên lửa. Đó là lễ toàn thiêu, lễ hỏa tế, là hương thơm làm vui lòng Đức Chúa”(1,17). Ngoài ra, những quy định Lề luật trên đây còn nhằm dạy cho Dân Chúa bài học về sự vâng phục. Trong tương quan giao ước với Thiên Chúa, dân Ít-ra-en cần phải học vâng phục. Không có sự vâng phục, không thể có sự thánh thiện. Nguy cơ là người ta chỉ còn tuân giữ những hình thức tỉ mỉ bên ngoài mà quên mất ý nghĩa đích thực của lễ tế. Các tiên tri đã lên tiếng cảnh giác điều này nhiều lần, và Chúa Kitô đã đến để khôi phục ý nghĩa đích thực của lễ tế. Tác giả thư Do Thái đã diễn tả rõ ràng: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-8).

 b. Thanh sạch theo lề luật

Các chương 11-16 trong sách Lê-vi bàn đến sự thanh sạch. Lời mời gọi căn bản vẫn là: “Các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh. Các ngươi đừng làm cho chính mình ra ô uế vì các loài vật nhỏ bò trên đất. Thật vậy, Ta là Đức chúa, Đấng đã đưa ngươi từ đất Ai Cập lên, để Ta làm Thiên Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh” (11,44-45). Muốn nên thánh, phải thanh sạch, cho nên sách Lê-vi đưa ra những quy định Lề luật về sự thanh sạch. Các chương 11-12 nói đến sự thanh sạch của những thứ được con người đưa vào trong cơ thể của mình: thực phẩm nào là sạch hay dơ, tình trạng ô uế của phụ nữ khi sinh con. Các chương 13-14 nói đến những ô uế bên ngoài như da thịt, quần áo. Chương 15 bàn đến chuyện sạch bẩn của những gì từ cơ thể con người phát ra, cách riêng về sinh dục. Chương 16 bàn đến Ngày xá tội, tức là cầu nối giữa cái thanh sạch và sự thánh thiện. Ngày nay, người đọc có thể cảm thấy khó chịu với những quy định quá tỉ mỉ và nặng hình thức này. Tuy nhiên không nên quên ý nghĩa căn bản của những quy định này là liên kết sự thanh sạch với sự thánh thiện, và tuân giữ những quy định Lề luật về sạch-bẩn là con đường dẫn đến sự thánh thiện.

 c. Con dê chuộc tội (16,20-28)

Có hai con dê và một bò tơ được dùng để làm lễ tạ tội. Một con dê được sát tế làm lễ tạ tội. Một con dê khác nhận lấy tội lỗi của cộng đoàn – qua việc đặt tay của A-ha-ron – và sau đó được thả vào sa mạc. Như thế, một con dê biểu thị cho việc thanh tẩy thánh điện, và một con biểu thị việc xá tội cho dân: “A-ha-ron sẽ đặt hai tay lên đầu con dê còn sống, sẽ xưng thú trên con vật mọi lỗi lầm của con cái Ít-ra-en, mọi việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng. Nó sẽ trút cả lên đầu con dê, rồi sẽ dùng tay một người đang chờ sẵn mà thả vào sa mạc. Con dê sẽ mang trên mình mọi lỗi lầm của chúng vào hoang địa”(16, 21-22). Ngày nay người Do Thái vẫn tiếp tục cử hành Ngày xá tội (Yom Kippur). Đó là ngày quan trọng để người ta hòa giải với mọi thành viên trong cộng đoàn và để được Thiên Chúa tha tội. Khi thánh Mátthêu viết: “Hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,24) là Ngài nhắc đến điều này. Đồng thời khi cử hành Ngày xá tội, người Do Thái đọc Is 57,14 – 58,14, tức là nhấn mạnh đến việc canh tân nội tâm qua việc ăn chay: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?” Chay tịnh đích thực là ra khỏi bản thân, quan tâm đến nhu cầu của tha nhân, đặc biệt những người nghèo khổ và bất hạnh, và thay đổi đời sống mình. Là môn đệ Chúa Kitô, trình thuật về Ngày xá tội không thể không nhắc ta nhớ đến Thứ Sáu Tuần Thánh, khi ta cử hành cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Đấng đã gánh mọi tội lỗi nhân loại trên vai Người, nhờ đó ta được tha thứ. Trong ngày này, ta cũng được mời gọi ăn chay, không chỉ là một vài kiêng khem theo luật định, nhưng là sự từ bỏ bản thân để chia sẻ với cuộc thương khó của Chúa Cứu thế, để biết quan tâm đến người khác nhiều hơn, và như thế được dẫn vào quỹ đạo tình yêu của Đấng đã chết và sống lại vì ta.

3. Chương 17-27

  a. Tính thiêng thánh của máu (17,1-15)

Khi Thiên Chúa ngỏ lời với nhân loại, Ngài đã chọn một ngôn ngữ cụ thể gắn với một nền văn hoá cụ thể. Vì thế để hiểu Thánh Kinh, không thể không hiểu cách suy nghĩ và diễn đạt của ngôn ngữ và văn hoá đó. Trong văn hoá Hípri, mọi sự được diễn tả cách cụ thể chứ không trừu tượng. Chẳng hạn, chân lý, công bằng, hoà bình... không phải là những ý niệm trừu tượng nhưng là những sự vật sống động. Vì thế, Thánh Kinh diễn tả, “Ân tình và chân lý nay hội ngộ, hoà bình và công lý hôn nhau. Chân lý mọc lên từ đất thấp, công bằng nhìn xuống tự trời cao” (Tv 85,11-12). Tương tự như thế, sự sống không phải là một ý niệm tổng quát nhưng được đồng hoá với máu. Máu là sự sống, mất máu là chết, và cái chết hành động như một tên trộm lấy cắp sự sống: “Mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta đã ban máu cho các ngươi ...Các ngươi không được ăn huyết của bất cứ xác thịt nào vì sự sống của mọi xác thịt là máu nó; bất cứ ai ăn huyết sẽ bị khai trừ” (Lv 17,14). Có như thế, ta mới hiểu được ý nghĩa của những quy định trong sách Lê-vi về việc sát sinh. Mọi việc sát sinh, dù chỉ là tìm thức ăn, cũng phải trở thành lễ tiến và hy lễ. Hành động đó là hành động nhìn nhận Thiên Chúa là nguồn sự sống, và nhờ hành động đó, kẻ dâng lễ tế được tiếp tục sống. Trong trường hợp săn được một con thú hoặc một con chim được phép ăn, thì phải lấy đất phủ lên máu của con vật. Tương tự như vậy, khi làm công việc sao chép văn bản Thánh Kinh, nếu một ký lục lỡ chép sai thì ông sẽ không xé trang đó đi và chép lại, nhưng phải cẩn thận rút phần bị sai đó ra khỏi cuộn sách, để vào trong hộp nhỏ rồi đốt đi. Tại sao lại như thế? Vì cũng như sự sống ở trong máu thì Thần Linh thánh thiện cũng ở trong Lời Chúa. Dù đã có những thay đổi nhưng cho đến nay nhiều người Do thái vẫn không ăn máu. Với người Kitô hữu, khi hiểu được ý nghĩa của máu trong văn hoá Thánh Kinh như thế, ta cảm nghiệm sâu sắc hơn lời mời gọi của Chúa Giêsu, “Tất cả anh em hãy uống chén này vì đây là Máu Thầy, máu giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28). Lời mời gọi đó có nghĩa là: Hãy nên một với Thầy, nên một với sự sống của Thầy.

c.     Năm Toàn Xá (25,1-55)

Trong năm thứ bảy, đất sẽ được nghỉ ngơi, một sabát kính Đức Chúa (25,4). Như thế Đức Chúa đã tách riêng năm thứ bảy cho Ngài, trong năm đó đất được coi là thánh. Trong tháng thứ bảy của năm thứ 49 và kéo dài sang năm 50, dân Chúa cử hành năm toàn xá. Trong ngày xá tội, tù và được thổi lên để quy tụ dân, “Các ngươi sẽ công bố năm thứ 50 là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với các ngươi, đó sẽ là thời kỳ toàn xá” (25,10). Dân chúng được trở về gia đình và đất đai của mình (câu 10). Sẽ không gieo gặt trong năm đó (câu 11). Nếu dân tuân theo, họ sẽ được sống yên hàn và đất đai sẽ trổ sinh hoa trái (câu 18-19). Trong năm toàn xá, người ta có quyền chuộc lại đất (25,23-55), kể cả với những người không có khả năng chuộc lại, “Nếu nó không kiếm được phương tiện để trả tiền lại cho người kia, thì của nó bán sẽ ở lại trong tay người mua cho đến năm toàn xá; đến thời kỳ toàn xá, của bán sẽ ra khỏi tay người mua, và người bán sẽ trở về phần sở hữu của mình” (25,28). Thật ngỡ ngàng khi đọc lại những quy định này trong sách Lê-vi. Ngày nay người ta nói nhiều đến việc giải phóng người nghèo và bảo vệ môi sinh, và coi đó là những điều rất mới mẻ. Thế nhưng từ nhiều thế kỷ trước, sách Lê-vi đã có những quy định rất cụ thể về điều này. Như thế ta khám phá Thánh Kinh là một tác phẩm chất đầy tính nhân văn và xã hội. Và nền tảng của những quy định này là: “Đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta” (25,23). Chỉ Thiên Chúa mới là chủ sở hữu, còn mọi người đều là khách trọ, là ngoại kiều. Khi con người loại bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài, chiếm đoạt quyền sở hữu của Thiên Chúa, thì con người cũng biến tha nhân thành nô lệ cho mình, biến thiên nhiên thành phương tiện sản xuất thuần túy. Đó là cội nguồn của tình trạng bất công và áp bức, tàn phá và hủy diệt môi sinh. Hiểu như thế, những quy định trong sách Lê-vi về Năm toàn xá là cả một hiến chương mời gọi nhân loại không ngừng suy nghĩ lại về chính mình cũng như về xã hội. Cách riêng với người tín hữu Chúa Kitô, những quy định về Năm toàn xá mời gọi ta suy nghĩ lại về cách ta cử hành Năm toàn xá. Phải chăng ta chỉ chú trọng đến những cử hành thiêng liêng mà không quan tâm gì đến những đòi hỏi và âm hưởng xã hội chính ra phải có trong năm này? Phải chăng ta chỉ lo tuân giữ những quy định về việc đi viếng nhà thờ hay tham dự các nghi lễ mà không quan tâm gì đến việc biến đổi bản thân và lối sống hằng ngày của mình? Ngay trong cách cử hành thiêng liêng để được hưởng ơn toàn xá, phải chăng ta cũng có những tính toán ích kỷ, dù là ích kỷ về mặt thiêng liêng, để tìm phần rỗi cho riêng mình mà không quan tâm đến sự giải thoát anh em?

 

CUỐN SÁCH 4

SÁCH DÂN SỐ (Ds)

 

1. Tổng quát

Cuốn sách thứ tư trong bộ Ngũ Thư được gọi là sách Dân Số vì trong đó kể lại hai lần kiểm tra dân số của các chi tộc Ít-ra-en (1,20-46 và 26,5-51) và chi tộc Lê-vi (3,14-51 và 26,57-62). Trong sách còn có những danh sách khác được tính bằng số, chẳng hạn danh sách các nhân viên kiểm tra (1,5-15), danh sách các lễ vật cung hiến bàn thờ (7,10-83), danh sách những người đi dò thám đất Ca-na-an (13,4-15), danh sách các lễ vật được dùng trong những ngày lễ (28,1 – 29,38). Dù vậy, đây không phải là nội dung chính của sách Dân Số. Câu chuyện trong sách Dân Số bắt đầu từ sa mạc Xi-nai ngay sau khi ký kết giao ước, và kéo dài 40 năm cho đến lúc dân chuẩn bị vào Đất Hứa. Đó là câu chuyện của Dân Chúa trong hành trình sa mạc dưới sự lãnh đạo của Môsê và A-ha-ron. Chủ đề trung tâm của sách là sự hiện diện của Đức Chúa với dân Người trong hành trình sa mạc. Chính Chúa cùng đi với dân và hướng dẫn họ. Về phần dân, họ thường xuyên kêu la trách móc khiến Chúa nổi giận, rồi lại xin Chúa tha thứ. Cần phải nhìn sách Dân Số như một giai đoạn trong cả câu chuyện dài như thế, bắt đầu từ sách Sáng Thế với công trình tạo dựng, rồi tiếp nối với công trình giải thoát và tuyển chọn Dân Chúa trong sách Xuất hành, và sau đó là hành trình sa mạc tiến về Đất Hứa. Sách gồm có 36 chương, được viết vào khoảng năm 1450-517 TCN, không rõ tác giả là ai, truyền thống cho là ông Môsê.

Chương

Chương

1. Kiểm tra dân số: Nhân viên kiểm tra - Cuộc kiểm tra - Quy chế các thầy Lê-vi

19. Tro của bò cái màu hung - Trường hợp nhiễm uế - Nghi thức dùng nước tẩy uế

2. Thứ tự các chi tộc

20. Mạch nước Mơ-ri-va - Trừng phạt ông Mô-sê và ông A-ha-ron - Ê-đôm không cho mượn đường - Ông A-ha-ron qua đời

3. Chi tộc Lê-vi

21. Chiếm Khoóc-ma - Con rắn đồng - Những chặng đường sang hữu ngạn sông Gio-đan - Chiếm miền hữu ngạn sông Gio-đan

4. Các thị tộc Lê-vi - Kiểm tra chi tộc Lê-vi

22. Ông Bi-lơ-am và vua Ba-lác

5. Các thứ lề luật: Loại trừ những người nhiễm uế - Luật bồi hoàn - Luật về chuyện ghen tuông

23. Lời sấm của Bi-lơ-am

6. Luật về lời khấn na-dia

24. Lời sấm của Bi-lơ-am (tiếp)

7. Tế phẩm: Dâng các cỗ xe - Lễ vật trong nghi thức cung hiến -

25. Ít-ra-en tại Pơ-o – quy định mới: Kiểm tra dân sốt Ít-ra-en

8. Các ngọn đèn trên trụ đèn

26. Kiểm tra các thầy Lê-vi

9. Lễ vượt qua và cuộc lên đường: Ngày ăn mừng lễ Vượt Qua - Trường hợp đặc biệt - Cột mây

27. Gia tài cho con gái - Ông Giô-suê làm thủ lãnh cộng đồng

10. Kèn bạc - Thứ tự lên đường - Ông Mô-sê đề nghị với ông Khô-váp - Cuộc lên đường

28. Xác định về các hy lễ

11. Những chặng đường trong sa mạc: Táp-ê-ra - Ông Mô-sê can thiệp - Chim cút

29. Xác định về các hy lễ (tiếp theo)

12. Bà Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê - Lời chuyển cầu của ông A-ha-ron và ông Mô-sê

30. Luật về các lời khấn hứa

13. Do thám đất Ca-na-an - Báo cáo của đội do thám

31. Thánh chiến chống Ma-đi-an - Tàn sát phụ nữ và thanh tẩy chiến lợi phẩm - Phân chia chiến lợi phẩm - Các lễ phẩm

14. Ít-ra-en nổi loạn - Cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA và lời chuyển cầu của ông Mô-sê - Tha thứ và trừng phạt - Dân Ít-ra-en thất bại

32. Phân chia vùng bên kia sông Gio-đan

15. Lề luật về hiến tế: Của dâng cúng kèm theo hiến tế - Bánh đầu mùa - Tẩy xoá những lầm lỗi vì vô ý - Vi phạm ngày sa-bát - Tua áo

33. Các chặng đường của cuộc xuất hành - Phân chia đất Ca-na-an. Mệnh lệnh của Thiên Chúa.

16. Cô-rắc, Đa-than và A-vi-ram nổi loạn - Hình phạt

34. Biên giới xứ Ca-na-an - Việc chia đất

17. Bình hương - Ông A-ha-ron chuyển cầu - Cây gậy của ông A-ha-ron - Vai trò đền tội của tư tế

35. Phần dành cho các thầy Lê-vi - Các thành trú ẩn

18. Phần dành cho tư tế - Phần dành cho các thầy Lê-vi - Thuế thập phân

36. Gia nghiệp của phụ nữ có chồng

2. Chương 1-12

 a. Lời khấn Na-dia (6,1-21)

Trước hết cần đặt bản văn này trong bối cảnh Dân Chúa chuẩn bị vào Đất Hứa. Trong bối cảnh đó, sách Dân Số nhấn mạnh đến sự thánh thiện và thanh khiết của cộng đoàn đức tin. Do đó, tác giả lồng vào đây bản văn về lời khấn na-dia, tức là nói đến sự thánh hiến, sự tận hiến hoàn toàn của những cá nhân cho Chúa. Người khấn na-dia dâng mình cho Đức Chúa (câu 21) trong một thời gian (câu 4,5,6,8,12,13). Truyền thống giữ lời khấn này còn được duy trì rất lâu trong dân Chúa, ví dụ trường hợp Sam-sôn (Tl 13,5) và Sa-mu-en (1Sm 1,11). Truyền thống này vẫn được tiếp tục đến thời thánh Gioan Tẩy giả (Lc 1,15) và thánh Phaolô (Cv 18,18; 21,23-26). Bản văn về lời khấn nadia (6,1-21) gồm ba đoạn độc lập: các câu 3-8 mô tả những điều kiện và lề luật người khấn na-dia phải giữ, các câu 9-12 nói đến việc thanh tẩy trong trường hợp bị ô uế, và các câu 13-21 đưa vào nghi thức cử hành khi thời gian khấn chấm dứt. Ở đây ta chỉ tập trung vào đoạn 1 (6,3-8), theo đó người khấn na-dia phải tuân giữ ba điều liên quan đến ăn uống, cắt tóc và tránh xác chết. Người khấn na-dia phải kiêng rượu và men nồng, “không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi cũng như nho khô” (câu 3-4). Rượu nho tượng trưng cho văn hoá thành thị, đời sống ổn định tiện nghi với mức sống cao, tức là những khoái lạc ngược với lối sống thanh đạm (Amos 4,1; 6,6). Kế đó, “dao cạo không được đụng đến đầu... phải để cho tóc mọc tự nhiên” (câu 5) vì tóc được coi là dấu chỉ của sự thánh hiến, dấu chỉ phân biệt người dâng mình cho Chúa. Ở đây nên nhớ đến câu truyện về Sam-sôn bị cạo đầu và mất sức mạnh. Người khấn nadia còn “không được tới gần xác chết... kể cả cha mẹ hay anh chị em qua đời” (câu 6-7). Thời xưa người ta tin rằng có mối liên hệ mật thiết giữa chết chóc và sự ác. Sự ác phát xuất từ xác chết và làm cho bất cứ ai chạm đến xác chết bị ô uế, do đó không xứng đáng với Thiên Chúa. Sự hiện diện của những người khấn na-dia là lời nhắc nhớ thường xuyên cho tất cả cộng đồng rằng họ phải hiến dâng chính mình cho Chúa như thế nào. Cũng vì thế, có nhiều người khó chịu về sự hiện diện đó và tìm cách gài bẫy họ như A-mốt nhắc tới, “Các ngươi đã bắt các na-dia uống rượu, và ra lệnh cho các tiên tri: các ông không được nói tiên tri” (Am 2,12).

Những ghi nhận về lời khấn na-dia khiến ta liên tưởng đến những người sống đời thánh hiến ngày nay, những anh chị em sống theo ba lời khấn: khó nghèo, khiết tịnh, và vâng phục. Sự hiện diện của người sống đời thánh hiến là lời nhắc nhớ cho tất cả cộng đoàn Hội Thánh rằng chính Thiên Chúa và Nước Trời mới là kho tàng quý giá nhất mà ta phải kiếm tìm, là nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu, và phụng sự Chúa chính là đường dẫn đến tự do đích thực. Đồng thời sự hiện diện của những người sống đời thánh hiến cũng là dấu chỉ phản kháng lối sống duy vật và hưởng thụ, và mời gọi con người tìm lại những giá trị tinh thần cao quý, gắn liền với phẩm giá con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa.

  b. Cột mây (9,15-23)

Trong Thánh Kinh, mây là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Mây đã dẫn dân ra khỏi Ai Cập (Xh 13,21-22) và che giấu họ khi quân Ai Cập tới gần (Xh 14,19.24). Mây cũng dẫn đường cho dân trong suốt hành trình sa mạc. Mây che phủ Nhà Tạm ban ngày, và ban đêm trông như lửa (9,15-16). Với hình tượng cột mây như dấu chỉ hiện diện của Chúa, sách Dân Số nhấn mạnh sự hiện diện của Chúa trong hành trình sa mạc, đồng thời nhấn mạnh hai điều. Một là chính cột mây quyết định dân sẽ dừng lại hay đi tiếp (câu 19-22); như thế, việc lên đường hay dừng lại không do dân quyết định mà là do Chúa. Kế đến, Đức Chúa nói với dân qua đám mây. Qua đám mây, họ nhận ra lệnh của Đức Chúa (câu 18,19,23) và làm theo. Sau khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, người Kitô hữu bước vào hành trình dài tiến về Nước Trời. Trong hành trình đó, ta không đi một mình nhưng chính Chúa đồng hành với ta như Người đã đồng hành với dân Ít-ra-en trong sa mạc. Sự hiện diện và đồng hành của Chúa được thể hiện qua nhiều dấu chỉ. Liệu ta có đủ tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ đó không, và ta đáp trả những dấu chỉ đó như thế nào?

3. Chương 13-24

 a. Ít-ra-en nổi loạn và Thiên Chúa nổi giận (14,1-19)

         Khi nghe những người do thám trở về tường thuật về miền đất chảy sữa và mật nhưng khó lòng chiếm được vì dân cư quá hùng mạnh, cả cộng đồng cằn nhằn trách móc Môsê và A-ha-ron, và họ cho rằng thà trở về Ai Cập hay chết trong sa mạc còn hơn (câu 3-4). Như thế là họ phủ nhận chính Chúa, Đấng giải thoát họ. Môsê và A-ha-ron không biết phải giải quyết thế nào. Ca-lép và Giô-suê ra sức thuyết phục dân nhưng vô hiệu. Họ đòi ném đá các ông nếu Chúa không can thiệp (câu 10). Thiên Chúa than phiền với Môsê về thái độ cứng lòng của dân, dù Người đã làm biết bao dấu lạ (câu 11). Và Người đe doạ sẽ dùng ôn dịch mà đánh phạt dân (câu 12). Chính ở đây, ta gặp được chân dung của Môsê, nhà lãnh đạo tuyệt vời của Dân Chúa. Ông can ngăn Chúa đừng xử phạt dân bằng những lời lẽ thống thiết nhất, và ông khẳng định rằng quyền năng Chúa không được tỏ hiện qua việc trừng phạt nhưng qua “kiên nhẫn và giàu ân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm và tội ác nhưng không dung tha điều gì”(câu 17-18). Dù đã chứng kiến bao kỳ công Chúa thực hiện, dù đã cảm nghiệm tình thương che chở của Thiên Chúa, khi gặp phải thử thách, dân Ít-ra-en lập tức than phiền trách móc và đòi trở về miền đất nô lệ, nghĩa là họ vẫn không tin vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Kinh nghiệm này được lập lại trong đời sống đức tin của mỗi người. Dù vẫn nghĩ là mình tin Chúa và cảm nghiệm được tình thương của Người, ta vẫn không thực sự tin tưởng và phó thác đời mình trong tay Chúa, đặc biệt là khi phải đối diện với những gian nan thử thách. Và vì thiếu niềm tin, ta dễ dàng đi tìm những phương thế và sức mạnh trần gian để cậy dựa cuộc đời mình. Vì thế trình thuật về sự nổi loạn của dân Ít-ra-en trong sa mạc phải là tấm gương phản chiếu cho ta suy nghĩ lại thái độ sống đức tin của mình.

  b. Rắn đồng (21,4-9)

Đây là câu truyện cổ xưa nhằm giải thích tại sao lại có con rắn đồng trong Đền thờ Giêrusalem. Sách Các Vua kể rằng vua Khít-ki-gia đã ra lệnh “đập tan con rắn đồng Môsê đã làm vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó” (2V 18,4). Trình thuật về rắn đồng cũng diễn ra giống như những trình thuật về sự nổi loạn của dân Ít-ra-en: nổi loạn – hình phạt – can thiệp – tha thứ (x.11,1-3; 12,2-16; 17,6-15; 21,4-9). Dân chúng lại than phiền vì không có bánh ăn và nước uống, và chỉ mong trở lại Ai Cập (câu 5). Đức Chúa bèn ra hình phạt bằng cách để cho rắn độc xuất hiện, và nhiều người phải chết. Dân lại chạy đến với Môsê xin ông can thiệp. Đức Chúa nhận lời cầu khẩn của Môsê và sai ông làm một con rắn, treo lên một cây cột. Những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, sẽ được sống. Ở đây không phải là chuyện con rắn mà là chuyện của đức tin và vâng phục. Nhìn lên con rắn đồng mà chính Chúa đã truyền cho Môsê làm là thái độ diễn tả sự vâng phục đối với mệnh lệnh của Chúa và tin vào Người. Điều đặc biệt đáng quan tâm là Thiên Chúa đã không dùng một phương thế nào khác để chữa lành cho dân, nhưng đã lấy chính hình tượng con rắn là con vật gây bệnh tật và chết chóc, để chữa lành cho họ.

Chúa Giêsu đã nhắc lại hình ảnh rắn đồng để nói về ơn cứu độ, “Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14). Và khi kể lại việc một người lính lấy ngọn giáo đâm vào cạnh sườn Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, thánh Gioan đã nhắc lại lời Thánh kinh, “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37). Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu độ bằng đường lối thật lạ lùng. Thập giá vốn bị coi là hình phạt nặng nề dành cho những phạm nhân ghê gớm lại trở thành phương thế cứu độ nhân loại nếu ta biết nhìn lên Đấng chịu đóng đinh với tất cả tin yêu và hy vọng. Quả thật, “trong khi người Do thái đòi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hi lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng Đấng Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1Cr 1,22-23).

 4. Chương 25-36

  a. Giô-suê kế nhiệm Môsê (27,12-23)

Giai đoạn lãnh đạo của Môsê sắp chấm dứt. Đức Chúa ra lệnh cho Môsê đi đến dãy núi A-va-rim, đến Ho là nơi A-ha-ron đã qua đời (20,22-26) để từ đó nhìn thấy Đất Hứa (x.Đnl 32,48-52; 33,47; 34,1-6). Đức Chúa cũng cho biết Môsê sẽ không được vào Đất Hứa vì sự bất trung của dân tại Mơ-ri-va (x. 20,2-13). Mối quan tâm cuối cùng của Môsê là làm sao dân Chúa có người lãnh đạo “để cộng đồng của Đức Chúa đừng giống như đàn chiên không có mục tử chăn dắt” (27,17). Môsê quả là vị lãnh đạo mẫu mực. Ông không nghĩ đến bản thân mình. Dù không được đặt chân vào Đất Hứa sau bao nhiêu khó nhọc phải chịu vì dân, ông cũng không buồn phiền khó chịu, mà chỉ nghĩ đến ích lợi của dân, ước mong dân có được người lãnh đạo tốt nhất. Theo nguyên văn, vị lãnh đạo này là người sẽ “ra vào trước họ và dẫn họ ra vào” (27,17). Đây là những từ chuyên môn để mô tả vai trò lãnh đạo về chính trị và quân sự (x.1Sm 18,13.16; 29,6; Gs 14,10-11). Như thế, người kế vị Môsê sẽ dẫn dắt dân trong những cuộc chiến chinh phục đất đai và định cư trên vùng đất mới. Người được chọn là Giô-suê, con của Nun. Ông là người có thần khí nơi mình và đã chứng tỏ có khả năng lãnh đạo (x.11,28; 14,6.30.38). Nghi thức trao quyền cho thấy sự phân biệt giữa vai trò của tư tế và vai trò của nhà lãnh đạo chính trị. Giô-suê đứng trước mặt tư tế E-la-da và toàn thể cộng đồng, và Môsê đặt tay trên ông (27,18), một cử chỉ nói lên việc trao quyền bính cho người kế vị. Tuy nhiên, nếu Môsê là người đã lãnh nhận những chỉ thị trực tiếp từ Đức Chúa (x. 12,6-8), thì Giô-suê sẽ nhận sự hướng dẫn qua vị tư tế. Tư tế sẽ “đến trước nhan Đức Chúa mà xin thẻ xăm Urim” cho Giô-suê; nhờ đó Giô-suê biết được quyết định của Chúa. Với nghi thức này, Giô-suê lãnh nhận quyền bính từ Môsê, để “toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nghe lời ông’ (27,20). Thế nhưng Giô-suê và bất cứ vị lãnh đạo nào sau này cũng không thể sánh với Môsê được. Những chi tiết trong trình thuật muốn diễn tả vai trò đặc biệt của Môsê trong toàn bộ lịch sử Ít-ra-en. Trình thuật này cũng cho thấy từ thời Giô-suê, có sự phân biệt giữa quyền bính của các tư tế và quyền lực chính trị. Đây là vấn đề được quan tâm nhiều trong thời hậu lưu đày (x. Ed 45,17; 46,2). Trình thuật này giúp ta ý thức về vai trò của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội. Sự tuyển chọn không đến từ con người nhưng đến từ chính Thiên Chúa. Môsê đã không tự chọn, ông chỉ nói lên tâm nguyện của mình, và chính Chúa sai Môsê chọn Giô-suê. Việc chọn lựa này phát xuất từ tấm lòng yêu thương của Chúa dành cho dân để họ không phải bơ vơ như đoàn chiên không có người chăn dắt. Do đó người lãnh đạo được chọn không để thoả mãn bất cứ tham vọng cá nhân nào của họ nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ dân, và đó cũng là thước đo giá trị của việc lãnh đạo.

   b. Phân chia đất Ca-na-an (33,50-56)

Nhiệm vụ đầu tiên khi qua sông Gio-đan và vào đất Ca-na-an là đuổi mọi dân cư ở đó ra khỏi đất, và phá hủy mọi “hình ảnh, tượng đúc, nơi cao” của họ (33,51). Ngày nay, trong một thời đại đề cao sự khoan dung tôn giáo, ta cảm thấy mệnh lệnh này thật khó hiểu và khó chấp nhận. Thiết nghĩ phải đặt mệnh lệnh này vào trong đúng bối cảnh của nó. Tác giả nhấn mạnh đây là miền đất Đức Chúa ban cho Ít-ra-en làm gia nghiệp, và đó cũng là dấu chỉ giao ước giữa Đức Chúa và dân Ít-ra-en (33,54). Tương quan giao ước đòi hỏi tình yêu và sự trung thành tuyệt đối. Vì thế trên miền đất của giao ước, không thể tồn tại bất cứ cái gì không thuộc về Thiên Chúa của Ít-ra-en. Cũng vì thế, nếu mệnh lệnh này không được tuân giữ thì dân sẽ phải chịu lời nguyền rủa: “Nếu các ngươi không đuổi các dân cư trong xứ cho khuất mắt, thì những kẻ các ngươi để sót lại sẽ nên như gai chọc mắt, như mũi nhọn đâm sườn; chúng sẽ quấy rối các ngươi trên đất các ngươi ở. Và bấy giờ, Ta sẽ đối xử với các ngươi như Ta đã định đối xử với chúng” (33,55-56). Sau này, trong cảnh lưu đày, dân Ít-ra-en sẽ thấm thía những lời này hơn bao giờ. Đức Chúa cũng ra những chỉ thị cụ thể về việc phân chia đất: “Các ngươi sẽ bắt thăm để chia nhau đất ấy làm gia nghiệp…” (33,54). Việc bắt thăm làm nổi bật ý nghĩa đây là miền đất Thiên Chúa ban cho Ít-ra-en chứ không phải do họ tự chiếm được. Riêng chi tộc Lê-vi, vì không có phần đất riêng làm gia nghiệp, nên mỗi chi tộc phải nhường một số thành của mình làm nơi ở và sinh sống cho những người thuộc chi tộc Lê-vi (35,2-5). Như thế, nội dung căn bản ở đây là đòi hỏi trung thành triệt để và không khoan nhượng. Đã ký kết giao ước với Thiên Chúa, dân phải sống tương quan giao ước đó cách triệt để và trọn vẹn. Âu cũng là đòi hỏi tất yếu của bất cứ tương quan tình yêu nào. Tình yêu vợ chồng tự nó lại chẳng hàm chứa đòi hỏi triệt để và trọn vẹn như thế sao? Nếu ta đọc bản văn này từ tầm nhìn của giao ước tình yêu như thế, đây sẽ là bản văn rất đáng để suy gẫm cho đời sống đức tin, cho tương quan giao ước mà ta đã ký kết với Thiên Chúa, để xem mình đã sống tương quan đó ra sao, và cần phải sửa đổi những gì.

 

CUỐN SÁCH 5

SÁCH ĐỆ NHỊ LUẬT (Đnl)

 

1.  Tổng quát

Đệ nhị luật là một trong những cuốn sách quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn trong Thánh Kinh Cựu Ước. Nội dung chính của sách là ba diễn từ của Môsê nói với dân Ít-ra-en trước khi họ qua sông Gio-đan tiến vào Đất Hứa. Mục đích là củng cố niềm tin của dân vào Thiên Chúa và kêu gọi họ trung thành với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa. Đệ nhị luật có nghĩa là luật thứ nhì. Người ta gọi vậy vì trong Thánh Kinh, luật này đến sau bộ luật trong các Sách Lê-vi và Dân số. Các tác giả Đệ Nhị Luật là những vị tư tế và các ngôn sứ đã tóm lược trong các trang sách những kinh nghiệm mà dân đã từng trải qua trong lịch sử. Sách này biên soạn khởi đầu vào thế kỷ VII TCN. Sách Đệ Nhị Luật gồm có 34 chương.

Chương

Chương

1. Những diễn từ mở đầu: Khung cảnh thời gian và không gian - Những chỉ thị cuối cùng ở núi Khô-rếp - Ở Ca-đê, dân không chịu tin vào ĐỨC CHÚA - Huấn thị của ĐỨC CHÚA tại Ca-đê

18. Hàng tư tế Lê-vi - Các ngôn sứ

2. Từ Ca-đê đến thung lũng Ác-nôn - Chúng ta đã qua thung lũng De-rét - Đánh chiếm vương quốc vua Xi-khôn -

19. Kẻ sát nhân và các thành làm nơi ẩn náu - Các ranh giới - Các nhân chứng

3. Đánh chiếm vương quốc vua Ốc - Chia đất bên kia sông Gio-đan - Chỉ thị cuối cùng của ông Mô-sê

20. Chiến tranh và các chiến binh - Đánh chiếm các thành

4. Giữ luật Chúa là khôn ngoan - Mặc khải tại núi Khô-rếp - Dân sẽ bị phạt và trở về với Chúa - Được Chúa chọn là một hồng ân - Ba thành làm nơi ẩn náu

21. Trường hợp không tìm ra kẻ sát nhân - Cưới phụ nữ bị bắt trong chiến tranh - Quyền trưởng nam - Đứa con bất trị - Những chỉ thị khác

5. Mười điều răn - Ông Mô-sê làm trung gian - Yêu mến Chúa: điểm chủ yếu của lề luật

22. Xúc phạm đến danh dự một thiếu nữ - Ngoại tình và thông dâm

6. Kêu gọi trung thành

23. Những người không được tham dự đại hội - Giữ trại cho thanh sạch -  Luật xã hội và luật phượng tự

7. Ít-ra-en, một dân được tách riêng ra - Chúa chọn và ưu đãi Ít-ra-en - Quyền lực của Thiên Chúa

24. Ly dị - Biện pháp bảo vệ

8. Thử thách trong sa mạc - Đề phòng các cám dỗ khi vào đất hứa

25. Luật về anh em chồng - Không được khiếm nhã trong khi ẩu đả

9. Chiến thắng là nhờ Chúa, chứ không phải vì Ít-ra-en công chính - Dân phạm tội tại núi Khô-rếp. Ông Mô-sê cầu thay cho dân.

26. Sản phẩm đầu mùa –Những diễn từ kết thúc: Ít-ra-en là dân của ĐỨC CHÚA

10. Chúa truyền làm Hòm Bia. Chi tộc Lê-vi được chọn - Cắt bì trong tâm hồn

27. Ghi khắc Luật vào đá. Các nghi lễ.

11. Kinh nghiệm của Ít-ra-en

28. Các lời chúc phúc - Các lời nguyền rủa

12. Bộ Đệ nhị luật: Chỉ dẫn về việc dâng lễ tế - Đừng bắt chước các việc tế tự của người Ca-na-an

29. Ôn lại lịch sử - Viễn tượng lưu đày

13. Đề phòng kẻo bị lôi cuốn thờ thần ngoại

30. Trở về từ chốn lưu đày. Trở lại với Chúa -  Hai con đường

14. Cấm một vài tập tục tang chế - Loài vật thanh sạch và loài vật ô uế - Thuế thập phân hàng năm - Thuế thập phân ba năm một lần

31. Sứ mạng của ông Giô-suê - Nghi thức công bố luật - Huấn thị của ĐỨC CHÚA - Bài ca làm chứng - Đặt Luật bên Hòm Bia - Tập hợp dân để nghe bài ca

15. Năm sa-bát - Người nô lệ - Các con đầu lòng

32. BÀI CA CỦA ÔNG MÔ-SÊ

16. Các đại lễ: lễ Vượt Qua, lễ Bánh Không Men - Các đại lễ khác - Các thẩm phán

33. Những lời chúc phúc của ông Mô-sê

17. Các thẩm phán Lê-vi - Các vua

34. Ông Mô-sê qua đời

2. Chương 1-11

– 1,1–4,43: Diễn từ thứ nhất của Môsê. Môsê khuyến cáo dân phải học bài học của quá khứ nếu muốn vững chắc trong tương lai. Trung tín sẽ được ân thưởng, ngược lại, bất trung sẽ mang lại án phạt.

– 4,44 –11,32: Phần đầu trong diễn từ thứ hai của Môsê trước khi trình bày bộ Đệ Nhị Luật. Phần này có nhiều điểm quan trọng: Mười điều răn (5,1-6,3), Tình yêu của Chúa (6,4-25), Ít-ra-en là dân thánh (7,6-26), Điều răn lớn (10,12– 11,32).

  a. Ít-ra-en, dân được thánh hiến (Đnl 7,1-12)

Môsê nói với dân, “Anh em là một dân được thánh hiến cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa đã chọn anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người” (Đnl 7,6). Trong phần trước (7,1-5), Môsê đưa ra những chỉ thị cấm dân Ít-ra-en quan hệ với các dân khác. Việc cấm đoán này không phát xuất từ sự tự mãn nhưng từ ý thức rằng Ít-ra-en đã được Thiên Chúa tuyển chọn, và nếu không cố gắng, họ sẽ không thể chu toàn trách nhiệm trước mặt Chúa. Thánh hiến là được tách riêng ra để thuộc quyền sở hữu của Chúa. Ít-ra-en đã được tách riêng ra khỏi các dân. Lề luật được ban cho họ nhằm giúp họ duy trì mối quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Nền tảng của mối quan hệ này không phải là những phẩm chất cao quý của họ nhưng chính là tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, Đấng đã chọn một dân nhỏ bé trong các dân. Vì thế được tuyển chọn chính là một hồng ân (x. Đnl 4,32-38).

Kitô hữu là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1Pr 2,9-10). Việc tuyển chọn này cũng không phát xuất từ những ưu điểm về mặt nhân loại của ta, nhưng hoàn toàn phát xuất từ tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa. Ý thức này thúc đẩy ta sống đời Kitô hữu trong tâm tình tạ ơn và khiêm tốn. Hơn ai hết, Mẹ Maria chính là mẫu mực cho ta sống những tâm tình này như Mẹ diễn tả trong lời kinh tạ ơn (Magnificat).

  b. Kinh nguyện hồi tưởng (Đnl 8,1-20)

Môsê nhấn mạnh đến việc “nhớ lại” những hành động yêu thương của Chúa, “Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc” (8,2). Nhớ lại hành động giải thoát của Chúa khi đưa dân khỏi Ai cập cũng như sự quan phòng của Người trong suốt hành trình sa mạc là điều tối quan trọng, vì nhờ đó, dân mới cảm nhận tình thương của Chúa và gắn bó với Người, vâng phục Người. Ngược lại, nếu quên đi những hồng ân đó, dân sẽ dần dần bất tuân và bất tín với Thiên Chúa. Kinh nghiệm sa mạc giúp cho Ít-ra-en thấy rõ cuộc sống của họ hoàn toàn lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa. Kinh nghiệm về sự thiếu thốn và đói khát đến độ chỉ có thể sống nhờ man-na, kinh nghiệm đó giúp dân thấy rõ họ sống được là nhờ Chúa: “Thiên Chúa đã bắt anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết…. ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Đnl 8,3). Bây giờ khi bước vào vùng đất mới với lương thực đầy đủ, người ta dễ cho rằng sự phong phú đó là do nỗ lực của con người chứ không do Thiên Chúa. Cho nên Môsê nhấn mạnh, “Anh em hãy ý tứ đừng quên Đức Chúa… Khi anh em được ăn, được no nê, xây nhà đẹp đẽ… thì anh em đừng kiêu ngạo mà quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai cập, khỏi cảnh nô lệ” (8,11-13).

Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, ta cần nhìn lại và nhớ lại cuộc đời mình trong ánh sáng của Chúa, nhờ đó ta cảm nhận sự hiện diện và tình thương của Chúa trong cuộc đời mình cách cụ thể và rõ ràng. Có thể gọi là kinh nguyện hồi tưởng. Cách cụ thể, hãy đặt mình trước mặt Chúa và nhớ lại. Hãy nhớ lại những khoảnh khắc đặc biệt khiến ta cảm nhận rõ ràng sự can thiệp của Chúa. Hãy nhớ lại những người đã làm ơn cho ta và ghi đậm dấu ấn trong đời ta vì chính Chúa ban ơn cho ta qua họ. Hãy nhớ lại những biến cố lớn trong đời. Hãy nhớ lại những thương tích còn lại trong tâm hồn, và xin Chúa chữa lành. Hãy nhớ lại những người mà ta gây thương tích cho họ, dù vô tình hay hữu ý, và xin Chúa chữa lành họ. Nhớ lại tất cả những điều trên trong ánh sáng của Chúa giúp ta cảm nhận tình thương của Chúa trong đời mình, giúp ta được chữa lành khỏi những thương tích trong tâm hồn, và giúp ta vững bước đi về phía trước trong tin yêu và phó thác.

3. Chương 12-26

a. Đời sống hôn nhân gia đình (Đnl 24,1-4)

Trong Tin Mừng Mátthêu, khi được hỏi, “Người ta có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?” Chúa Giêsu đã trả lời, “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán: Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19,3-5). Nhưng người Pharisêu đặt vấn đề với Chúa Giêsu, “Tại sao ông Môsê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?” (Mt 19,7). Đặt câu hỏi như thế là dựa vào Đnl 24,1-4: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì đáng ruồng bỏ, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà”. Theo đó, người phụ nữ hoàn toàn ở thế thụ động, bị coi như một vật sở hữu của người đàn ông. Hơn nữa, người ta có thể giải thích lề luật theo ý muốn và sở thích ích kỷ của mình, chẳng hạn đã có những cách giải thích khác nhau về cụm từ “điều gì đáng ruồng bỏ” và “điều không đẹp lòng”. Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt trên luật Môsê và đưa người ta trở về với ý định ban đầu của Thiên Chúa, “Vì các ông lòng chai dạ đá nên Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có thế đâu” (Mt 19,8). Về lời khẳng định của Chúa Giêsu, “Tôi nói cho các ông biết: ngoại trừ hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình” (Mt 19,9). Theo Lê-vi 18,6-18, (đối chiếu với Cv 15, 20,29) đó là hôn nhân giữa những người cùng chung huyết thống (họ máu, họ kết bạn).

  b. Những ngày lễ lớn (Đnl 16,16)

Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của anh em phải đến trình diện Đức Chúa, ở nơi Người chọn: vào dịp lễ Bánh Không Men, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều” (Đnl 16,16). Ở nguồn gốc, đây là những lễ hội nông nghiệp, rồi được tôn giáo hoá để tưởng nhớ những biến cố lớn trong lịch sử Dân Chúa. Lễ Bánh Không Men được cử hành vào mùa Xuân để tưởng nhớ cuộc xuất hành khỏi Ai Cập. Lễ Ngũ Tuần là lễ của các tuần lễ (Xh 34,22; Đnl 16,10), ở khoảng giữa lễ Vượt Qua và lễ Lều. Sau này được cử hành để tưởng nhớ việc Thiên Chúa ban Lề Luật trên núi Xi-nai. Trong Kitô giáo, có những ngày lễ tương tự những ngày lễ của dân Ít-ra-en như lễ Phục Sinh, lễ Hiện Xuống. Cách nào đó, những ngày lễ này tiếp nối những ngày lễ của dân Ít-ra-en nhưng lại mang ý nghĩa mới mẻ và sâu xa hơn. Việc cử hành các ngày lễ trên đóng vai trò quan trọng trong đời sống đức tin của Dân Chúa, vừa tưởng niệm những kỳ công Chúa thực hiện trong lịch sử, vừa thúc đẩy tín hữu sống đức tin. Ngày nay, một số ngày lễ lớn của Kitô giáo đang có nguy cơ bị tục hoá, vd. lễ Giáng Sinh nhiều khi chỉ còn là cơ hội ăn chơi và mua sắm. Vì thế, Kitô hữu càng cần phải cử hành những ngày lễ tôn giáo cách ý thức hơn.

4. Chương 27-34

  a. Tổng kết: Chọn lựa sự sống (Đnl 30,15-20)

Trong diễn từ thứ ba của Môsê, sau khi đã ôn lại lịch sử của Dân Chúa, Môsê nói với dân, “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ…” (Đnl 30,15-20). Lời này cho thấy viễn tượng bao trùm toàn bộ lề luật Thiên Chúa ban cho con người chính là sự sống. Lề luật Thiên Chúa ban là để cho con người được sống và hạnh phúc chứ không nhằm hủy diệt và giết chết như nhiều người ngày nay nghĩ tưởng. Chỉ có điều quy luật của sự sống là “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Đó là quy luật tự nhiên của sự sống nhưng con người lại cho đó là nghịch lý. Họ chỉ muốn sự sống tức thời và cụ thể trước mắt chứ không chấp nhận quy luật của hy sinh và từ bỏ. Vì thế họ lao vào việc tìm thoả mãn những sở thích và đam mê của mình bằng mọi cách để rồi chỉ thấy sự sống đích thực nơi mình mỗi ngày mỗi nghèo nàn và trống vắng. Dân Ít-ra-en đã phải học bài học này trong suốt hành trình sa mạc, và mỗi chúng ta cũng phải học bài học đó. Chọn lựa căn bản của người Kitô hữu là chọn Chúa, cũng là chọn sự sống. Nhưng ta cần thể hiện chọn lựa căn bản đó xuyên qua những chọn lựa nhỏ bé và cụ thể hằng ngày. Và không thể quên quy luật của sự sống mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh bằng chính cuộc sống và cái chết của Ngài.

 

 

CUỐN SÁCH 6

SÁCH GIÔ-SUÊ (Gs)

 

1. Tổng quát

Giô-suê là trợ tá của Môsê và được chọn để kế tục sự nghiệp của Môsê lãnh đạo Dân Chúa. Trong tiếng Do thái, Giô-suê có nghĩa là “Thiên Chúa cứu” hay “Xin Thiên Chúa cứu”. Vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên, Giô-suê đưa dân Ít-ra-en tiến vào Đất Hứa. Sau khi vượt qua sông Gio-đan và chiếm đất Ca-na-an, họ lấy Ghin-gan làm bản doanh và Si-khem làm nơi thờ phượng. Giô-suê đã triệu tập tất cả các chi tộc Ít-ra-en  tại Si-khem và lập thoả thuận với họ. Sách Giô-suê như ta có ngày nay là sự thu thập những lời truyền khẩu về Miền Đất Hứa, và chỉ được hoàn thành sau thời lưu đày Babylon. Sách Giô-suê gồm có 24 chương chia làm ba phần chính:

- Chinh phục đất Ca-na-an (chương 1 – 12)

- Phân chia đất (chương 13-21)

- Các chi tộc bên kia sông Gio-đan trở về và diễn từ cuối cùng của Giô-suê (chương 22 – 24)

Mục đích chính của sách là chứng minh sự trung tín của Thiên Chúa với lời Người đã hứa, đặc biệt là lời hứa sẽ ban cho dân miền đất chảy sữa và mật. Niềm tin vào sự trung tín của Thiên Chúa là điểm tựa cho Dân, để dù sống giữa cảnh lưu đày, họ vẫn một niềm tin tưởng vào sự hiện diện và chăm sóc của Thiên Chúa, Đấng sẽ giải thoát họ và đưa họ về miền Đất Hứa. Đồng thời, Dân Chúa phải ý thức rằng họ sẽ có thể sống mãi trong miền đất Thiên Chúa đã ban cho họ, với điều kiện là họ trung thành tuân giữ tất cả những điều Môsê đã truyền qua Lề Luật: “Anh em phải thật cương quyết tuân giữ và thực hành tất cả những gì ghi trong Sách Luật Môsê, không đi trệch bên phải bên trái” (23,6).

Chương

Chương

1. Chuẩn bị chiếm đất hứa: Mời gọi qua Đất Hứa - Trung tín với Lề Luật: điều kiện để được Thiên Chúa phù trợ - Các chi tộc bên kia sông Gio-đan tiếp tay

13. Phân chia đất đai cho các chi tộc: Mệnh lệnh của Thiên Chúa – các chi tộc bên kia sông Gio-đan: Nhìn tổng quát - Chi tộc Rưu-vên - Chi tộc Gát- Nửa chi tộc Mơ-na-se -

2. Ông Giô-suê sai người đi do thám Giê-ri-khô - Giao kèo giữa các người do thám và cô Ra-kháp - Các người do thám trở về

14. Ba chi tộc lớn ở phía tây sông Gio-đan: Phần đất của ông Ca-lếp

3. Chuẩn bị qua sông - Những chỉ thị cuối cùng - Qua sông

15. Chi tộc Giu-đa - Danh sách các thành của chi tộc Giu-đa

4. Mười hai bia kỷ niệm - Sau khi qua sông - Tới Ghin-gan

16. Con cái ông Giu-se - Chi tộc Ép-ra-im

5. Các dân miền tây sông Gio-đan kinh hãi - Người Híp-ri chịu cắt bì ở Ghin-gan - Cử hành lễ Vượt Qua – Thần hiện

17. Chi tộc Mơ-na-se - Con cái ông Giu-se khiếu nại

6. Chiếm Giê-ri-khô - Giê-ri-khô bị án tru hiến - Nhà cô Ra-kháp thoát nạn

18. Chia đất cho bảy chi tộc khác - Chi tộc Ben-gia-min - Các thành của chi tộc Ben-gia-min

7. Tội không thi hành án biệt hiến - Thất bại ở thành Ai - Ông Giô-suê cầu nguyện - ĐỨC CHÚA trả lời - Tìm được thủ phạm và ra hình phạt

19. Chi tộc Si-mê-ôn - Chi tộc Dơ-vu-lun - Chi tộc Ít-xa-kha - Chi tộc A-se - Chi tộc Náp-ta-li - Chi tộc Đan

8. Thiên Chúa truyền lệnh cho ông Giô-suê - Mưu kế của ông Giô-suê - Cuộc đánh chiếm thành Ai - Án tru diệt và cuộc tàn phá thành Ai - Bàn thờ bằng đá nguyên vẹn - Đọc Sách Luật Mô-sê

20. Các thành đặc biệt - Các thành trú ẩn

9. Hiệp ước giữa dân Ít-ra-en và người Ghíp-ôn: Liên minh chống Ít-ra-en - Mưu của người Ghíp-ôn - Quy chế cho người Ghíp-ôn

21. Các thành của người Lê-vi - Phần dành cho người Cơ-hát - Phần dành cho các con ông Ghéc-sôn - Phần dành cho các con ông Mơ-ra-ri  - Kết luận về việc phân chia đất đai

10. Liên minh với vua E-mô-ri đánh chiếm niềm nam Pa-lét-tin: Năm vua đánh Ghíp-ôn - Ông Giô-suê đến cứu viện Ghíp-ôn - Ơn trên phù hộ - Năm vua trốn trong hang Mác-kê-đa - Chiếm các thành miền nam Ca-na-an - Tổng kết về các cuộc chinh phục miền nam

22. Cuối đời ông Giô-suê - Đưa quân của các chi tộc bên kia sông Gio-đan trở về - Xây bàn thờ trên bờ sông Gio-đan - Con cái Ít-ra-en trách móc các chi tộc ở phía tây- Các chi tộc bên kia sông Gio-đan tự biện hộ - Hai bên thoả hiệp với nhau

11. Chinh phục niềm bắc Pa-lét-tin: Các vua miền bắc liên minh với nhau - Chiến thắng ở Mê-rôm - Chiếm Kha-xo và các thành khác ở phía bắc - Tổng kết về các cuộc chinh phục miền băc

23. Ông Giô-suê tóm kết công trình của mình - Phải sống thế nào giữa các dân ngoại

12. Tổng kết các cuộc chiến thắng các vua hai bên sông Gio-đan: Các vua bại trận ở phía đông sông Gio-đan - Các vua bại trận ở phía tây sông Gio-đan -

24. Đại hội Si-khem - Ít-ra-en chọn ĐỨC CHÚA - Giao ước Si-khem - Ông Giô-suê qua đời - Hài cốt ông Giu-se. Tư tế E-la-da qua đời.

 

2. Qua sông Gio-đan (3,1 – 5,12)

  a. Chuẩn bị (3,1-13)

Trình thuật này mô tả việc qua sông Gio-đan như một cuộc rước trọng thể trong phụng vụ. Mục đích là để cho thấy chính Thiên Chúa hằng sống là Chúa của toàn thể cõi đất đã đưa dân Ít-ra-en vào Đất Hứa. Như thế, dân đang sống cảnh lưu đày vững tin vào quyền năng Chúa là Đấng sẽ giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày.

  b. Qua sông (3,14-17)

Trong cuộc rước trọng thể, dân đi theo các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước và khi nước dừng lại thì dân đi qua sông. Rõ ràng trình thuật này muốn nhắc lại việc dân Ít-ra-en qua Biển Đỏ; như thế làm nổi bật ý nghĩa: việc vào Đất Hứa chính là sự kết thúc hành động Thiên Chúa giải thoát Dân, đã được bắt đầu từ cuộc Xuất hành. Xuất Hành trở thành điểm quy chiếu qua đó thấy được hành động giải thoát của Chúa.

  c. Bia kỷ niệm (4,1-9)

Các tấm bia là sự nhắc nhớ cụ thể rằng “nước sông Gio-đan đã bị chặn lại trước Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa khi Hòm Bia qua sông Gio-đan”. Như thế, chính Chúa chứ không ai khác, đã đưa dân qua sông.

  d. Hoàn tất việc qua sông (4,10-18)

Việc qua sông Gio-đan vừa khép lại một giai đoạn trong lịch sử Ít-ra-en vừa mở ra một giai đoạn mới. Trình thuật này mô tả bước chuyển tiếp giữa hai giai đoạn. Trình thuật này được đóng khung bằng hai sự kiện mang tính phụng vụ: Giô-suê dựng mười hai tảng đá lấy từ sông Gio-đan (4,20-24) và việc cử hành lễ Vượt Qua (5,10-12).

3. Diễn từ cuối cùng của Giô-suê (chương 23 & 24)

Biết rằng ngày ra đi của mình đã gần kề, Giô-suê triệu tập dân lại để nhắc nhở họ về mọi điều đã xảy ra, đồng thời khuyến khích họ trung thành với giao ước. Ông cũng khuyến cáo dân về những hậu quả khôn lường nếu họ bất trung và chống lại Chúa.

4. Liên quan đến Tân Ước

   - Giô-suê, hình bóng của Chúa Kitô, Đấng đưa dân vào Nước Thiên Chúa.

  -  Việc qua sông Gio-đan là hình bóng của bí tích Thánh Tẩy.

  -  Đất Hứa là hình bóng của Vương quốc Thiên Chúa.

 

 

 

 

 

 

 

CUỐN SÁCH 7

SÁCH THỦ LÃNH (Tl)

 

1. Thần học về lịch sử

 a. Biên soạn sách Thủ Lãnh

Các Thủ Lãnh là những người đã đóng vai trò hướng dẫn Dân Chúa trong suốt 150 năm sau ông Giô-suê (1200-1050 trước Công nguyên). Tuy nhiên sách Thủ Lãnh đã chỉ được biên soạn trong thời Lưu đày, nghĩa là sau đó khoảng 400-500 năm. Như thế, Sách được biên soạn không chỉ nhằm mục đích ghi lại những sự kiện lịch sử nhưng còn trình bày một cái nhìn thần học về lịch sử. Sách Thủ lãnh gồm có 21 chương:

Chương

Chương

1. Cuộc định cư của Giu-đa, Si-mê-ôn, Ca-lếp và Kê-ni - Chiếm Bết Ên - Các chi tộc phía bắc

12. Chiến tranh giữa Ép-ra-im và Ga-la-át. Ông Gíp-tác qua đời - ÔNG ÍP-XAN - ÔNG Ê-LÔN - ÔNG ÁP-ĐÔN

2. Thần sứ của ĐỨC CHÚA cho Ít-ra-en biết trước những điều bất hạnh - Cuối đời ông Giô-suê - Ý nghĩa tôn giáo thời các thủ lãnh - Lý do tồn tại của chư dân

13. ÔNG SAM-SÔN - Truyền tin ông Sam-sôn ra đời - Thiên sứ hiện ra lần thứ hai

3. SỰ TÍCH CÁC THỦ LÃNH: ÔNG ÓT-NI-ÊN - ÔNG Ê-HÚT - ÔNG SAM-GA

14. Ông Sam-sôn kết hôn - Ông Sam-sôn ra câu đố

4. BÀ ĐƠ-VÔ-RA VÀ ÔNG BA-RẮC - Xi-xơ-ra bị đánh bại - Ít-ra-en được giải thoát

15. Ông Sam-sôn đốt mùa màng của người Phi-li-tinh - Hàm lừa

5. Bài ca của bà Đơ-vô-ra và ông Ba-rắc

16. Chuyện xảy ra ở cổng thành Ga-da - Ông Sam-sôn bị Đa-li-la phản trắc - Ông Sam-sôn trả thù rồi chết

6. Thiên Chúa gọi ông Ghít-ôn - Người Ma-đi-an áp bức dân Ít-ra-en - Thần sứ của ĐỨC CHÚA hiện ra với ông Ghít-ôn - Ông Ghít-ôn triệt hạ Ba-an - Kêu gọi chiến đấu - Lông cừu làm điềm báo

17. Nhà thờ tư của ông Mi-kha

7. ĐỨC CHÚA rút bớt quân số của ông Ghít-ôn - Điềm báo thắng trận - Cuộc đột kích - Truy kích

18. Những người thuộc chi tộc Đan đi kiếm đất - Cuộc di dân của họ Đan

8. Ép-ra-im kêu trách - De-vác và Xan-mun-na bại trận - Ông Ghít-ôn báo thù - Cuối đời ông Ghít-ôn

19. Người Lê-vi vùng Ép-ra-im và cô tỳ thiếp - Tội ác của dân Ghíp-a

9. Ngụ ngôn của ông Giô-tham - Si-khem phản loạn chống A-vi-me-léc - Triệt hạ thành và tháp Si-khem - A-vi-me-léc tấn công Tê-vết và bị tử trận

20. Người Ít-ra-en trả thù tội ác Ghíp-a - Người Ben-gia-min ngoan cố - Giao tranh đầu tiên - Ben-gia-min bại trận

10. ÔNG TÔ-LA - ÔNG GIA-IA - ÔNG GÍP-TÁC - Ít-ra-en bị người Am-mon đàn áp

21. Người Ít-ra-en hối hận - Các trinh nữ Gia-vết được trao cho người Ben-gia-min - Bắt cóc các cô gái Si-lô

11. Ông Gíp-tác đặt điều kiện - Ông Gíp-tác điều đình với con cái Am-mon - Ông Gíp-tác khấn và thắng trận

 

  b. Thần học về lịch sử

Thần học căn bản về lịch sử mà tác giả muốn trình bày là: tội lỗi dẫn đến hình phạt, còn sám hối dẫn đến ơn tha thứ và giải thoát (đọc 6,1-10; 10,6-16). Ý nghĩa thần học này rất quan trọng đối với dân lưu đày: họ đã mất quê hương vì tội lỗi của họ, nhưng nếu họ biết ăn năn hối cải thì Thiên Chúa sẽ tha thứ và giải thoát họ. Người Kitô hữu cũng cần tập nhìn những biến cố lịch sử bằng cặp mắt đức tin để khám phá sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa ngay trong lịch sử. Các thủ lãnh không phải là những vị thánh, theo nghĩa chúng ta hiểu bây giờ. Tuy nhiên Ít-ra-en nhìn những người này như những vị cứu tinh mà Thiên Chúa nhân từ gửi đến cho họ. Ám sát một thủ lãnh thù địch hay giết quân Phi-li-tinh đối với chúng ta không còn phải là một hành vi tôn giáo nữa. Nhưng nếu chúng ta xét đến thời đại và môi trường của họ, thì những con người đó đã tỏ ra can trường và tin tưởng giữa bao kẻ hèn nhát. Khi lôi kéo anh em mình ra khỏi tình trạng thụ động, những con người đó đã chuẩn bị một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc mình. Cuốn sách này gồm 21 chương.

2. Những bài học lớn cho đời sống đức tin

 a. Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn

Dân Ít-ra-en đã ký kết giao ước với Thiên Chúa; tuy nhiên họ đã không trung thành với giao ước. Họ bỏ Chúa để chạy theo các ngẫu tượng mà dân địa phương tin rằng mang lại sự thịnh vượng như Ba-an, A-sê-ra, Át-tô-rét... Họ còn bắt chước cả những cách tế tự của dân địa phương, vd. giết người để dâng hiến làm của lễ. Về phía Thiên Chúa, Ngài không bao giờ mất lòng kiên nhẫn. Dù dân có phản bội giao ước, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương họ bằng tình yêu trung tín. Nếu tội lỗi của dân dẫn đến án phạt thì cần nhìn những án phạt này trong viễn tượng của tình yêu trung tín đó, nghĩa là Thiên Chúa trừng phạt dân không phải vì căm thù mà vì tình yêu thương, để sửa dạy dân và kêu gọi họ trở về đường ngay nẻo chính. Vậy người Kitô hữu có thể rút được bài học nào cho chính mình và cho Giáo Hội?

  b. Thiên Chúa sử dụng những con đường lạ lùng.

Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa sử dụng cả những con người yếu đuối và tội lỗi, chẳng hạn những phụ nữ chân yếu tay mềm, hay Sam-sôn nặng nề xác thịt... Điều này làm ta liên tưởng đến lời thánh Phaolô: “Những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém thì Thiên Chúa đã chọn để hạ gục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” (1Cr 1,27-29). Đồng thời mỗi Kitô hữu cần nhớ lại lời Thánh Kinh: “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1Cr 1,31) và “Kho tàng ấy, chúng tôi chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng tôi” (2Cr 4,7).

  c. Ít-ra-en giữa dân ngoại: hình ảnh của Giáo Hội ngày nay

So sánh với các dân Ca-na-an và Phi-li-tinh, Ít-ra-en vừa thua kém về dân số vừa thua kém về khả năng. Trong thế giới ngày nay, xem ra càng ngày Giáo Hội càng trở thành cộng đoàn thiểu số, đồng thời bị tấn công về nhiều mặt. Tuy nhiên, dù sống trong hoàn cảnh nào, Dân Chúa vẫn có trách nhiệm làm muối cho đời và ánh sáng cho trần gian (Mt 5,13). Điều quan trọng là phải xem lại bản thân mình còn chất muối và ánh sáng không; nếu không sẽ trở thành vô dụng và bị quăng ra ngoài cho người ta chà đạp.

3. Sách Thủ Lãnh và đời sống Kitô hữu

   - Bạn hãy đọc lại câu chuyện cuộc đời Sam-sôn (chương 12-15), một vị thủ lãnh nổi tiếng trong lịch sử Ít-ra-en. Từ câu chuyện này, bạn có thể rút ra điều gì cho đời sống thiêng liêng của mình?

 

CUỐN SÁCH 8

SÁCH RÚT (R)

 

1. Tổng quát

Trong dân Ít-ra-en ngày xưa, dường như biện pháp tốt nhất để bảo vệ phẩm giá và quyền tự do của các gia đình khiêm tốn nhất là bảo tồn phần gia tài của gia trưởng và tuyên bố là không thể chuyển nhượng phần đất thuộc về ông trên lãnh thổ của chi tộc ông. Khi một người đàn ông chết mà không có con, một người đàn ông họ hàng của với người ấy có thể (và có bổn phận nếu có phương tiện) chuộc phần đất của người ấy và cho người ấy một đứa con thừa kế được chính thức thừa nhận là dòng dõi của người ấy (x. Mc 12,19 "Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta rằng: "Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình". Chính tập tục này là chủ đề của Sách Rút.

Một truyền thống cổ xưa kể lại rằng trong số những tổ tiên của vua Đa-vít có một bà người nước ngoài miền Mô-áp tên là Rút. Đây là nhân vật chính của truyện lý thú này. Truyện này được viết vào thế kỷ IV TCN, với một văn phong khoáng đạt và vượt lên trên chủ nghĩa quốc gia. Trước đó không lâu, ông Ét-ra đã bắt ép người Do-thái rẫy bỏ các bà vợ ngoại bang, vì các bà này có thể kéo theo họ đạo các bà. Ở đây thì ngược lại, vai nữ chính lại là một bà ngoại bang. Bà Rút tin nhận Thiên Chúa thật, tức là Thiên Chúa của Ít-ra-en, và được đón nhận vào cộng đồng dân Thiên Chúa (Dẫn nhập sách Rút, Thánh Kinh Cựu Ước & Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Rút gồm có 4 chương:

Chương

Chương

1. Rút và bà Na-o-mi

3. Ông Bô-át nằm ngủ

2. Cô Rút trong đồng ruộng của ông Bô-át

4. Ông Bô-át cưới cô Rút - Gia phả vua Đa-vít

2. Bà Na-o-mi và cuộc vật lộn với Thiên Chúa

 a. Từ một phụ nữ đạo đức bình thường đến tâm trạng cay đắng

Đừng gọi tôi là Na-o-mi nữa, hãy gọi tôi là Ma-ra” (1,20). Ma-ra có nghĩa là Chúa giáng phạt: “Đấng Toàn năng đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng”. Lý do dẫn bà Rút đến tâm trạng cay đắng này là vì bà bị mất tất cả: “Tôi ra đi, của cải dư đầy, Đức Chúa đem tôi về, hai bàn tay trắng”(1,21); không những mất của cải mà còn rơi vào tình trạng góa bụa cô đơn.

  b. Sự ác là nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng vô thần và mất niềm tin

Thiên Chúa bị coi là nguyên nhân mọi đau khổ: “Đức Chúa đã làm cho tôi tủi nhục, Đấng Toàn năng đã để tôi đau khổ” (1,21); vì thế không còn thấy được dung nhan Thiên Chúa tình yêu. Nhận xét này mời gọi ta nhìn lại kinh nghiệm cá nhân của mình khi phải đối diện với đau khổ. Ta cũng rất dễ đánh mất niềm tin và cậy trông vào Thiên Chúa khi phải đối diện với những thử thách và đau khổ. Đây thực sự là một vấn nạn lớn, đúng hơn là một mầu nhiệm và ta chỉ tìm được câu trả lời khi chiêm ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh.

3. Bà Rút và những nhân đức trong đời sống gia đình

 a. Gắn bó với gia đình chồng, kể cả trong niềm tin tôn giáo

Bà Rút gắn bó với mẹ chồng: “Mẹ đi đâu, con đi đó; mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con” (1,16). Bà lại là người có lòng nhân hậu, lo cho mẹ già: “Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất...” (2,12).

  b. Thánh Phaolô và đời sống gia đình

Tấm gương của bà Rút làm ta liên tưởng đến lời nhắn nhủ của thánh Phaolô về đời sống gia đình: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,1-4).

         Tấm gương của bà Rút còn mời gọi ta nhìn lại mối quan hệ của ta với Thiên Chúa: trong đời sống đức tin, liệu ta có gắn bó với Chúa trong mọi hoàn cảnh như bà Rút gắn bó với gia đình nhà chồng?

4. Đường lối cứu độ của Thiên Chúa

 a. Thiên Chúa điều khiển mọi sự

Xem ra chính bà Na-o-mi đã sắp xếp mọi sự và đã đạt được mục đích: chính bà khuyên Rút đến với ông Bô-át (3,1-4) và bà đã có người bảo tồn dòng dõi (4,14-15). Tuy nhiên khi đạt kết quả thì chính Thiên Chúa lại được ca tụng: “Chúc tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu thốn người bảo tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Ít-ra-en” (4,14). Như thế, tác giả đã nhìn mọi sự từ quan điểm đức tin. Chính Thiên Chúa là Chủ mọi sự. Ngài vận dụng mọi sự nhằm mục đích cứu độ con người, kể cả thông qua những tính toán tự nhiên của con người.

  b. Chúa Kitô thuộc dòng dõi Đavít, có tổ tiên là bà Rút (Đọc Rút 4, 17-22 // Mt 1,1-5)

Trong gia phả của Chúa Giêsu, có tên của bốn phụ nữ và cả bốn phụ nữ này đều có vấn đề trong đời sống riêng :

* Ta-ma (x. St 38, 15-20)

* Ra-kháp (x. Js 2,6. 22-25)

* Rút (x. Rút, chương 3)

* Bát-se-va (x. 2Sm, chương 11)

Khi Thiên Chúa làm người, Ngài đã chấp nhận có mặt trong một dòng dõi được ghi dấu bởi tội lỗi; nhờ đó Ngài cứu nhân loại khỏi tội lỗi. Định hướng này được thể hiện rõ nét trong suốt cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu: Ngài đồng bàn với những người tội lỗi đến nỗi bị xã hội lên án. Ơn Cứu độ của Thiên Chúa không loại trừ bất cứ ai. Vấn đề là mỗi người có sẵn sàng mở lòng ra để đón nhận Ơn Cứu độ đó không. 

 

CUỐN SÁCH 9

SÁCH SA-MU-EL I (1Sm)

 

1. Tổng quát

  a. Tác phẩm

Ở nguồn gốc, sách Sa-mu-en 1 & 2 chỉ là một nhưng khi dịch Thánh Kinh từ tiếng Do thái sang tiếng Hi Lạp (bản 70) thì sách được chia ra làm hai. Các bản dịch sang tiếng La Tinh và các ngôn ngữ khác cũng theo sự phân chia này. Sách Sa-mu-en là tập hợp các bài tường thuật về lịch sử Ít-ra-en từ khi dân vào đất Ca-na-an (thế kỷ 12) đến thời lưu đày (587 Trước Công nguyên). Sứ điệp chính của tác phẩm là Thiên Chúa đã chọn Ít-ra-en làm dân riêng, và qua Môsê đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và đã ký kết giao ước với họ. Lời Thiên Chúa ban qua Môsê vẫn tiếp tục hướng dẫn Dân Chúa cũng như các vị lãnh đạo dân. Nếu dân trung thành với luật giao ước thì sẽ thịnh vượng và bình an; ngược lại, họ sẽ phải chịu hình phạt từ những tai họa thiên nhiên đến sự xâm lăng của quân thù và cả sự lưu đày. Sách Sa-mu-en không phải là sách lịch sử theo nghĩa hiện đại cho bằng trình bày thần học về lịch sử, nghĩa là nói đến mối quan hệ của Thiên Chúa với dân Người. Sách Sa-mu-en quyển thứ nhất có 31 chương:

Chương

Chương

1. THỜI THƠ ẤU CỦA ÔNG SA-MU-EN - Hành hương Si-lô - Bà An-na cầu nguyện - Ông Sa-mu-en sinh ra và được thánh hiến 

17. Go-li-át thách thức quân đội Ít-ra-en - Ông Đa-vít đến trại - Ông Đa-vít tình nguyện nhận lời thách thức - Cuộc chiến tay đôi - Sau khi chiến thắng, Đa-vít ra trình diện vua Sa-un

2. Bài ca của bà An-na - Các con trai ông Ê-li - Ông Sa-mu-en tại Si-lô - Lại nói về các con ông Ê-li - Báo trước hình phạt

18. Vua Sa-un bắt đầu ghen tị - Ông Đa-vít cưới vợ

3.  Thiên Chúa gọi ông Sa-mu-en

19. Ông Giô-na-than can thiệp cho ông Đa-vít - Vua Sa-un toan sát hại ông Đa-vít - Bà Mi-khan cứu ông Đa-vít - Vua Sa-un đến tìm ông Đa-vít tại nhà ông Sa-mu-en

4. Ít-ra-en bị đánh bại và Hòm Bia bị chiếm đoạt - Ông Ê-li qua đời - Vợ Pin-khát chết

20. Ông Giô-na-than giúp ông Đa-vít trốn thoát

5. Người Phi-li-tinh gặp rủi ro vì Hòm Bia

21. Ông Đa-vít dừng lại ở Nốp - Ông Đa-vít đến với người Phi-li-tinh

6. Trả lại Hòm Bia - Hòm Bia tại Bết Se-mét - Hòm Bia tại Kia-giát Giơ-a-rim

22. Ông Đa-vít bắt đầu cuộc sống nay đây mai đó - Các tư tế thành Nốp bị tàn sát

7. Ông Sa-mu-en làm thủ lãnh và cứu dân

23. Ông Đa-vít đến Cơ-i-la - Ông Đa-vít thoát tay vua Sa-un

8. THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ QUÂN CHỦ - Dân xin một vua - Những bất tiện của chế độ quân chủ

24. Ông Đa-vít tha chết cho vua Sa-un

9. Ông Sa-un đi tìm lừa của cha - Ông Sa-un gặp ông Sa-mu-en - Ông Sa-un được xức dầu phong vương

25. Ông Sa-mu-en qua đời - Ông Đa-vít lên đường và xuống sa mạc Pa-ran.

10. Ông Sa-un trở về - Ông Sa-un trúng thăm làm vua

26. Ông Đa-vít tha chết cho vua Sa-un

11. Thắng người Am-mon - Ông Sa-un được tôn làm vua

27. Ông Đa-vít trốn đi Gát - Ông Đa-vít làm chư hầu người Phi-li-tinh

12. Ông Sa-mu-en nhường chỗ cho ông Sa-un

28. Người Phi-li-tinh đi đánh Ít-ra-en - Vua Sa-un và bà đồng bóng tại Ên Đo

13. NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA TRIỀU ĐẠI SA-UN - Nổi dậy chống người Phi-li-tinh - Ông Sa-mu-en đoạn giao với vua Sa-un - Chuẩn bị giao chiến

29. Các người chỉ huy Phi-li-tinh cho ông Đa-vít về

14. Ông Giô-na-than tấn công đồn Phi-li-tinh - Cuộc chiến lan rộng - Cuộc giao tranh vượt quá Bết A-ven - Dân phạm lỗi về nghi thức - Ông Giô-na-than có lỗi nhưng được dân cứu - Tóm tắt về triều đại vua Sa-un

30. Ông Đa-vít tiến đánh người A-ma-lếch

15. Thánh chiến chống người A-ma-lếch - Vua Sa-un bị ĐỨC CHÚA từ bỏ - Vua Sa-un xin tha thứ nhưng không được - Vua A-gác bị giết. Ông Sa-mu-en ra đi

31. Trận Ghin-bô-a. Vua Sa-un tử trận.

16. ÔNG ĐA-VÍT TRONG TRIỀU ĐÌNH - Ông Đa-vít được xức dầu phong vương - Ông Đa-vít vào phục vụ vua Sa-un

 

  b. Nhân vật

Ba nhân vật chính trong sách: Sa-mu-en và hai vị vua đầu tiên trong lịch sử Ít-ra-en: Sa-un và Đavít. Những bài tường thuật về việc sinh hạ Sa-mu-en cũng như các nhân vật khác cho thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử để cứu độ dân. Sa-un là vị vua đầu tiên trong lịch sử Ít-ra-en. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn nhưng sau đó lại bị ruồng bỏ vì không trung thành. Sự nghiệp của Sa-un kết thúc trong cuộc chiến chống lại người Philitinh (1Sm 31). Đavít được phong vương từ rất sớm (1Sm 16) nhưng ông phải trải qua nhiều thử thách và đau khổ mới thực sự nắm trọn vương quyền. Ông được xem như vị minh quân mẫu mực của dân Ít-ra-en và cuộc đời ông chất chứa nhiều bài học sống động cho đời sống đức tin của ta. 

  c. Dàn bài tổng quát

Phần I (1Sm 1-3): Sa-mu-en và nhà Ê-li

Phần II (1Sm 4-7): Hòm bia Giao ước

Phần III (1Sm 8-15): Vua Sa-un

Phần IV (1Sm 16-31): Sa-un và Đavít

Phần V (2 Sm 1-8): Chiến đấu giành vương quốc

Phần VI (2 Sm 9-20): Vua Đavít

Phần VII (2Sm 21-24): Phụ lục

2. Chương 1-15

 a. Sinh hạ Sa-mu-en

Trong lời cầu của bà An-na (1,9-19a), bà hứa với Chúa là nếu bà sinh con trai, bà sẽ dâng con cho Chúa như một na-dia (nazir) (x. Ds 6). Sam-sôn (Tl 13-16) cũng có lời khấn na-dia nhưng do sứ thần đòi hỏi chứ không do mẹ ông hứa. Tên của Sa-mu-en có nghĩa là “người đến từ Thiên Chúa.” Tên gọi này vừa nói lên sự đáp trả của Thiên Chúa trước lời khấn xin tha thiết của bà mẹ vừa cho thấy sứ mạng của Sa-mu-en. Bài ca tạ ơn của bà An-na (2,1-10) tương đương với Kinh Ngợi Khen của Mẹ Maria (Lc 1,46-55). Cả hai bài ca đều diễn tả niềm vui khi sinh con, đều chúc tụng quyền năng Thiên Chúa, đều nói đến việc hạ bệ kẻ giàu có và nâng cao người nghèo khó.

  b. Ơn gọi của Sa-mu-en

Hình ảnh thầy cả Ê-li với cặp mắt đã mờ (3,2) diễn tả đời sống đức tin của Ít-ra-en lúc đó: ngọn đèn của Chúa, tức là Lời Chúa, đã bị dập tắt vì lối sống buông thả của hàng tư tế. Thiên Chúa lên tiếng gọi Sa-mu-en nhưng cậu bé chỉ nhận ra tiếng Chúa gọi nhờ sự hướng dẫn của thầy cả Ê-li. Sự kiện này cho thấy tầm quan trọng của việc phân định thiêng liêng trong đời sống đức tin của ta. “Này con đây”: lời đáp trả của Sa-mu-en gợi nhớ lời đáp trả của Áp-ra-ham khi Chúa gọi ông hiến dâng I-xa-ác (St 22,1-12). Thái độ sẵn sàng của Sa-mu-en tương phản với sự trì trệ của hàng tư tế không muốn lắng nghe Lời Chúa (2,25). Sa-mu-en là vị tư tế trung tín, được Chúa chọn để thay thế cho hàng tư tế bất trung.

 c. Sa-mu-en thi hành sứ vụ

Tại Mizpah, dân Ít-ra-en cử hành sám hối gồm việc đổ nước, ăn chay, và xưng thú tội lỗi. Sa-mu-en chính thức thi hành sứ vụ. Việc Samuel dựng bàn thờ kính Chúa nằm trong truyền thống lâu đời của Nô-ê (St 8,20), Áp-ra-ham (St 12,7; 22,9), I-xa-ác (St 26,25), Gia-cóp (St 35,7), Môsê (Xh 17,15)... Sa-mu-en là khuôn mặt duy nhất trong Thánh Kinh vừa là tư tế vừa là tiên tri và thẩm phán (thủ lãnh). Từ sau thời của ông, ơn gọi tiên tri và tư tế bắt đầu tách rời ra.

2. Đavít được xức Dầu Phong Vương 16-31  

  a. Cách thế tuyển chọn của Thiên Chúa

Sa-mu-en được Thiên Chúa sai đến xức dầu phong vương cho một người con trai của ông Giê-sê. Thế nhưng, những người mà Sa-mu-en nghĩ rằng Chúa sẽ chọn lại không phải là người Chúa muốn. Và Người phán: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (16,7).

   b. Học cách nhìn của Chúa

Ở mọi thời đại, cách riêng trong thời đại ngày nay, người ta chú trọng rất nhiều đến dáng vẻ bên ngoài: trong sản xuất kinh doanh, trong việc đánh giá con người, kể cả trong đường hướng giáo dục, ví dụ chủ nghĩa thành tích dẫn đến bao nhiêu gian dối trong môi trường học đường. Càng sống trong một môi trường như thế, người Kitô hữu càng cần phải tập sống chiều sâu nội tâm, trau dồi con người bên trong, hơn là chỉ quan tâm đến những hình thức bên ngoài.

c.     Đavít chiến đấu chống Go-li-át (đọc 17, 40-47)

Nhìn từ bên ngoài, cuộc chiến giữa Đavít và Go-li-át quả là cuộc chiến không cân sức. Tương tự như thế là cuộc chiến giữa Giáo Hội và thế gian. Thế nhưng trong cuộc chiến khốc liệt đó, Đavít đã chiến thắng. Vậy bí quyết chiến thắng của Đavít ở đâu? Lời tuyên bố của Đavít đã nói lên tất cả, “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mày thách thức” (17,47). Cũng thế, trong cuộc chiến đấu với thế gian, khi nào Giáo Hội chỉ tìm nương tựa vào sức mạnh quân sự hay kinh tế của người đời, Giáo Hội sẽ thất bại. Ngược lại, khi Giáo Hội thực sự nương tựa vào Chúa thì Giáo Hội sẽ chiến thắng. Đó không phải là chiến thắng theo nghĩa lợi lộc cá nhân nhưng là chiến thắng của tình yêu và chân lý. Mỗi Kitô hữu cũng cần ghi nhớ bài học này cho đời sống thiêng liêng của mình, nhất là khi phải chiến đấu chống lại tội lỗi.

 d. Vua Sa-un và tính ghen tị

Sau khi Đavít chiến thắng tên Philitinh, dân chúng hò reo ca tụng Đavít, và Sách Thánh ghi nhận rằng “Từ ngày đó về sau, vua Sa-un nhìn Đavít với con mắt ghen tị” (18, 6-9). Sự ghen tị đó đã thúc đẩy Sa-un nhiều lần tìm cách giết Đavít (x. 18, 10-12; 19,8-10).

Nguồn gốc của sự ghen tị là tính ích kỷ, không nhìn thấy ích chung, chỉ thấy quyền lợi và địa vị của mình. Từ đó, tìm cách hạ thấp thành công của người khác và vui mừng trước thất bại của người khác. Khi không kềm chế được, sự ghen tị còn có thể dẫn người ta đến chỗ phạm nhiều tội ác khác. Ghen tị là một thói xấu có mặt nơi mỗi người và có thể gây nhiều tác hại cho đời sống chung cũng như công việc chung, kể cả việc tông đồ. Điều quan trọng là phải ý thức và cố gắng vượt qua. Để chữa trị thứ bệnh phổ biến này, cần tập nhìn vào ích chung và chương trình của Chúa hơn là chỉ nghĩ đến quyền lợi và sở thích riêng của mình. Nếu ta thực sự tha thiết với công trình của Chúa và ích lợi chung của mọi người, ta sẽ vui mừng đón nhận và cộng tác với bất cứ ai phục vụ ích lợi chung và công trình của Chúa.

  e. Sự quảng đại của Đavít

Đối lại sự ghen tị của Sa-un, Sách Thánh làm nổi bật lòng quảng đại của Đavít. Đavít đã sẵn lòng tha thứ cho kẻ làm hại mình (24,1-8). Động lực của lòng quảng đại này không chỉ là những lý do tự nhiên nhưng sâu xa hơn, chính là tầm nhìn đức tin của Đavít. Ông nhìn Sa-un là người được Chúa xức dầu, và vì thế không thể ra tay sát hại (24,7). Tấm gương của Đavít làm nổi bật lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Hãy để Chúa xét xử mỗi người theo việc họ làm. Hãy tập đặt mình vào hoàn cảnh người khác để có thể cảm thông và chia sẻ hơn là lên án và trả thù.

 

CUỐN SÁCH 10

SÁCH SA-MU-EN II (2Sm)

Chương

Chương

1. Ông Đa-vít nghe tin vua Sa-un chết - Ông Đa-vít làm văn tế khóc vua Sa-un và ông Giô-na-than

13. Am-nôn làm nhục em gái là Ta-ma - Áp-sa-lôm ám sát Am-nôn rồi trốn đi - Ông Giô-áp điều đình cho Áp-sa-lôm trở về

2. Ông Đa-vít được xức dầu phong vương tại Khép-rôn - Vua Đa-vít sai sứ giả đi Gia-vết - Ông Áp-ne tôn ông Ít-bô-sét làm vua Ít-ra-en - Giu-đa và Ít-ra-en giao chiến. Trận Ghíp-ôn.

14. Một vài chi tiết về Áp-sa-lôm - Áp-sa-lôm được tha thứ

3. Các con vua Đa-vít sinh ra tại Khép-rôn - Ông Áp-ne đoạn giao với vua Ít-bô-sét - Ông Áp-ne điều đình với vua Đa-vít - Ông Áp-ne bị giết

15. Thủ đoạn của Áp-sa-lôm - Áp-sa-lôm làm loạn - Vua Đa-vít chạy trốn - Hòm Bia ở lại Giê-ru-sa-lem - Vua Đa-vít nhờ ông Khu-sai giúp

4. Vua Ít-bô-sét bị giết

16. Vua Đa-vít và ông Xi-va - Sim-y nguyền rủa vua Đa-vít - Ông Khu-sai đến với Áp-sa-lôm - Áp-sa-lôm và các tỳ thiếp của vua Đa-vít

5. Vua Đa-vít được xức dầu tấn phong làm vua Ít-ra- - Chiếm Giê-ru-sa-lem - Các con vua Đa-vít sinh ra tại Giê-ru-sa-lem - Chiến thắng quân Phi-li-tinh

17. Ông Khu-sai làm hỏng kế hoạch của A-khi-thô-phen - Được tin báo, vua Đa-vít qua sông Gio-đan - Áp-sa-lôm qua sông Gio-đan. Vua Đa-vít tại Ma-kha-na-gim.

6. Rước Hòm Bia về Giê-ru-sa-lem

18. Phe Áp-sa-lôm bại trận - Áp-sa-lôm chết - Vua Đa-vít được tin Áp-sa-lôm chết

7. Lời sấm của ông Na-than - Vua Đa-vít cầu nguyện

19. Vua Đa-vít khóc con - Chuẩn bị đưa vua Đa-vít trở về - Trên đường về. Sim-y đón vua Đa-vít - Ông Mơ-phi-bô-sét - Ông Bác-di-lai - Giu-đa và Ít-ra-en tranh nhau đón vua

8. Các cuộc chiến tranh thời vua Đa-vít - Việc cai trị vương quốc

20. Se-va làm loạn - Ông A-ma-xa bị giết - Cuộc nổi loạn chấm dứt - Các quan trong triều vua Đa-vít

9. Vua Đa-vít xử tốt với con trai ông Giô-na-than

21. Nạn đói. Dòng dõi vua Sa-un bị xử tử Các anh hùng trong cuộc chiến chống người Phi-li-tinh

10. Người Am-mon làm nhục sứ giả vua Đa-vít - Chiến dịch thứ nhất đánh người Am-mon - Thắng quân A-ram

22. Thánh vịnh của vua Đa-vít

11. Chiến dịch thứ hai đánh người Am-mon. Vua Đa-vít phạm tội.

23. Những lời cuối cùng của vua Đa-vít - Các dũng sĩ của vua Đa-vít

12. Ngôn sứ Na-than trách vua Đa-vít. Vua hối hận - Con bà Bát Se-va chết. Vua Sa-lô-môn chào đời - Hạ thành Ráp-ba

24. Cuộc điều tra dân số - Bệnh dịch. Thiên Chúa tha thứ - Vua Đa-vít dựng bàn thờ

1. Chương 1-12

    a. Thánh thiện và tội lỗi 

Vua Đavít được gọi là vua thánh Đavít nhưng trong thân phận con người, nhà vua cũng đã phạm những lầm lỗi nặng nề. Trình thuật Thánh Kinh về tội của Đavít soi sáng cho ta nhiều điều về ý nghĩa của tội lỗi cũng như đưa ra những cảnh giác cụ thể về mối nguy hiểm của tội. 

    b. Sự kiện tội lỗi (11,1-5) 

Vua Đavít say mê bà Bát-se-va, vợ của tướng U-ri-gia, và tìm cách chiếm đoạt bà: “Vua sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô uế. Rồi nàng trở về nhà. Nàng đã thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua Đa-vít rằng: “Tôi có thai.”

  c. Sự tàn phá của tội (11,6-26) 

Tội này lôi kéo theo tội khác. Khi nghe tin Bát-se-va đã có thai, nhà vua phải tìm cách che giấu tội lỗi của mình. Trước hết, vua cho gọi U-ri-gia, chồng bà về gặp vua, rồi ra lệnh cho ông về nhà nghỉ ngơi. Nếu U-ri-gia về thăm gia đình và sau đó bà Bát-se-va có thai, âu cũng là chuyện bình thường. Nhưng “U-ri-gia nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình,” và lý do ông đưa ra thật đáng khâm phục, “Hòm Bia cũng như Ít-ra-en và Giu-đa đang ở lều, chủ tướng tôi là ông Giô-áp và các bề tôi của chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao?” (11,11). Nhưng vua Đavít phải tìm mọi cách che giấu tội lỗi của mình nên khi sử dụng trò gian dối không thành, nhà vua phải dùng đến thủ đoạn tàn ác nhất. Ông viết thư cho tướng Giô-áp, căn dặn rằng: “Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết” (11,15). Oái ăm thay, chính U-ri-gia lại là người cầm bản án tử cho mình để nộp cho Giô-áp(11,14). Và Đavít đã toại nguyện. Bà Bát-se-va làm tang lễ cho chồng, sau đó vua Đavít đón bà về làm vợ mình (11,23-27).  Như thế, trong trường hợp của vua Đavít, gian dâm dẫn đến gian dối rồi dẫn đến sát nhân. Tội này kéo theo tội khác. Đây cũng là thực tế trong đời sống mỗi người, có điều nhiều khi ta không đủ can đảm và khiêm tốn nhận ra sự thật này. Và vì không thấy đúng sự thật nên không thấy rõ sự tàn phá của tội, cũng không đủ quyết tâm để xa tránh tội. 

    d. Dịp tội 

Khi mô tả tội của Đavít, Sách Thánh ghi nhận, “Vào một buổi chiều, vua Đavít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng có nhan sắc tuyệt vời” (11,2). Sau đó nhà vua cho vời người phụ nữ đó vào cung. Như thế, tội của Đavít khơi nguồn từ chỗ “nhìn thấy người phụ nữ đang tắm”. Giác quan là cánh cửa cho tâm hồn mở ra với thế giới bên ngoài, nhờ đó nhận biết thế giới, thiết lập tương giao, và làm cho đời sống thêm phong phú. Chính vì thế, bị mất đi một giác quan, vd. khiếm thị hay khiếm thính, đều làm cho cuộc sống trở thành nghèo nàn và khó khăn hơn. Tuy nhiên thế giới giác quan cũng có thể trở thành cửa ngõ cho những ham muốn tội lỗi. Vì thế, các nhà đạo đức mới nói đến việc canh chừng ngũ quan. Xa hơn, phải nói đến những dịp tội. Không phải vô lý khi trong kinh ăn năn tội, người Công giáo nói đến quyết tâm xa tránh dịp tội, vì bất cứ tội nào ta phạm cũng đều có dịp của nó. Không xa tránh dịp tội, sẽ khó lòng tránh được chính tội lỗi. Một người nghiện rượu sẽ khó tránh được chuyện uống rượu nếu hẹn hò với bạn bè trong quán nhậu. Hai bạn trẻ sẽ khó tránh được quan hệ xác thịt khi hẹn nhau nơi tăm tối và kín đáo. Quyết tâm không chỉ là những ý hướng tốt chung chung, nhưng một quyết tâm chân thành hàm chứa nỗ lực xa tránh dịp tội, nhờ đó có thể giữ mình khỏi tội lỗi. 

Vua Đavít được gọi là vua thánh, và quả thật, cuộc đời ông là tấm gương sáng cho các nhà lãnh đạo cũng như cho từng người tín hữu về nhiều phương diện. Thế nhưng con người tốt lành đó cũng đã có những giây phút sa ngã trầm trọng, từ một đam mê nhất thời dẫn đến nhiều hậu quả trầm trọng. Âu cũng là lời nhắc nhớ cho ta về sự thật hiển nhiên mà Chúa Giêsu đã dạy, “Tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41). Ý thức đó sẽ giúp ta khiêm tốn hơn, nhờ đó biết cảnh giác trước những cám dỗ trong đời sống đức tin. 

 2. Chương 13-24

   a. Biết mình: khởi điểm của hành trình sám hối (12,1-15)

Đavít phạm tội và tìm cách che giấu tội lỗi. Có lẽ ông đã thành công vì âm mưu của ông khéo léo quá và vì ông là vua nên không ai dám đụng tới. Nhưng hành động của ông không thể qua mắt Thiên Chúa (11,27). Ngài sai tiên tri Na-than đến để giúp Đavít nhận ra sự thật mà ông đang tìm cách che giấu. “Bạn hãy biết chính mình”. Người Hi Lạp coi đây là khởi điểm của triết học, và thực sự đây là chân lý căn bản nhất trong đời người nhưng cũng lại là chân lý bị lãng quên nhiều nhất. Đavít cũng không dễ dàng nhận ra sự thật về chính mình. Ông vẫn tỏ ra là một vị minh quân sáng suốt và đầy tình nhân ái. Vì thế khi nghe tiên tri Na-than kể chuyện về một người giàu có đã ức hiếp người nghèo đến độ bắt cả con chiên duy nhất của người nghèo mà làm tiệc đãi khách của mình, Đavít đã hùng hồn tuyên bố, “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết” (12,5). Nhưng trong khi ông sáng suốt nhận diện sự bất công mà tên nhà giàu gây ra cho đồng loại, thì ông vẫn không nhận ra sự bất công trầm trọng chính ông đã gây ra. Trong khi ông hùng hồn lên án tên nhà giàu, ông không biết rằng ông đang tuyên án chính mình! Chỉ đến khi tiên tri Na-than thẳng thắn công bố, “Kẻ đó chính là ngài” (12,7), ông mới ngỡ ngàng. Đavít đã không thể biết mình khi chỉ dựa trên dư luận. Ông chỉ nhận ra sự thật khi đối diện với Thiên Chúa và Lời của Ngài. Cũng vậy, người Công giáo có thói quen xét mình để nhận ra sự thật về mình. Nhưng ta sẽ không nhận ra sự thật đó khi xét mình dựa vào dư luận xã hội, dựa vào sự đánh giá của người đời, hoặc tự so sánh mình với người khác. Ta chỉ có thể biết rõ về mình khi đối diện với Thiên Chúa và Lời của Ngài: “Lạy Chúa, trong ánh sáng Chúa, chúng con nhìn thấy ánh sáng”.

   b. Đền tội

Khi nghe tiên tri Na-than kể về một trường hợp bất công, Đavít đã tuyên án: “Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót” (12,6). Lời tuyên án này báo trước chính hình phạt ông phải chịu, tức là mất bốn người con. Đau đớn nhất cho Đavít là ở chỗ những cái chết này lại do chính anh em trong nhà sát hại lẫn nhau:

- 12,18: con bà Bát-se-va chết,

- 13,28: Am-nôn chết dưới tay Áp-sa-lôm,

- 18,15: Áp-sa-lom chết dưới tay quân sĩ của Đavít,

- 1V 2,24-25: A-đô-ni-gia-hu chết dưới tay Sa-lô-môn.

Theo lẽ công bằng, nếu tội lỗi đã gây ra những bất công trầm trọng cho tha nhân, thì người phạm tội cũng phải chịu hình phạt cho cân xứng. Phải chăng sự trừng phạt của Thiên Chúa cũng chỉ nhằm tái lập sự công bằng? Chắc chắn là thế nhưng còn hơn thế. Từng bước một, Thiên Chúa giúp Đavít khám phá dung nhan đích thực của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.

   c. Đỉnh cao: khám phá lòng thương xót

Áp-sa-lôm là đứa con phản loạn. Anh ta đã giết Am-nôn (13,23-29) cho dù với lý do xem ra chính đáng là để báo thù cho em gái mình đã bị Am-nôn làm nhục! Sau đó, dù đã được vua Đavít tha thứ, anh ta vẫn tìm cách tạo vây cánh (15,1-5) và làm loạn chống lại chính vua cha (15,7-12) đến độ vua Đavít phải bỏ cả hoàng cung mà chạy trốn. Áp-sa-lôm còn làm những hành vi xúc phạm trầm trọng đến cha già (16,20-22).

Dù con cái ngỗ nghịch như thế, vua Đavít vẫn một niềm tha thứ. Đavít đã chấp nhận cho Áp-sa-lôm trở về sau khi anh ta đã giết Am-môn(14,1-21). Hơn thế nữa, dù Áp-sa-lôm làm loạn khiến Đavít phải bỏ cả hoàng cung mà chạy, ông vẫn không muốn giết con. Ông yêu cầu các tướng sĩ của mình nương tay với Áp-sa-lôm (18,5). Đến khi được tin Áp-sa-lôm tử trận, không những ông không vui mừng mà còn than lan khóc lóc, đòi được chết thay cho con: “Vua Đavít run rẩy, đi lên lầu trên cửa thành và khóc. Vua vừa đi vừa nói: Áp-sa-lôm con ơi, Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay cho con!” (19,1-5).

Đây quả là đỉnh cao của câu chuyện thương tâm và cũng là đỉnh cao của tình phụ tử. Nhưng cũng chính từ kinh nghiệm làm cha như thế, vua Đavít khám phá dung nhan đích thực của Thiên Chúa là Cha. Trước kia, Đavít có lẽ chỉ thấy được một Thiên Chúa công bằng vì tuy Người tha thứ nhưng vẫn bắt đền tội nặng nề cho xứng với tội nhà vua đã phạm. Thế nhưng kinh nghiệm ông có trước cái chết của Áp-sa-lôm đã giúp ông khám phá dung mạo đích thực của Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Mặc cho ông ngỗ nghịch đến đâu, mặc cho ông tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn một niềm thương xót. Tình thương của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi con người đã phạm. Và đối với người Kitô hữu, kinh nghiệm này lại chẳng trở thành chân lý sống động nơi thập giá Chúa Giêsu đó sao? Ở đó, Thiên Chúa không chỉ nói, “Con ơi, phải chi Cha chết thay cho con,” nhưng là “Này đây, Cha chấp nhận chết thay cho con.” Bạn có cảm nhận được điều đó khi chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh?

 

 

 

 

 

 

 

CUỐN SÁCH 11

SÁCH CÁC VUA I (1V)

 

1. Tổng quát 

Sách Các Vua 1 & 2 ghi lại những diễn tiến trong lịch sử Ít-ra-en từ cuối triều đại Đavít đến biến cố Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, tổng cộng khoảng 410 năm. Sách Các Vua 1 gồm có 22 chương. Có thể trình bày lược đồ tổng quát của sách như sau:

  - 1V chương 1-2 : Những ngày cuối đời của vua Đavít

  - 1V chương 3-10 : Thời cực thịnh của vua Sa-lô-môn

  - 1V chương 11 : Vua Sa-lô-môn suy tàn Sa-lô-môn

  - 1V chương 12-13 : Đất nước phân chia

  - 1V chương 14-22 :Vương quốc Giuđa (Nam) và Ít-ra-en (Bắc)

Sách Các Vua ghi lại những sự kiện lịch sử nhưng lại trình bày những sự kiện đó từ quan điểm tôn giáo. Bao lâu dân Ít-ra-en thờ phượng Thiên Chúa của giao ước thì bấy lâu họ sẽ được hưởng an bình thịnh vượng. Trong thực tế, dân Israel đã gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên và chạy theo các ngẫu tượng ngoại giáo, đặc biệt là thần Ba-an của dân Canaan. Chính vì thế, Thiên Chúa đã thiết lập các tiên tri để họ kêu gọi dân trở về với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.

Thời các vua là giai đoạn quan trọng nhất trong lịch sử thánh, cũng là thời kỳ được biết đến một cách chính xác nhất. Khởi đầu  hai quyển Sách Các Vua chỉ là một. Tác phẩm này là thành quả sự suy niệm của các ngôn sứ và công việc biên soạn được hoàn tất trong thời lưu đầy ở Ba-by-lon (Dẫn nhập sách Các Vua, Thánh Kinh Cựu Ước & Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).

Chương

Chương

1. Tuổi già của vua Đa-vít và những âm mưu của A-đô-ni-gia-hu - Âm mưu của ông Na-than và bà Bát Se-va - A-đô-ni-gia-hu khiếp sợ

12. CUỘC LY KHAI VỀ CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO - Đại hội tại Si-khem - Ly khai về chính trị - Ly khai về tôn giáo

2. Di chúc của vua Đa-vít - Ông A-đô-ni-gia-hu bị giết - Số phận ông Ép-gia-tha và ông Giô-áp- Sim-y thất lời và bị giết -

13. Kết án bàn thờ tại Bết Ên - Người của Thiên Chúa và vị ngôn sứ -

3. SA-LÔ-MÔN, CON NGƯỜI KHÔN NGOAN - Tiểu dẫn - Giấc mộng ở Ghíp-ôn - Vua Sa-lô-môn xử kiện

14. LỊCH SỬ HAI VƯƠNG QUỐC CHO TỚI THỜI NGÔN SỨ Ê-LI-A - Giai đoạn kế tiếp triều đại vua Gia-róp-am I

4. Các viên chức cao cấp của vua Sa-lô-môn

15. Triều đại vua A-vi-giam tại Giu-đa - Triều đại vua A-xa tại Giu-đa - Triều đại vua Na-đáp tại Ít-ra-en - Triều đại vua Ba-sa tại Ít-ra-en

5. Danh tiếng vua Sa-lô-môn - Chuẩn bị xây Đền Thờ

16. Triều đại vua Ê-la tại Ít-ra-en - Triều đại vua Dim-ri tại Ít-ra-en - Triều đại Om-ri tại Ít-ra-en - Dẫn vào triều đại vua A-kháp

6. Xây cất Đền Thờ - Trần thiết bên trong - Nơi Cực Thánh - Các Kê-ru-bim

17. TRUYỆN NGÔN SỨ Ê-LI-A -CƠN ĐẠI HẠN -  Báo trước tai ương

7. Cung điện vua Sa-lô-môn - Ông thợ đồng Khi-ram - Các trụ đồng - Giàn lăn và bồn nước bằng đồng

18. Cuộc gặp gỡ giữa ông Ê-li-a và ông Ô-vát-gia-hu - Ngôn sứ Ê-li-a và vua A-kháp - Hy lễ trên núi Các-men - Thời đại hạn chấm dứt

8. Di chuyển Hòm Bia Giao Ước - Thiên Chúa ngự xuống Đền Thờ - Vua Sa-lô-môn cầu nguyện - Cầu cho dân - Kết thúc lời nguyện - Chúc lành cho dân

19. NGÔN SỨ Ê-LI-A TẠI KHÔ-RẾP - Trên đường lên núi Khô-rếp - Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa - Ê-li-sa được gọi

9. Thiên Chúa lại hiện ra với vua Sa-lô-môn - Buôn bán với vua Khi-ram - Dân công để xây cất - Phục vụ Đền Thờ - Vua Sa-lô-môn, người tổ chức thương thuyền

20. CÁC CUỘC CHIẾN VỚI NGƯỜI A-RAM - Vây hãm Sa-ma-ri - Chiến thắng của Ít-ra-en - Chiến thắng tại A-phếch - Một ngôn sứ lên án cách cư xử của vua A-kháp

10. Cuộc viếng thăm của nữ hoàng Sơ-va - Sự giàu sang của vua Sa-lô-môn - Xa mã của vua Sa-lô-môn

21. VƯỜN NHO CỦA ÔNG NA-VỐT - Ông Na-vốt từ chối, không chịu nhượng vườn nho của mình - Ông Na-vốt bị giết - Ngôn sứ Ê-li-a tuyên cáo án lệnh của Thiên Chúa - Vua A-kháp hối hận

11. Các hậu phi của vua Sa-lô-môn - Cuộc nổi dậy của Gia-róp-am

22. Vua A-kháp quyết định tấn công Ra-mốt Ga-la-át - Các ngôn sứ tiên báo thành công - Ngôn sứ Mi-kha-giơ-hu báo trước cuộc thất trận - Vua A-kháp tử trận tại Ra-mốt Ga-la-át - Kết thúc triều vua A-kháp - Triều đại vua Giơ-hô-sa-phát ở Giu-đa – A-khát-gia-hu vua Ít-ra-en và ngôn sứ Ê-li-a.

2. Chương 1-11

 a. Lời cầu xin của Sa-lô-môn (1V 3,4-15)

Sa-lô-môn được xức dầu tấn phong làm vua vào năm 970 trước Công nguyên. Khi lên ngôi vua, ông đã cầu xin Chúa “ban cho ông một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và biết phân biệt phải trái” (3,9). Lời cầu xin của ông đẹp lòng Thiên Chúa, và Ngài đã ban cho ông sự minh triết khiến ông nổi tiếng là khôn ngoan và được coi như hình mẫu của sự khôn ngoan trong lịch sử dân Ít-ra-en. Lời cầu xin của Sa-lô-môn đẹp lòng Chúa vì ông không cầu xin cho cá nhân ông nhưng chỉ nhằm phục vụ Dân Chúa. Lời cầu xin đó phát xuất từ tâm hồn khiêm tốn, ý thức rằng sẽ không thể chu toàn trách nhiệm lớn lao được trao phó nếu không có ơn Chúa phù trì. Lời cầu xin đó cũng cho thấy tầm quan trọng của sự lắng nghe, lắng nghe tiếng Chúa và lắng nghe tiếng dân, vì nếu không lắng nghe thì sẽ không nhận ra sự thật và không thể đáp trả những nguyện vọng của Dân Chúa. Điều đáng tiếc là Sa-lô-môn đã không trung thành mãi với ý nguyện ban đầu. Ông đã không còn lắng nghe tiếng Chúa, cũng chẳng nghe tiếng than thở của dân (chương 9), càng ngày càng sa đà vào lối sống của dân ngoại, và vì thế đưa đất nước đến chỗ suy vong.

Lời cầu xin của Sa-lô-môn có giúp bạn nhìn lại việc cầu nguyện của bạn không? Bạn có ý thức rằng việc quan trọng nhất khi cầu nguyện không phải là nói mà là lắng nghe? Bạn có thái độ lắng nghe tâm tư của người khác hay chỉ muốn người khác lắng nghe nỗi lòng của mình?

 b. Xây dựng đền thờ (chương 5-11)

Vua Đavít ước mong xây dựng Đền thờ Sa-lô-môn kính Đức Chúa, nhưng ước nguyện này chỉ được hoàn thành dưới triều Sa-lô-môn. Vào năm thứ tư triều đại của ông, Sa-lô-môn đã bắt đầu công trình xây dựng đền thờ, và sau bảy năm, công trình được hoàn thành (chương 6). Sau khi hoàn thành, nhà vua đã cho kiệu Hòm Bia của Đức Chúa vào Đền thờ, và vinh quang Đức Chúa tràn ngập Đền thờ. Trong dịp này, vua Sa-lô-môn đã thưa lên Chúa những lời thật sâu sắc, “Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây?” (8,29).

Quả thật, Thiên Chúa chẳng lệ thuộc vào một ngôi nhà bằng gạch đá. Ngài chỉ hiện diện ở đó vì tình thương đối với Dân Ngài. Khi dân không còn trung tín nữa thì ngay cả sự hiện diện của Đền thờ cũng không cần thiết! Sách Các Vua đã kết thúc với sự kiện bi đát là Đền thờ bị phá huỷ và dân bị đem đi lưu đày. Chính Chúa đã cảnh báo Sa-lô-môn từ trước, “Nếu ngươi và con cháu các ngươi tráo trở bỏ đường lối Ta…. Thì Ta sẽ tiêu diệt Ít-ra-en khỏi phần đất Ta đã ban cho chúng. Còn Đền thờ Ta đã thánh hoá để kính Danh Ta, Ta sẽ loại trừ khỏi nhan Ta, và Israel trở thành bia miệng cho mọi dân tộc đàm tiếu” (9,2).

Những điều này lại chẳng giúp chúng ta suy nghĩ về nhà thờ của ta và về việc thờ phượng ngày nay sao? Những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ của ta có đi đôi với đời sống thờ phượng chân thành và đời sống luân lý tốt đẹp không?

3. Chương 12-22

 a. Chính trị và Tôn giáo

Sau cuộc ly khai về chính trị, Gia-róp-am làm vua toàn Ít-ra-en, chỉ còn Giuđa theo nhà Đavít (12,20). Gia-róp-am quyết định đặt 2 bò mộng bằng vàng ở Bết-ên và Đan nhằm mục đích chính trị là để dân khỏi phải lên Giêrusalem để làm việc thờ phượng, và như thế ông giữ dân ở lại với mình (12,26-33). Như thế, tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho ý đồ chính trị. Đây là điều tái diễn thường xuyên trong lịch sử nhân loại. Hãy thử nhớ lại tôn giáo thờ hoàng đế trong đế quốc Roma. Hãy thử nhớ đến chính sách trong các chế độ độc tài khi người ta tìm cách thần thánh hoá một con người để thay thế Thiên Chúa đích thực, hoặc sử dụng tôn giáo như công cụ cho ý đồ chính trị của mình. Thiên Chúa không còn là Đấng được tôn thờ nhưng chỉ là phương tiện phục vụ những tính toán quyền lực của con người. Đương nhiên Thiên Chúa không thể chấp nhận điều đó (13, 1-5), và Hội Thánh phải luôn luôn cảnh giác trước nguy cơ này.

 b. Trung thành với Lời Chúa

Sách 1V 13,11-32 kể lại một câu chuyện thật khó hiểu. Người của Thiên Chúa đã trung thành với Lời Chúa đến nỗi khước từ lời mời của nhà vua, thế rồi một người khác cũng tự xưng là tiên tri đã đến khuyến dụ và người của Thiên Chúa đã nghe theo. Cũng vì thế mà ông phải chịu hình phạt khủng khiếp là bị sư tử vồ. Tại sao Thiên Chúa lại khó khăn và độc ác như thế? Người ta bị lừa dối chứ đâu phải cố tình làm trái mà bị Thiên Chúa trừng phạt? Ta có thể nêu lên những câu hỏi tương tự, tuy nhiên bài học cần quan tâm ở đây là sự trung thành tuyệt đối với Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh. Bài học này cần thiết cho các tín hữu ngày nay hơn bao giờ. Ngày nay ta đang đối diện với cơn cám dỗ thoả hiệp với thế gian và sự thoả hiệp này được biện minh bằng những lý do hết sức tốt đẹp. Chẳng hạn, tại sao Giáo Hội không cho phép ly dị, bắt người ta phải sống trong cảnh đau khổ mãi? Tại sao Giáo Hội không cho phép sử dụng những phương tiện ngừa thai để hạn chế sinh sản và bảo vệ hạnh phúc cho nhân loại? Tại sao Giáo Hội lại loại trừ những người đồng tính luyến ái, không biết cảm thông với họ? ... Cũng ở đây, ta mới hiểu tại sao Giáo Hội Công giáo cương quyết trong nhiều lập trường về đức tin và luân lý, là vì Giáo Hội muốn trung thành với Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, và xác tín rằng chỉ có Lời Chúa mới đem lại sự sống đích thực và vĩnh cửu cho con người.

  c. Tập trung vào tiên tri Ê-li-a

   c.1. Một vài ghi nhận về Ê-li-a

Tên gọi của tiên tri Ê-li-a có nghĩa: Gia-vê là Thiên Chúa của tôi. Ta không có đầy đủ những sử liệu về việc sinh hạ và thiếu thời của tiên tri. Tuy nhiên, ta biết chắc rằng tiên tri Ê-li-a đã hoạt động dưới thời các vua A-kháp, A-vi-gia, và Gia-róp-am  (873-843 BC). Các vua thời đó thờ phượng Thiên Chúa nhưng cũng chạy theo các thần ngoại (Ba-an và A-sê-ra) để cầu mưa nhằm làm tươi tốt đất đai. Nhiều tiên tri và tư tế khác cũng chạy theo, nhưng Ê-li-a cương quyết đòi hỏi một niềm tin trọn vẹn và tinh tuyền vào Gia-vê. Hoàng hậu I-de-ven là người Phoenician, cũng là người đỡ đầu cho những việc thờ cúng ngoại giáo này, và tiên tri Ê-li-a đã gặp nhiều khó khăn với bà hoàng hậu này.

  c.2. Lòng nhiệt thành của Ê-li-a

Sách Các Vua kể lại việc tế lễ trên núi Các-men (18, 20-40). Với con người ngày nay, có nhiều chi tiết trong câu chuyện này khó được chấp nhận, ví dụ tiên tri Ê-li-a thách đấu với các tư tế Ba-an, cuối cùng đã ra lệnh bắt và giết họ... Thiết nghĩ cần vượt lên trên những chi tiết trên để nắm bắt ý nghĩa chính của câu chuyện. Dân Chúa lúc đó là những kẻ hai lòng, đi khập khiễng (18,20-21), và tiên tri Ê-li-a đã làm mọi cách để lôi kéo mọi người về với niềm tin đích thực là niềm tin vào Thiên Chúa của giao ước. Tất cả làm nổi bật lòng nhiệt thành của vị tiên tri đối với công việc của Chúa (19,4).

Lòng nhiệt thành của tiên tri Ê-li-a chất vấn đức tin và lương tâm Kitô giáo của mỗi chúng ta. Tình trạng mà Ê-li-a gọi là khập khiễng, hai lòng, nghĩa là không toàn tâm toàn ý với Chúa, không phải là không có trong đời sống đức tin của ta. Ta cũng không dám chiến đấu cho chính nghĩa của Chúa như Ê-li-a đã chiến đấu, chủ yếu là vì sợ hãi, sợ mất quyền lợi, địa vị hay một thứ gì khác... trong khi điều đáng sợ nhất là đánh mất chính Chúa thì lại không sợ!

  c.3. Nỗi chán nản của vị tiên tri

Vì nhiệt thành với công việc Nhà Chúa, tiên tri Ê-li-a phải đối diện với mối đe doạ đến từ chính bà hoàng I-de-ven, và phải chạy trốn (19, 1-3). Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa, “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (19,4). Nỗi chán nản của Ê-li-a khiến ta nhớ đến tâm trạng của thánh Gioan Tẩy giả trong ngục thất (x. Lc 7,18-23) và của chính Chúa Giêsu trong Vườn Ghếtsêmani.

Trong đời sống đức tin, người Kitô hữu cũng có những giây phút mệt mỏi, chán nản, đôi khi ngã lòng và sinh ra nghi nan vì thấy mình phải chịu nhiều thiệt thòi trên đường theo Chúa, và dường như Chúa không hành động gì cả. Trong những giây phút đó, hãy nhớ đến Ê-li-a, Gioan Tẩy giả và chính Chúa Giêsu để gặp được ở đó những người bạn đồng hành.

 c.4. Chúa luôn đồng hành với tôi tớ Ngài

Chúa vẫn luôn đồng hành với Ê-li-a. Khi vị tiên tri mỏi mệt và chán nản, có thiên sứ đem bánh và nước đến cho ông (19, 5-8) để ông có sức đi tiếp hành trình đến núi của Thiên Chúa. Ở đó vị tiên tri đã gặp gỡ Chúa không phải trong cơn động đất kinh hoàng hay lửa cháy bừng bừng nhưng trong tiếng gió hiu hiu (19,12).

Cũng thế, Chúa không bao giờ bỏ rơi ta trong hành trình đức tin. Người luôn đồng hành với ta và ban sức mạnh cho ta. Bánh Thánh Thể chính là lương thực thần linh cho lữ khách trên đường hành hương, là nguồn sức mạnh cho người chiến sĩ trong cuộc chiến của đức tin. Hình ảnh Ê-li-a gặp gỡ Chúa trong tiếng gió hiu hiu cũng là lời mời gọi ta biết trở về trong tĩnh lặng; ở đó ta có thể gặp gỡ Chúa và lắng nghe tiếng gọi thầm kín của Người.

 

CUỐN SÁCH 12

SÁCH CÁC VUA II (2V)

Chương

Chương

1. Sau khi vua A-kháp qua đời

14. Vua A-mát-gia-hu cai trị Giu-đa - Vua Gia-róp-am II cai trị Ít-ra-en

2. Ngôn sứ Ê-li-a được đem đi. Ông Ê-li-sa thay thế - Hai phép lạ của ông Ê-li-sa

15. Vua A-dác-gia cai trị Giu-đa - Vua Mơ-na-khêm cai trị Ít-ra-en - Vua Pơ-các-gia cai trị Ít-ra-en - Vua Pe-các cai trị Ít-ra-en - Vua Giô-tham cai trị Giu-đa - Chính vua đã xây Cửa Trên của Nhà ĐỨC CHÚA.

3. CUỘC CHIẾN CHỐNG MÔ-ÁP - Thời vua Giô-ram cai trị Ít-ra-en -

16. Vua A-khát cai trị Giu-đa

4. VÀI PHÉP LẠ CỦA ÔNG Ê-LI-SA - Dầu của bà goá - Ông Ê-li-sa và mẹ con người phụ nữ Su-nêm - Nồi cháo độc

17. Vua Hô-sê cai trị Ít-ra-en - Sa-ma-ri thất thủ - Suy gẫm về vương quốc Ít-ra-en suy tàn - Nguồn gốc người Sa-ma-ri

5. Ông Na-a-man được chữa khỏi bệnh phung hủi

18. Dẫn nhập vào triều vua Khít-ki-gia - Nhắc lại chuyện Sa-ma-ri thất thủ - Cuộc xâm lăng của vua Xan-khê-ríp - Sứ mạng của quan chánh chước tửu

6. Cái rìu đã mất lại tìm thấy - Ông Ê-li-sa tóm gọn một toán quân A-ram - Nạn đói trong thành Sa-ma-ri bị bao vây - Ông Ê-li-sa báo tin cơn thử thách sắp chấm dứt

19. Cầu cứu ngôn sứ I-sai-a - Viên chánh chước tửu trở về - Ông I-sai-a can thiệp - Vua Xan-khê-ríp bại trận và chết

7. Trại quân A-ram bỏ trống - Hết cuộc bao vây và hết nạn đói

20. Vua Khít-ki-gia lâm bệnh và được khỏi - Các sứ giả của vua Mơ-rô-đác Ba-la-đan - Kết thúc triều vua Khít-ki-gia

8. Kết thúc truyện người phụ nữ Su-nêm - Ông Ê-li-sa và ông Kha-da-ên thành Đa-mát - Vua Giô-ram cai trị Giu-đa

21. HAI VUA BẤT TRUNG - Vua Mơ-na-se cai trị Giu-đa - Vua A-môn cai trị Giu-đa

9. Xức dầu phong vương cho ông Giê-hu - Ông Giê-hu được tôn làm vua - Ông Giê-hu chuẩn bị tiếm quyền - Vua Giơ-hô-ram bị sát hại - Vua A-khát-gia bị sát hại - Bà I-de-ven bị sát hại

22. VUA GIÔ-SI-GIA VỚI VIỆC CẢI CÁCH TÔN GIÁO - Dẫn nhập vào triều vua Giô-si-gia - Tìm thấy sách Luật - Thỉnh ý nữ ngôn sứ Khun-đa

10. Hoàng tộc Ít-ra en bị sát hại - Các ông hoàng Giu-đa bị hạ sát - Ông Giê-hu và ông Giơ-hô-na-đáp - Sát hại các tín đồ thần Ba-an và phá huỷ đền thờ - Ông Giê-hu làm vua Ít-ra-en

23. Đọc sách Luật - Việc cải cách tôn giáo ở Giu-đa - Việc cải cách lan rộng tới vương quốc miền Bắc

11. Truyện bà A-than-gia -

24. Dẫn vào triều vua Giơ-hô-gia-khin - Cuộc lưu đày thứ nhất

12. Vua Giô-át cai trị Giu-đa

25. Giê-ru-sa-lem bị vây hãm - Giê-ru-sa-lem bị cướp phá. Cuộc lưu đày thứ hai - Ông Gơ-đan-gia-hu, tổng trấn xứ Giu-đa - Vua Giơ-hô-gia-khin được ân xá

13. Vua Giơ-hô-a-khát cai trị Ít-ra-en - Vua Giô-át cai trị Ít-ra-en - Vua Giô-át chiến thắng quân A-ram

 

 

1. Ơn gọi của Ê-li-sê (2V 1,1-25)

Trong trình thuật về ơn gọi của Ê-li-sê, nên quan tâm đến một vài chi tiết: Áo choàng của Ê-li-a là biểu tượng quyền năng của vị tiên tri (x.2V 2, 8.14: đập áo choàng rẽ biển). Ê-li-a đã đáp lại lời mời gọi bằng cách giết bò và lấy cày làm củi. Hành động này diễn tả quyết tâm dứt khoát từ bỏ mọi sự để theo thầy. So sánh với Chúa Giêsu (đọc Lc 9, 57-62), Người còn đòi hỏi nhiều hơn đến độ “để kẻ chết chôn kẻ chết”. Chúa Giêsu không coi nhẹ quan hệ gia đình nhưng Người muốn cho thấy tính tuyệt đối của Nước Trời.

Những trình thuật trên giúp ta thấy rõ hơn đòi hỏi từ bỏ trong đời sống Kitô hữu, không chỉ trong đời tu mà đối với mọi tín hữu, mọi ơn gọi. Sự từ bỏ này không những được thể hiện trong những chọn lựa quan trọng của đời sống mà còn cần được thể hiện ngay trong những chọn lựa hằng ngày.

2. Quyền năng của Lời Thiên Chúa

 a. Ê-li-sê làm nhiều phép lạ

Tiên tri Ê-li-sê làm nhiều phép lạ: những phép lạ trên sự vật như chữa lành nước uống, lượng dầu của bà goá nghèo khổ; những phép lạ trên bệnh tật và cả thần chết. Điều cần nhấn mạnh ở đây là quyền năng của Lời Chúa, Lời chữa lành, Lời ban sự sống. Ý nghĩa này được thể hiện cách cụ thể qua phép lạ chữa lành Na-a-man.

 b. Phép lạ chữa lành Na-a-man (5,1-17)

Vua Ít-ra-en bất lực trước cơn bệnh của Na-a-man. Dù thương mến vị tướng này hết sức, nhà vua không thể giúp gì được. Như thế, quyền lực chính trị và quân sự không phải là tất cả. Rộng hơn nữa, mọi thứ quyền lực con người có trong tay đều có những giới hạn của nó. Sự giới hạn này gắn liền với chính thân phận hữu hạn của loài thụ tạo. Không biết nhìn nhận những giới hạn này là không sống đúng với sự thật về con người, và có thể dẫn đến những hành động tai hại. Thái độ của Na-a-man: Ông từ chối đi tắm ở sông Gio-đan theo yêu cầu của tiên tri Ê-li-sê vì lập luận rằng có nhiều dòng sông ở quê ông còn tốt hơn. Chính ở đây, độc giả khám phá ý nghĩa của bản văn: vấn đề không phải là dòng sông mà là lời của vị tiên tri dạy, đúng hơn là Lời Thiên Chúa phán qua miệng vị tiên tri. Chính Lời Thiên Chúa làm cho nước sông Giođan có khả năng chữa lành, chính Lời Thiên Chúa chữa lành và ban sự sống.

Những chi tiết trên giúp ta suy nghĩ về đức tin và đời sống Kitô hữu của mình. Nước sông Gio-đan là hình ảnh nước rửa tội: Bệnh phong là hình ảnh của tội lỗi (thân phận người phong trong Ít-ra-en  mô tả ý nghĩa của tội lỗi: mất hiệp thông với Thiên Chúa, với cộng đoàn, bị xa cách). Na-a-man nhờ nước sông Gio-đan mà được sạch, da thịt trở nên đẹp đẽ như da đứa trẻ. Cũng vậy, nước rửa tội ban cho ta ơn tái sinh, dẫn ta vào sự hiệp thông đã mất.

Ý nghĩa của cử hành bí tích: Trong mọi cử hành bí tích đều có Lời và chất liệu như nước, dầu, bánh... Đây chỉ là những chất liệu bình thường trong cuộc sống nhưng Lời Thiên Chúa (qua thừa tác viên) làm cho chất liệu mang nội dung mới. Cả linh mục cũng như giáo dân đều cần quan tâm đến ý nghĩa này để cử hành bí tích với ý thức đức tin, không biến bí tích thành ma thuật. Một chi tiết cần lưu ý vì có thể gây thắc mắc là câu chuyện Ê-li-sê nguyền rủa đám trẻ con khiến chúng chết. Hành động đó không phát xuất từ sự độc ác của vị tiên tri nhưng để làm nổi bật lời cảnh giác: đừng coi nhẹ lời ngôn sứ.

3. Trung tín với Lời Chúa

Tiên tri là người được Chúa sai đi để công bố Lời Chúa cho dân, vì thế các ngài nhấn mạnh rất nhiều đến việc trung tín với Lời Chúa. Có thể lấy một vài câu chuyện trong Sách Các Vua để minh hoạ.

 a. Truyện Hoàng hậu I-de-ven (1V,21)

         Vì lòng tham, vua A-kháp sử dụng mọi thủ đoạn tồi tệ nhất để chiếm đoạt vườn nho của Na-vốt. Na-vốt bị tố cáo tội phạm thượng đến Thiên Chúa và Đức Vua, và ông bị ném đá chết. Và nhà vua ung dung chiếm đoạt vườn nho của Na-vốt (1V 21, 4-15). Thế nhưng tiên tri Ê-li-sê được Chúa sai đến tuyên án lệnh của Thiên Chúa, một án lệnh khủng khiếp: “Ta sẽ giáng tai hoạ xuống trên ngươi, Ta sẽ xoá sạch hậu duệ ngươi… Chó sẽ ăn thịt I-de-ven…” (1V 21,23). Và án lệnh đã được thi hành: vì vua A-kháp bày tỏ lòng sám hối nên Chúa phán, “Vì nó đã hạ mình trước mặt Ta, nên Ta sẽ không giáng họa trong buổi sinh thời của nó, nhưng đến đời con nó, Ta sẽ giáng họa xuống nhà nó” (21,29). Nhưng bà I-de-ven đã phải chịu hình phạt như Lời Chúa phán (2V 9, 30-37).

  b.Truyện Vua A-kháp (2V1)

Nhà vua đau ốm và sai người đi thỉnh ý thần Ba-an xem có qua nổi cơn bệnh không (2V 1,2). Quả là một cử chỉ tỏ tường cho thấy nhà vua đã bỏ Chúa để tin theo các thần tượng ngoại giáo. Vì thế Chúa phán qua miệng tiên tri Ê-li-a: “Ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay sao, mà các anh lại đi thỉnh ý Ba-an… Vì thế Đức Chúa phán thế này: ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào ngươi cũng chết” (2V 1, 3-4). Và án lệnh của Thiên Chúa đã được thi hành (2V 1,17).

Hai câu truyện trên và nhiều sự kiện khác trong sách đều nhằm làm nổi bật đòi hỏi trung tín với Thiên Chúa và với giao ước. Đây không phải là lời đe doạ nhưng là lời mời gọi cho tất cả các tín hữu, để mỗi người cố gắng sống trung tín với ơn gọi đã lãnh nhận: ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi gia đình, ơn gọi linh mục tu sĩ. Cuộc sống ta sẽ chỉ có hạnh phúc thật sự sâu xa và bền vững khi sống sự trung tín này.

 

CUỐN SÁCH 13&14

SỬ BIÊN NIÊN I & II (1Sb & 2Sb)

 

1. Tổng quát

Các học giả cho rằng sách Sử biên niên I & II là sách viết lại lịch sử Ít-ra-en từ quan điểm của các tư tế thời hậu lưu đày. Các học giả cũng đồng ý rằng hai sách này được viết lịch sử trong sách Đệ Nhị Luật, và có lẽ được biên soạn sau khi những người lưu đày đã trở về Giuđa. Nói chung, sách bàn đến những vấn đề liên quan đặc biệt đến các tư tế, bao gồm việc giữ ngày sabát, những chỉ dẫn về nghi lễ, những vật dụng dùng trong Đền thờ và những điều tương tự. Tại sao sách lại nhấn mạnh những điều này? Dân được Chúa tuyển chọn, dân có Chúa là vua và là chiến binh (x. Xh 15,3,18), dân đã được lãnh nhận lời hứa về đất đai và sự sung túc mầu mỡ… dân ấy hiện nay ra sao? Thưa là một dân đã mất chủ quyền dân tộc. Những lời hứa tốt đẹp đã thuộc về quá khứ, còn hiện tại chỉ là sự thống trị của đế quốc Ba Tư. Vậy nếu có cái gì đó để dựa vào mà hy vọng cho tương lai, thì cái gì đó chỉ có thể là chính căn tính của Ít-ra-en xét như là dân của Chúa. Chính vì thế, cần nhấn mạnh đến sự hiện diện của Chúa ở giữa dân. Chính vì thế, cần nhấn mạnh đến Đền thờ cũng như các tư tế của Chúa. Hiểu như thế, sách Sử biên niên là lời an ủi và khích lệ dành cho dân: mọi sự không phải đã mất hết. Họ vẫn là dân của Chúa, và chính ở đó mà tương lai rộng mở.

Mặc dù được viết theo lịch sử trong sách Đệ nhị luật, tác giả sách Sử biên niên có những điểm nhấn khác, đặc biệt là khi nói đến các vua của Giuđa, Đavít và Sa-lô-môn được đề cao tối đa. Khi kể về Đavít, tác giả không nói đến chuyện gian dâm với bà Bát-sa-ve, không có lời tiên tri kết án vua, không có chuyện con trai phản nghịch vua cha, cũng không có âm mưu ám hại vua. Nghĩa là tác giả muốn trình bày Đavít như một vị vua lý tưởng. Về Salomon cũng thế. Không thấy tác giả nói đến việc Sa-lô-môn có 700 bà vợ ngoại giáo, từ đó dẫn đến việc thờ các thần ngoại giáo. Cũng giống như vua cha, Sa-lô-môn được trình bày như một tín hữu tuyệt đối trung thành với Thiên Chúa. Lý do là vì tác giả muốn trình bày một quá khứ thật tốt đẹp, và đó là nền tảng cho hy vọng vào tương lai. Những người dân thời hậu lưu đày cần nhìn lại quá khứ để học bài học trung tín với Thiên Chúa của giao ước.  Vì chúng ta nên cần có cái nhìn tổng quát về nội dung.

 

SỬ BIÊN NIÊN I GỒM 29 CHƯƠNG

Phần I: Các bản gia phả (1,1 – 9,34)

Phần II: Lịch sử vua Đavít (9,35 – 29,29)

SỬ BIÊN NIÊN II GỒM 36 CHƯƠNG

Phần I: Triều đại của Sa-lô-môn (1,1 – 9,31)

Phần II: Thời quân chủ trước vua Rơ-kháp-am (10,1 – 27,9)

Phần III Cuộc cải cách của A-khát và Giơ-hô-a-khát (28,1 – 36,1)

Phần IV Chấm dứt vương quốc (36,2-23)

Chương

Chương

1. DÒNG HỌ VUA ĐA-VÍT: CÁC GIA PHẢ - TỪ A-ĐAM ĐẾN ÍT-RA-EN - Gốc tích của ba nhóm

15. Chuẩn bị di chuyển - Nghi thức rước kiệu

2. Các con của ông Ít-ra-en: Rưu-vên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Ít-xa-kha, Dơ-vu-lun, Đan, Giu-se, Ben-gia-min, Náp-ta-li, Gát, A-se.

16. Các thầy Lê-vi phục vụ trước Hòm Bia -

3. NHÀ ĐA-VÍT - Các con của vua Đa-vít - Các vua Giu-đa - Hoàng tộc sau thời lưu đày

17. Lời sấm của ông Na-than - Vua Đa-vít cầu nguyện

4. CÁC CHI TỘC MIỀN NAM - Ngành ông Giu-đa. Ông Sô-van

18. Các cuộc chiến tranh thời vua Đa-vít -

5. CÁC CHI TỘC BÊN KIA SÔNG GIO-ĐAN - Ngành ông Rưu-vên - CHI TỘC LÊ-VI - Tiền bối của các thượng tế

19. Sứ giả của vua Đa-vít bị nhục mạ - Chiến dịch thứ nhất đánh người Am-mon - Thắng quân A-ram

6. Con cháu ông Lê-vi - Nơi sinh sống của con cháu A-ha-ron

20. Chiến dịch thứ hai đánh người Am-mon - Chiến công đánh bại quân Phi-li-tinh

7. CÁC CHI TỘC MIỀN BẮC - Ngành ông Ít-xa-kha - Ngành ông Ben-gia-min - Ngành ông Mơ-na-se - Ngành ông Ép-ra-im - Ngành ông A-se

21. TIẾN TỚI VIỆC XÂY ĐỀN THỜ - Thống kê dân số - Bệnh dịch. Thiên Chúa tha thứ - Dựng bàn thờ

8. Con cháu ông Ben-gia-min - Ông Sa-un và gia tộc của ông

22. Chuẩn bị xây Đền Thờ 

9. Giê-ru-sa-lem, thành của Ít-ra-en và là Thánh Đô - VUA SA-UN, NGƯỜI TIỀN NHIỆM CỦA VUA ĐA-VÍT - Lai lịch vua Sa-un

23. Chia nhóm và phân công cho các thầy Lê-vi

10. Trận Ghin-bô-a. Vua Sa-un bị tử thương -

24. Các nhóm tư tế

11. Vua Đa-vít được phong làm vua Ít-ra-en - Chiếm Giê-ru-sa-lem - Các dũng sĩ của vua Đa-vít

25. Các ca viên

12. Những người đầu tiên hợp tác với vua Đa-vít - Ông Đa-vít kết nạp và đặt họ vào cấp chỉ huy quân đội.

26. Các người giữ cửa

13. Cung nghinh Hòm Bia từ Kia-giát Giơ-a-rim về

27. Tổ chức dân sự và quân sự

14. Vua Đa-vít tại Giê-ru-sa-lem. Cung điện và con cái vua

28. Vua Đa-vít ra chỉ thị về Đền Thờ

 

29. Các của dâng cúng - Vua Đa-vít cảm tạ Thiên Chúa - Vua Sa-lô-môn lên ngôi vua Đa-vít băng hà

SỬ BIÊN NIÊN CUỐN 2

1. Vua Sa-lô-môn được ơn Khôn Ngoan

19. Cải tổ nền tư pháp

2. Những chuẩn bị cuối cùng. Ông Khu-ram thành Tia 

20. Một cuộc thánh chiến - Cuối triều vua Giơ-hô-sa-phát

3. Tiến hành công việc

21. Vua A-khát-gia, hoàng hậu A-than-gia-hu và vua Giô-át

4. Tiến hành công việc (tiếp)

22. Triều vua A-khát-gia-hu - Tội ác của bà A-than-gia-hu

5. Di chuyển Hòm Bia Giao Ước - Thiên Chúa ngự xuống Đền Thờ

23. Vua Giô-át lên ngôi. Bà A-than-gia-hu chết - Cuộc cải cách của tư tế Giơ-hô-gia-đa

6. Vua Sa-lô-môn hiệu triệu dân chúng - Cầu cho dân

24. Vua Giô-át trùng tu Đền Thờ - Sự yếu đuối của vua Giô-át. Thiên Chúa trừng phạt - Quân A-ram đã trị tội vua Giô-át

7. Lễ cung hiến - Thiên Chúa phán với vua Sa-lô-môn

25. Vua A-mát-gia-hu lên ngôi - Cuộc chiến chống Ê-đôm - Chiến tranh với Ít-ra-en - Cuối triều A-mát-gia-hu

8. Hoàn tất các công trình xây cất - Vinh quang của vua Sa-lô-môn

26. Khởi đầu triều đại vua Út-di-gia-hu - Thế lực của vua Út-di-gia-hu - Vua Út-di-gia-hu kiêu ngạo và bị trừng phạt

9. Vinh quang của vua Sa-lô-môn (tiếp)

27. Triều đại vua Giô-tham

10. NHỮNG CUỘC CẢI CÁCH ĐẦU TIÊN THỜI QUÂN CHỦ - Ly khai

28. Tổng quát về triều đại vua A-khát - Cuộc xâm lăng - Những lỗi lầm và cái chết của vua A-khát

11. Hoạt động của vua Rơ-kháp-am - Hàng tư tế về quy thuận vua Rơ-kháp-am - Gia đình vua Rơ-kháp-am

29. CÔNG CUỘC PHỤC HƯNG CỦA VUA KHÍT-KI-GIA - Thanh tẩy Đền Thờ - Dâng lễ tạ tội - Tái lập nền phụng tự

12. Vua Rơ-kháp-am bất trung với ĐỨC CHÚA

30. Họp mừng lễ Vượt Qua - Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men -

13. VUA A-VI-GIA VỚI HÀNG TƯ TẾ GIÊ-RU-SA-LEM - Chiến tranh - Vua A-vi-gia thuyết phục đối phương - Giao tranh - Cuối triều vua A-vi-gia

31. Cải tổ việc phụng tự - Chấn chỉnh hàng giáo sĩ

14. Bình an dưới thời vua A-xa - Dưới triều đại vua, xứ sở được yên hàn trong mười năm - Cuộc xâm lăng của De-rác

32. Cuộc xâm lăng của Xan-khê-ríp - Tóm tắt triều đại vua Khít-ki-gia

15. Lời kêu gọi của ông A-dác-gia-hu và cuộc cải cách

33. SỰ BẤT TRUNG CỦA CÁC VUA MƠ-NA-SE VÀ A-MÔN - Vua Mơ-na-se phá huỷ công trình của vua Khít-ki-gia - Vua Mơ-na-se trở lại

16. Cuộc chiến với Ít-ra-en - Cuối triều vua A-xa

34. CUỘC CẢI CÁCH DƯỚI TRIỀU VUA GIÔ-SI-GIA-HU - Những cuộc cải cách đầu tiên - Công trình tu bổ Đền Thờ - Tìm thấy sách Luật - Lời sấm của nữ ngôn sứ - Tái lập giao ước

17. Quyền lực vua Giơ-hô-sa-phát - Mối bận tâm đối với Lề Luật

35. Chuẩn bị lễ Vượt Qua - Đại lễ - Triều đại Giô-si-gia-hu kết thúc

18. Hiệp ước với vua A-kháp và sự can thiệp của các ngôn sứ - Cuộc giao tranh. Một ngôn sứ can thiệp

36. TÌNH HÌNH ÍT-RA-EN CUỐI THỜI QUÂN CHỦ - Vua Giơ-hô-a-khát - Vua Giơ-hô-gia-kim - Vua Xít-ki-gia-hu - Dân tộc - Sụp đổ lư đày Ba-bi-lon - Hướng về tương lai.

2. Giáo huấn

Tác giả viết lại lịch sử Ít-ra-en từ quan điểm tôn giáo: đòi hỏi phải trung thành với Giavê, với những lề luật của giao ước, với Lời Chúa được các tiên tri loan báo. Bất trung sẽ dẫn đến án phạt, và cuối cùng là Đền thờ bị phá huỷ, mất quê hương và lưu đày. Không có vị vua nào là tối cao cả. Chính Giavê là vua. Vua Đavít cũng như các vị vua kế vị ông sau này chỉ là những đại diện của Thiên Chúa mà thôi chứ không là gì khác, và một vị vua nhân loại chỉ trung thành với Chúa khi tuân giữ giao ước và lời Chúa phán qua các tiên tri. Cũng vì thế, sách nhấn mạnh đến Đền thờ hơn là nhà vua, và cho rằng vua có trách nhiệm phải sửa sang Đền thờ và canh tân đời sống thờ phượng vì Thiên Chúa ở trong Đền thờ mang thánh danh Người.

Theo tác giả, nếu không biết lịch sử, sẽ lại vướng vào những sai lầm của quá khứ. Vì thế ông viết lại lịch sử để những người sống trong hiện tại và tương lai có thể rút ra được những bài học hữu ích từ đó. Cũng vì thế, những gì tác giả trình bày là những sự kiện, nhưng cũng là những “giải thích thần học” về sự kiện. Nếu dân không muốn một tương lai u ám, bị kết án và lưu đày, thì phải tôn thờ Chúa cho nghiêm túc, cụ thể là vâng phục và trung thành với giao ước. Những bài học lịch sử này không chỉ cần thiết cho dân Chúa sau thời lưu đày, nhưng còn là dịp cho dân Chúa ngày nay suy nghĩ về đời sống Giáo Hội.

 

CUỐN SÁCH 15&16

SÁCH ÉT-RA VÀ NƠ-KHE-MI-A (Er & Nkm)

1. Lịch sử

Bối cảnh của sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a là thời kỳ 200 năm của đế quốc Ba Tư. Thời kỳ này bắt đầu từ năm 539 TCN khi Ky-rô đại đế của Ba Tư nắm quyền kiểm soát toàn vùng Cận Đông, cho đến năm 333 trước Công nguyên là lúc Alexander đại đế của Hy Lạp giành quyền thống trị. Sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a tập trung vào hai giai đoạn: (1) giai đoạn thứ nhất (538-515) khi những người lưu đày đầu tiên trở về Giuđa dưới quyền lãnh đạo của Na-bu-cô-nô-xo và tái thiết Đền thờ dưới sự lãnh đạo của Dơ-rúp-ba-ven và Giê-su-a, và (2) giai đoạn thứ hai (445-398) với việc xây dựng tường thành Giêrusalem và cải tổ tôn giáo dưới quyền lãnh đạo của Nơ-khe-mi-a

   a. Hồi hương và tái thiết Đền thờ (538-515 TCN)

Trong năm đầu tiên của triều đại vua Ky-rô (538), nhà vua ra chiếu chỉ cho phép dân Do Thái lưu đày được trở về quê hương. Nhưng không phải mọi người dân lưu đày đều trở về. Một số người cảm thấy thoải mái với cuộc sống trên miền đất lưu đày, có người lại làm ăn phát đạt, đang khi đó quê hương họ (Giuđa) vẫn còn là miền đất nghèo khổ và bị tàn phá. Do đó lúc ban đầu chỉ có một số ít người trở về, sau này sẽ đông hơn.

Sau khi vua Ky-rô qua đời (530), Xéc-xét lên ngôi và đã có công chinh phục được Ai Cập. Tuy nhiên ông bị lật đổ và Đa-ri-ô I lên ngôi trị vì từ 522-485 trước Công nguyên. Trong thời Đa-ri-ô, cộng đồng Do thái ở Giuđa đã phát triển rất nhanh. Dưới sự lãnh đạo của Dơ-rúp-ba-ven (một nhà lãnh đạo dân sự) và Giê-su-a (một tư tế), Đền thờ đã được tái thiết và được cung hiến bằng một nghi lễ trọng thể năm 515. Đây là ngôi Đền thờ thứ hai sau Đền thờ do vua Sa-lô-môn xây và đã bị tàn phá. Ngôi Đền thờ này đã trở thành trung tâm đời sống của người Do Thái cho đến khi bị quân Rôma tàn phá vào năm 70  SCN. Việc tái thiết Đền thờ là công trình lớn lao đầu tiên mà dân thực hiện, và được coi là đá nền cho việc tái thiết cộng đồng.

  b. Tái thiết tường thành Giêrusalem và cải cách tôn giáo (445-398 TCN)

Sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a hầu như không nói gì đến giai đoạn 70 năm từ khi tái thiết Đền thờ đến khi bắt đầu sứ vụ của Nơ-khe-mi-a (515-445). Sau khi vua Đa-ri-ô qua đời, Xéc-xét lên ngôi trị vì từ 485-465, kế đó là Ác-tắc-sát-ta I (465-425). Chính trong triều đại của Ác-tắc-sát-ta, cộng đồng Do Thái lại một lần nữa phát triển rất mạnh.

Trong thời lưu đày, Nơ-khe-mi-a đã trở thành một viên chức cao cấp trong triều đình nhà vua. Năm 445 ông được Ác-tắc-sát-ta sai đến Giuđa lãnh đạo cộng đồng Do Thái (Nkm 2,1). Trong nhiệm kỳ đầu làm người lãnh đạo Giuđa, Nơ-khe-mi-a đã tiến hành việc xây dựng tường thành chung quanh Giêrusalem mặc dù bị một số người chống đối. Khi hoàn thành công việc này, ông đã trở lại Ba Tư năm 443 nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, ông quay lại Giuđa. Trong nhiệm kỳ thứ hai, ông tiến hành nhiều cuộc cải cách nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh của cộng đồng Do Thái, không chỉ vì cộng đồng này mà còn vì ích lợi của Ba Tư.

Ét-ra là hậu duệ của A-ha-ron và là một ký lục. Khi cuộc hồi hương bắt đầu, ông được nhà vua trao trách nhiệm hoà giải người Giuđa và người Samari. Là một ký lục, ông đã thu thâp những bản thảo Thánh Kinh và Truyền Thống để làm thành một tổng thể dễ hiểu. Ông chủ trương tách biệt người Do Thái với người nước ngoài, và cố gắng kêu gọi dân chúng tuân theo những nguyên tắc sống của Do Thái giáo. Sách Ét-te gồm có 10 chương còn Sách Nơ-khe-mi-a có 13 chương:

SÁCH ÉT-RA

Chương

Chương

1. HỒI HƯƠNG SAU THỜI LƯU ĐÀY. TÁI THIẾT ĐỀN THỜ - Dân Xi-on trở về -

6. Về vấn đề Nhà Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem - Lễ Vượt Qua năm 515

2. Danh sách những người Xi-on hồi hương

7. CÁC ÔNG ÉT-RA VÀ NƠ-KHE-MI-A TỔ CHỨC CỘNG ĐOÀN - Thân thế và sứ mạng ông Ét-ra - Sắc chỉ của vua Ác-tắc-sát-ta 

3. Tái lập việc phụng tự

8. Cuộc hành trình của ông Ét-ra từ Ba-by-lon đến Pa-lét-tin

4. Dưới thời vua Ky-rô, người Sa-ma-ri cản trở việc tái thiết

9. Huỷ bỏ hôn nhân với người ngoại

5. Xây Đền Thờ

10. Danh sách những người phạm lỗi

 SÁCH NƠ-KHE-MI-A

1. Ơn gọi của ông Nơ-khe-mi-a: sứ mạng của ông đối với Giu-đa

8. Danh sách những người đầu tiên trở về Xi-on (tiếp)

2. Quyết định xây dựng lại tường thành Giê-ru-sa-lem

9. Nghi thức sám hối

3. Những người tình nguyện lo việc xây cất - Phản ứng của kẻ thù người Do-thái

10. Biên bản những lời cam kết của cộng đoàn

4. Phản ứng của kẻ thù người Do-thái (tiếp)

11. Ông Nơ-khe-mi-a phân bố cư dân - Dân Do-thái ở Giê-ru-sa-lem - Người chỉ huy họ là Dáp-đi-ên, con của Ha-gơ-đô-lim - Dân Do-thái ở ngoài Giê-ru-sa-lem

5. Những khó khăn về mặt xã hội dưới thời ông Nơ-khe-mi-a. Ông biện hộ cho cách điều hành công việc của ông.

12. Các tư tế và thầy Lê-vi trở về dưới thời ông Dơ-rúp-ba-ven và Giê-su-a - Gia phả các thượng tế từ năm 520 đến năm 405 - Các tư tế và các thầy Lê-vi thời thượng tế Giô-gia-kim - Khánh thành tường thành Giê-ru-sa-lem - Một thời kỳ lý tưởng

6. Địch thù âm mưu chống lại ông Nơ-khe-mi-a. Công việc tu bổ tường thành hoàn tất.

13. Chuyến đi thứ hai của ông Nơ-khe-mi-a

7. Đưa dân trở về định cư tại Giê-ru-sa-lem - Danh sách những người đầu tiên trở về Xi-on

 

2. Nội dung thần học

  a. Lịch sử và những sách viết về lịch sử

Trong toàn bộ Thánh Kinh Do Thái, có ba khối sử liệu trình bày về những biến cố lớn trong lịch sử Ít-ra-en: (1) Bốn sách đầu tiên của Thánh Kinh trình bày giai đoạn từ khi hình thành nhân loại đến khi con cái Ít-ra-en chuẩn bị đặt chân vào Đất Hứa, (2) từ sách Đệ nhị luật cho đến sách Các Vua II trình bày giai đoạn từ khi dân vào Đất Hứa rồi qua thời quân chủ cho đến khi lưu đày bên Babylon, và (3) sách Biên Niên Sử và sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a trình bày giai đoạn từ khi vua Đavít nổi lên cho đến khi tái thiết Đền thờ thời hậu lưu đày. Tất cả những sử liệu này không chỉ mang tính biên niên sử nhưng còn nhắm mục đích trình bày ý nghĩa thần học. Đối với sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a cũng vậy. Tuy hai sách này cung cấp nhiều thông tin về mặt lịch sử nhưng mục đích chính vẫn là tuyển chọn và sắp xếp các tư liệu cho phù hợp với mối quan tâm thần học của tác giả. Hãy thử nhìn lại cách sắp xếp trong hai sách này:

   - Phần I (Er 1-6): Tái thiết Đền thờ

   - Phần II (Er 7-10): Củng cố việc thờ phượng của cộng đoàn

   - Phần III (Nkm 1-7): Tái thiết Đền thờ Giêrusalem

   - Phần IV (Nkm 8-13): Củng cố cộng đoàn chung quanh lề luật              

Nền tảng của Do thái giáo thời hậu lưu đày là Đền thờ và việc thờ phượng. Do đó phần I tập trung vào việc tái thiết Đền thờ cho dù cả Ét-ra và Nơ-khe-mi-a đều không phải là những người dấn thân vào việc này từ đầu. Việc thờ phượng tại Đền thờ đòi hỏi dân Chúa phải thanh sạch, phải là dân được tách riêng ra cho Chúa. Vì thế phần II nhấn mạnh đến cuộc cải cách do Ét-ra khởi xướng nhằm bảo vệ dân khỏi những ảnh hưởng ngoại lai. Giêrusalem được gọi là thành thánh vì có Chúa hiện diện, mà như thế thành phải có sức mạnh và được bảo đảm. Do đó phần III nói đến việc xây dựng tường thành dưới quyền lãnh đạo của Nơ-khe-mi-a. Tất cả những công việc trên đều nhằm mục đích củng cố cộng đồng Dân Chúa sống theo Lề luật, và đó là trọng tâm của phần IV. Nhìn như thế, ta sẽ thấy rõ ý hướng thần học của tác giả khi sắp xếp các sử liệu trong sách.

  b. Những ý tưởng thần học chính

         Công trình của Thiên Chúa và sự trợ giúp của người Ba Tư: Giống như các tác giả thời trước, những người biên soạn sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a cho rằng chính Giavê, Thiên Chúa của Ít-ra-en, điều khiển lịch sử thế giới. Kể cả sự sụp đổ của dân tộc và tình trạng lưu đày cũng là việc Chúa làm. Bây giờ cũng chính Thiên Chúa đem dân lưu đày trở về. Sự trợ giúp của chính quyền Ba Tư trong việc tái thiết đất nước được trình bày như là do Chúa sắp xếp.

Đền thờ và việc phụng tự: Sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a chú trọng đặc biệt đến Đền thờ và việc thờ phượng, do đó việc tái thiết Đền thờ được trình bày như mục tiêu chính yếu của dân lưu đày. Đồng thời những chi tiết về tế lễ cũng như tư tế được quan tâm đặc biệt trong sách này. Một dân được tách riêng ra cho Chúa: Trước thời lưu đày, dân Ít-ra-en- có căn tính rất rõ ràng. Họ là một dân độc lập, có lãnh thổ riêng với thủ đô là Giêrusalem, có các vua của mình từ Đavít cho đến các vua khác, có Đền thờ là nơi Chúa ngự. Thế nhưng họ đã đánh mất tất cả khi bị đem đi lưu đày. Bây giờ khi được trở về, họ cố gắng xây dựng lại căn tính của dân tộc trong hoàn cảnh mới bằng cách bảo vệ tính riêng biệt của mình so với các dân khác. Từ đó ta hiểu được tại sao có những quy định khắt khe, vd. không được kết hôn với người nước ngoài. Tất cả nhằm bảo vệ căn tính của dân tộc mình. Ngày nay khi đọc sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a, cần đặt mình trong bối cảnh trên để hiểu được tâm tư ý hướng của tác giả.

Tính liên tục: Sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a tìm cách khẳng định rằng dân Do Thái giáo sau lưu đày và Ít-ra-en trước lưu đày chỉ là một. Ít-ra-en ngày xưa được làm thành từ 12 chi tộc, bây giờ hầu hết những người từ lưu đày trở về cũng định cư ở những vùng đất tổ tiên họ đã ở. Đền thờ cũng được xây trên nền cũ. Việc tế tự cũng được trao cho hậu duệ của những vị tư tế ngày xưa. Sinh hoạt phụng tự cũng lấy lại những nghi thức cũ, và lề luật hướng dẫn cộng đồng là luật Môsê. Tất cả đều nhấn mạnh tính liên tục giữa cộng đoàn sau lưu đày và Ít-ra-en trước thời lưu đày.

3. Những bài học quan trọng

Có thể rút ra nhiều bài học cần thiết cho đời sống đức tin khi đọc sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a. Ở đây chỉ xin nêu ra hai bài học lớn:

    a. Củng cố căn tính tôn giáo

Dân Ít-ra-en từ miền đất lưu đày trở về đã cô gắng củng cố căn tính tôn giáo của dân tộc họ là dân được tách riêng ra để dành cho một mình Chúa. Để thực hiện công việc này, họ được mời gọi:

- trung thành với việc cử hành các ngày lễ tôn giáo (lễ Vượt Qua, lễ Lều, lễ Ngũ Tuần...)

- quy tụ mỗi ngày sabat để nghe Lời Chúa và giữ luật sabat

- cầu nguyện hằng ngày

Trong thời đại tục hoá ngày nay, căn tính Kitô giáo nơi nhiều Kitô hữu đang bị đe doạ. Liệu người Kitô hữu có quan tâm đến việc bảo vệ căn tính của mình không, và nếu quan tâm, ta có thể rút ra được những bài học nào khi đọc sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a?

  b. Gia đình, môi trường chuyển giao đức tin

 Ngoài việc tuân giữ những lề luật tôn giáo như đã trình bày, sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a cho thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc chuyển giao đức tin từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chính vì thế, cộng đoàn sau lưu đày chủ trương không kết hôn với người nước ngoài bởi vì nếu người mẹ không cùng tôn giáo, làm sao bà có thể giúp con cái duy trì và phát triển đời sống đức tin? Chủ trương này có thể không còn phù hợp với hoàn cảnh ngày nay, tuy nhiên vẫn hàm chứa một sứ điệp quan trọng về tầm quan trọng của gia đình trong việc giáo dục đức tin, nhất là trong hoàn cảnh ngày nay khi đời sống gia đình bị tan rã rất nhiều. Hơn bao giờ hết, các gia đình công giáo – nhất là những gia đình trẻ – cần ý thức điều này, và các lớp chuẩn bị hôn nhân cần xem đây là một chủ đề phải được nhấn mạnh.

 

CUỐN SÁCH 17

SÁCH TÔ-BI-A (Tb)

 

1. Tổng quát

Sách Tô-bi-a được viết khoảng đầu thế kỷ II trước Công nguyên. Lúc đó quyền lực của Alexandre đại đế trải rộng khắp vùng Cận Đông, và Palestine nằm dưới sự thống trị của ông từ năm 332. Khi Alexandre đại đế qua đời vào năm 323, đế quốc của ông bị phân quyền: Syria dưới quyền Seleucids và Ai Cập dưới quyền Ptolemies. Palestine nằm giữa hai quyền lực này, lúc đầu do Ptolemies kiểm soát, sau đó dưới quyền Seleucids từ năm 198.

Thời kỳ này đánh dấu tiến trình Hy Lạp hoá. Ngôn ngữ cũng như tập quán của người Hy Lạp càng lúc càng trở nên thông dụng trong dân Do thái. Đứng trước sự đe doạ của văn hóa Hy Lạp, người Do thái có những phản ứng khác nhau. Có nhóm chống đối quyết liệt và có nhóm tìm cách thích nghi, dùng ngôn ngữ cũng như triết học Hy Lạp phục vụ cho Do thái giáo. Sách Tô-bi-a được viết ra trong bối cảnh này nhằm trả lời vấn nạn làm sao trung thành với Thiên Chúa giữa những áp lực văn hoá ngoại lai.

Tác giả sách Tô-bi-a đưa ra câu trả lời qua một câu chuyện mô tả sự trung tín của Chúa cũng như lòng can đảm của các tín hữu. Tô-bi-a cũng như Xa-ra trong truyện đều chạy đến với Chúa trong cơn khốn quẫn, và lời cầu nguyện của họ đã được nhận lời khi Chúa sai thiên thần đến để chữa lành. Thế nhưng chính họ lại không biết điều đó và vẫn phải lầm lũi bước đi trong đêm tối của đức tin. Chính ở đây lại nổi bật lên niềm tin tín thác của Tô-bi-a và Xa-ra tin rằng Thiên Chúa là Đấng trung tín và giàu lòng thương xót, đồng thời thể hiện niềm tin đó qua lối sống đạo đức và bác ái. Sách Tô-bi-a gồm có 14 chương và có thể thấy bố cục của sách Tô-bi-a như sau :

 - Phần I: Nỗi đau khổ của Tô-bi-a và Xa-ra (1,1 – 3,17)

 - Phần II: Hành trình (4,1 – 6,18)

 - Phần III: Tô-bi-a và Xa-ra được chữa lành (7,1 – 11,18)

 - Phần kết: Khám phá ý định của Thiên Chúa (12,1– 4,15)

Chương

Chương

1. Ông Tô-bít bị lưu đày

8. Đào huyệt

2. Ông Tô-bít bị mù

9. Hôn lễ

3. Cô Xa-ra

10. Hôn lễ (tiếp)

4. Cậu Tô-bi-a

11. Chữa mắt ông Tô-bít

5. Người bạn đồng hành

12. Thiên sứ Ra-pha-en

6. Con cá

13. Xi-on

7. Ông Ra-gu-ên

14. Ni-ni-vê

2. Sức mạnh của Lời cầu nguyện (2,1 – 3,17)

 a. Lời cầu nguyện của Tô-bi-a và Xa-ra

Lời cầu của Tô-bi-a (2,1 - 3,6): một đời làm việc lành phúc đức nhưng lại bị tai hoạ ập xuống, đến cả người thân cũng trách móc, “Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi!” (2,14). Tô-bi-a xin Chúa cho được chết, “Quả thật, chết đối với con còn hơn sống, vì con đã nghe những lời nhục mạ dối gian, khiến con phải buồn phiền quá đỗi” (3,1-6).

Lời cầu của Xa-ra (3,7-15): đối diện với thảm họa trong đời, Xa-ra cầu xin Chúa hoặc cho cô chết đi, “Xin Chúa phán, thì con sẽ được biến khỏi mặt đất và không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa” (3,13), hoặc cho cô một phương thế giải thoát khỏi bế tắc, “Nếu Chúa không ưng làm cho con chết, thì lạy Chúa, xin đoái nghe con kể lể nỗi nhục nhằn” (3,15).

 b. Cầu nguyện, hơi thở của đời sống đức tin

Đừng ngại trình bày với Chúa những tâm tư ước nguyện của mình, kể cả những suy nghĩ có vẻ tiêu cực! Cả Tô-bi-a và Xa-ra đều xin Chúa cho được chết vì chết còn hơn là sống mà phải chịu quá nhiều đau khổ và nhục nhã. Đồng thời hãy phó thác trọn vẹn nơi Chúa vì tin rằng Chúa là Cha toàn năng, nhân từ và giàu lòng thương xót. Dù bị nhận chìm trong đau khổ, cả Tô-bi-a và Xa-ra đều ngước nhìn lên Chúa, và lời cầu nguyện của họ tràn đầy tín thác: “Lạy Chúa, Ngài là Đấng công chính, mọi việc Ngài làm đều chính trực” (3,2), “Chúc tụng Danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Ngài phải chúc tụng Ngài muôn muôn thuở” (3,11).

3. Giáo dục con cái (4,1-18)

Lời căn dặn của Tô-bít dành cho con trai trước khi lên đường hàm chứa những định hướng căn bản trong việc giáo dục con cái. Ông dạy con sống lòng hiếu thảo: “Hãy thảo kính mẹ con và đừng bỏ rơi người bao lâu người còn sống. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng người” (4,3). Ông cũng dạy con sống theo lề luật của Chúa, “Hãy tưởng nhớ Chúa mọi ngày, đừng phạm tội và làm trái mệnh lệnh của Người” (4,5). Sống theo lề luật Chúa là sống theo sự thật và sẽ thành công (4,6), sống tình bác ái và như thế là tích lũy kho tàng vững chắc (4,7-11.16-17), xa tránh thói dâm ô (4,12-13), sống khiêm tốn và lắng nghe lời khôn ngoan (4,18).

4. Thiên thần, người bạn đồng hành (12,1-22)

Thiên sứ Ra-pha-en tỏ mình ra cho cha con Tô-bi-a và nói, “Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi không do lòng tốt của tôi, mà do ý muốn của Thiên Chúa. Vậy ngày ngày các ngươi hãy chúc tụng Thiên Chúa, hãy ngợi khen Người” (12,18). Bạn có tin rằng Chúa vẫn không ngừng che chở hướng dẫn bạn như thế không? Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hướng dẫn chở che đó chưa?

 

CUỐN SÁCH 18

SÁCH GIU-ĐI-THA (Gđt)

1. Tổng quát

Sách Giu-đi-tha được viết vào thế kỷ II nhằm trả lời cho cuộc khủng hoảng đe dọa các tín hữu Do Thái ở Palestine. Sách Giu-đi-tha kể một chuyện đạo đức. Chuyện này, Thiên Chúa dùng tay một phụ nữ tên là Giu-đi-tha viết ra, Giu-đi-tha có nghĩa là “cô gái Do thái”. Năm 175 trước Công nguyên, Antiochus IV Epiphanes chiếm đóng Syria và Palestine. Ông ép buộc người Do thái không những phải chấp nhận văn hoá và phụng tự theo Hy Lạp, mà còn phải bỏ những thực hành truyền thống của họ như cắt bì và những luật lệ về chay tịnh. Ở đỉnh cao của cuộc bách hại này (năm 167), ông Mattathias là một người Do thái can đảm, khi bị ép buộc phải dâng lễ tế trên bàn thờ ngoại giáo, đã giết sứ giả của nhà vua rồi cùng với 5 đứa con chạy trốn lên núi. Những người Do thái khác đã đi theo ông, bắt đầu phong trào chống đối của nhà Ma-ca-bê (tên gọi Ma-ca-bê bắt nguồn từ biệt danh của Giuđa, con ông Mattathias). Nhà Ma-ca-bê đã chiếm lại Đền thờ và thánh hiến lại năm 164. Sau thời gian chiến tranh, cuối cùng người Do thái được hưởng nền độc lập tương đối dưới quyền nhà Hasmorean là hậu duệ của Mattathias.

Sách Giu-đi-tha được viết trong thời kỳ chống Hy Lạp của nhà Ma-ca-bê. Câu truyện kể về một thành Ít-ra-en bị Hô-lô-phéc-nê chiếm đóng. Ông này là chỉ huy trưởng quân đội Át-sua. Các vị lãnh đạo của thành này thất vọng vì không thấy Chúa trợ giúp nên quyết định sẽ đầu hàng nếu trong 5 ngày mà Chúa không giải thoát họ. Khi nghe biết quyết định này, một người Do thái đạo đức và cũng là một goá phụ có nhan sắc đã lên án những nhà lãnh đạo là thiếu đức tin. Bà cầu nguyện và phó thác mọi sự cho Chúa. Cuối cùng bà quyết định dùng chính nhan sắc của bà làm khí giới chống lại quân thù. Bà đã chặt đầu tướng Hô-lô-phéc-nê và giải thoát cho toàn dân. Câu truyện muốn đề cao sứ điệp: chiến thắng không do sức mạnh loài người nhưng do quyền năng Thiên Chúa. Cho dù đường lối Chúa xem ra thật khó hiểu và người tin Chúa có thể bị coi là điên rồ, nhưng chính những kẻ không dám phó thác vào Chúa mới là kẻ điên rồ. Sách Giu-đi-tha gồm có 16 chương:

Chương

Chương

1. CUỘC VIỄN CHINH CỦA HÔ-LÔ-PHÉC-NÊ - Na-bu-cô-đô-nô-xo và Ắc-phắc-xát - Chiến tranh chống Ắc-phắc-xát

9. Lời cầu nguyện của bà Giu-đi-tha

2. Chiến tranh ở phương Tây - Các trạm nghỉ của đạo quân Hô-lô-phéc-nê

10. Bà Giu-đi-tha đến trại tướng Hô-lô-phéc-nê

3. Các trạm nghỉ của đạo quân Hô-lô-phéc-nê (tiếp)

11. Hội ngộ lần đầu giữa bà Giu-đi-tha và tướng Hô-lô-phéc-nê

4. Giu-đê náo động - Cầu khẩn

12. Bà Giu-đi-tha dự tiệc với tướng Hô-lô-phéc-nê

5. Hô-lô-phéc-nê bàn kế hoạch giao chiến

13. Bà Giu-đi-tha đem thủ cấp tướng Hô-lô-phéc-nê về Bai-ty-lu-a

6. Ông A-khi-ô bị nộp cho người Ít-ra-en

14. Người Do-thái vây hãm doanh trại quân Át-sua

7. Chinh phạt Ít-ra-en

15. Tạ ơn

8. BÀ GIU-ĐI-THA - Tiểu sử bà Giu-đi-tha - Bà Giu-đi-tha và các kỳ mục

16. Tuổi già và cái chết của bà Giu-đi-tha

2. Giu-đi-tha, người tín hữu mẫu mực

 a. Giu-đi-tha, người đại diện của Chúa (8,1-8)

Cuộc chiến bùng nổ giữa Đức Chúa và Na-bu-cô-nô-xo (tự coi mình như thần linh). Đại diện của ông là Hô-lô-phéc-nê, còn đại diện của Đức Chúa là bà Giu-đi-tha. Trong tiểu sử của bà có bản gia phả 16 đời, nhằm mục đích chứng minh bà thực sự thuộc dòng dõi Áp-ra-ham. Bà Giu-đi-tha được coi là người tín hữu mẫu mực. Theo tập tục, bà kết hôn trong dòng tộc, sống đạo đức (chay tịnh, mặc áo nhặm, kính sợ Chúa). Nhan sắc của bà, theo Thánh Kinh, là sự phản ánh nhân đức (St 29,17; 39,6). Bà lại là người goá bụa, và trong Thánh Kinh, người goá bụa nương tựa hoàn toàn nơi Chúa. Nhiều bà goá đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Dân Chúa, vd. Ta-ma (St 38), hoặc bà Rút.

 b. Bà Giu-đi-tha và các trưởng lão (8,9-36)

Trong cuộc trao đổi với các trưởng lão, bà Giu-đi-tha nhấn mạnh hai điều: (1) Dân thiếu đức tin vào Chúa nên dám thử thách Chúa (8, 12), và (2) Dân không tự tin vào chính mình nên thất vọng chán nản (8,18-20). Từ đó, bà nói với mọi người: Thiên Chúa hoàn toàn tự do, không phải hành động theo đường lối của loài người; và dân phải tuyệt đối tin cậy vào Chúa.

 c. Bà Giu-đi-tha chuẩn bị cuộc chiến

   c.1. Chuẩn bị bằng cầu nguyện (9,1-14)

Thái độ cầu nguyện: cầu nguyện vào giờ dâng hương trong đền thờ, như thế bà nối kết lời cầu nguyện của mình với lời cầu của Dân Chúa. Bà cầu nguyện với lòng khiêm tốn (phủ phục) và sám hối (rắc tro). Lời cầu nguyện của bà Giu-đi-tha phản ánh những xác tín căn bản: (1) phó thác nơi Chúa chứ không tin tưởng vào sức mạnh người đời, (2) quyền năng của Chúa vượt trên quyền năng con người, (3) chiến thắng thuộc về những người khiêm hạ vì họ chỉ nương tựa một mình Chúa. Khi đối đầu trực tiếp với Hô-lô-phéc-nê, bà Giu-đi-tha thường xuyên cầu nguyện (x. 12,4-6). Mỗi người Kitô hữu cần tự hỏi: Trong cuộc chiến đấu chống lại các cơn cám dỗ, tôi có thường xuyên cầu nguyện?

   c.2. Chuẩn bị bằng trang điểm nhan sắc (10,1-10)

10,1-4 nói đến việc bà Giu-đi-tha trang điểm rất kỹ trước khi đến gặp Hô-lô-phéc-nê. Bà hiểu rằng nhan sắc là do Chúa ban và là điều tốt đẹp. Bà cũng biết rằng nhan sắc bên ngoài cần đi đôi với vẻ đẹp bên trong mới làm nên giá trị và sức mạnh thực sự. Nhan sắc Chúa ban là để phục vụ Chúa; ở đây Chúa dùng nhan sắc của bà để giải thoát dân Người. Ngày nay, bạn quan niệm thế nào về nhan sắc và dùng nhan sắc để làm gì?

 

 

CUỐN SÁCH 19

SÁCH ÉT-TE (Et)

         Sách Ét-te là cuốn sách tiểu thuyết đi sát với sự thật hơn nhiều sách lịch sử. Cho dù những biến cố ở đâu là hư cấu, chúng nói lên được những lo âu oán hận và hy vọng của người Ít-ra-en tản mát bốn phương đã từng ấp ủ qua bao nhiêu thế kỷ, cách riêng vào những thời bách hại. Họ vừa sợ vừa khinh các dân ngoại sống chung quanh. Trong hoàn cảnh như thế họ luôn tìm cách lấy lòng những người quyền thế, rồi kêu lên Thiên Chúa là Đấng không thể nào cho phép Dân Người tiêu vong và họ sống tình liên đới chặt chẻ với các anh em Do thái, mong đợi ngày họ sẽ có thể phục thù để làm cho danh Thiên Chúa được rạng rỡ nhất. Trong bối cảnh con người chưa biết Tin Mừng này, Sách Ét-te làm nổi bật lòng thành tín của một Thiên Chúa trước sau chỉ có một lời: Dân Do thái tất phải sinh tồn để Đức Kitô đến với trần gian (Dẫn nhập Sách Ét-te, Nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Ét-te gồm có 10 chương: 

Chương

Chương

1. Giấc chiêm bao của ông Moóc-đo-khai - Âm mưu chống lại vua - Bữa tiệc của vua A-suê-rô -Vụ hoàng hậu Vát-ti

6. Ha-man thất bại nhục nhã

2. Bà Ét-te trở thành hoàng hậu - Ông Moóc-đo-khai và quan Ha-man

7. Ha-man thất bại nhục nhã (tiếp)

3. Sắc chỉ tru diệt người Do-thái

8. Vua đổi lòng, mến chuộng dân Do-thái - Sắc chỉ phục hồi quyền của người Do-thái

4. Ông Moóc-đo-khai và hoàng hậu Ét-te đẩy lui hiểm hoạ - Lời cầu nguyện của ông Moóc-đo-khai - Lời cầu nguyện của hoàng hậu Ét-te

9. Ngày Pu-rim - Thiết lập ngày Pu-rim

5. Hoàng hậu Ét-te vào chầu vua

10. Ca ngợi ông Moóc-đo-khai

1. Nội dung

  a. Bản văn tiếng Hípri

         Câu chuyện kể về ông Moóc-đo-khai, một người Do thái phục vụ trong triều vua A-suê-rô. Ông đã báo cho nhà vua biết một âm mưu sát hại nhà vua, nhờ đó vua thoát nạn; nhưng vua quên ban phần thuởng cho ông. Sự kiện kế tiếp là vua chọn một hoàng hậu mới. Ông Moóc-đo-khai có cơ hội tiến cử Ét-]te là cháu ông và cô đã được chọn làm hoàng hậu. Ét-te được biết về một âm mưu của Ha-man nhằm tiêu diệt dân Do thái vì ông ghét người Do thái, cách riêng là Moóc-đo-khai. Một đêm kia, vua nhớ lại Moóc-đo-khai và công trạng của ông, và vua gọi Ha-man vào, yêu cầu ông tôn vinh người đã cứu nhà vua thoát chết (đúng lúc Ha-man chuẩn bị sẵn giá treo cổ cho Moóc-đo-khai).

Ét-te đã có cơ hội trình bày với nhà vua về âm mưu của Ha-man nhằm tiêu diệt dân Do thái. Ha-man phải đến năn nỉ Ét-te nhưng chính lúc ấy nhà vua bước vào, cho rằng Ha-man tìm cách xâm phạm hoàng hậu nên đã quyết định treo cổ ông ta bằng chính giá treo ông đã dọn sẵn cho người khác. Nhà vua ban sắc chỉ phục hồi quyền của người Do thái và ngày này đã trở thành ngày hội lớn của toàn dân.

 b. Bản văn tiếng Hi Lạp

Bản Hy Lạp thêm vào một số đoạn. Những đoạn này được đánh dấu theo thứ tự từ A đến F. Bản dịch tiếng Việt của Nhóm PVCGK đánh dấu theo các chương và thêm mẫu tự alphabet. Những phần thêm vào ở chương đầu và chương cuối nói về giấc mơ, một loại văn chương Khải Huyền. Các phần thêm khác là những lời cầu nguyện.

2. Đọc và suy niệm một số đoạn văn

  a. Sắc chỉ tru diệt người Do thái (3,7-9.13b-13g)

Những lời lên án trong sắc chỉ về lối sống của người Do thái khiến ta nhớ đến những cuộc bách hại trong lịch sử Giáo Hội:

 - Đế quốc Rôma: những thú vui chơi như nhà tắm công cộng, hí trường Cô-lô-sê. Người Kitô hữu xa lánh những nơi và những kiểu vui chơi đó, thì lại bị lên án.

 - Tại Việt Nam: nhớ đến cuốn Gia Tô Bí Lục lên án Đạo Chúa (móc mắt, gian dâm... và đủ thứ tội). Lý do sâu xa là sự ghen ghét và thù nghịch với Tin Mừng Chúa Kitô.

 - Nhớ đến Lời Chúa: “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12). Và lời thánh Phêrô: “Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi họ vu khống, coi anh em là người gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Ngài đến viếng thăm” (2Pr 2,12).

  b. Lời cầu nguyện của ông Moóc-đo-khai (4,17a-17h)

Lý do ông Moóc-đo-khai không chịu cúi đầu trước vua: “Không phải vì xấc xược, kiêu kỳ hoặc háo danh mà con làm thế… nhưng con đã làm thế để khỏi đặt cái vinh của người phàm trên vinh quang Thiên Chúa”. Các Kitô hữu trong đế quốc Rôma cũng thế, họ không chịu thờ hoàng đế vì hoàng đế cũng chỉ là con người nhưng lại xưng mình là “Đấng cứu thế” và bắt mọi người phải thờ phượng như thần thánh. Các Kitô hữu tại Việt Nam cũng vậy, họ không chấp nhận bỏ Đạo dù là lệnh vua ban xuống, và dù phải chấp nhận tù tội, gông cùm, kể cả cái chết.

Lịch sử để lại cho ta bài học này: khi con người phủ nhận Thiên Chúa, họ lại có khuynh hướng tôn sùng một cá nhân hay cái gì đó thay cho Thiên Chúa. Vào thời quân chủ hoặc trong những chế độ độc tài, người ta tôn thờ vua chúa hoặc suy tôn lãnh tụ. Trong thời đại ngày nay, người ta lại tôn thờ tiền bạc, hưởng thụ... Tất cả những loại ngẫu tượng đó chỉ làm cho con người vong thân và tha hoá vì thay thế Thiên Chúa vinh quang bất tử bằng hình tượng người phàm là những loài phải chết (x. Rm 1,23).

  c. Giấc chiêm bao của ông Moóc-đo-khai (1,1d-1k; 10,3a-3k)

Trình thuật về giấc chiêm bao vận dụng văn chương khải huyền là thể loại sử dụng ngôn ngữ hình tượng để diễn tả đức tin. Chúng ta có thể gặp thứ ngôn ngữ này trong lời rao giảng của các tiên tri, trong những diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu, nhất là trong sách Khải huyền. Có cả trong Phúc âm. Cách giải thích của Moóc-đo-khai nhấn mạnh đến quyền năng của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa mới là Chủ của lịch sử: “Thấy mình sắp bị tiêu diệt, họ kêu lên cùng Thiên Chúa. Từ tiếng kêu cứu đó, người ta thấy như từ dòng suối nhỏ phát ra một con sông lớn, nước đầy tràn. Mặt trời mọc lên, toả lan ánh sáng. Kẻ thấp hèn được cất nhắc lên và nuốt sống người cao sang quyền thế”.

 

CUỐN SÁCH 20

MA-CA-BÊ I (2Mcb)

 

1. Bối cảnh lịch sử

  a. Hy Lạp hoá

Sách Ma-ca-bê mô tả cuộc xung đột giữa truyền thống tôn giáo Do thái và văn hoá Hy Lạp. Nền văn hóa này có tầm ảnh hưởng rất lớn tại Cận Đông kể từ khi Alexander đại đế qua đời năm 323 trước Công nguyên. Sau khi ông qua đời, đế quốc của ông bị phân chia thành hai: nhà Pơ-tô-lê-mai ở Ai Cập và nhà An-ti-ô-khô ở Syria. Dưới sự cai trị của nhà An-ti-ô-khô, văn hoá Hy Lạp bành trướng rất mạnh. Cho nên, ngay giữa dân Do thái cũng có hai khuynh hướng khác nhau. Một số người ủng hộ tiến trình Hy lạp hoá này, còn một số khác chống đối quyết liệt vì thấy nguy cơ Do thái giáo bị tiêu diệt; từ đó dẫn đến cuộc nội chiến. Cuộc xung đột này leo thang dưới thời vua An-ti-ô-khô IV (175-164 trước Công nguyên). Năm 169, ông cướp đoạt những đồ quý giá trong Đền thờ Giêrusalem. Sau đó ông còn cấm những thực hành Do thái giáo và dựng bàn thờ kính Zeus ngay trong đền thờ.

  b. Anh em nhà Ma-ca-bê

Sách Ma-ca-bê I kể lại câu chuyện của một gia đình cương quyết chống lại ảnh hưởng của Hy Lạp. Họ chủ trương lấy bạo lực đáp trả bạo lực. Cuộc chiến đấu này diễn ra dưới sự lãnh đạo của người cha trong gia đình là ông Mát-tít-gai và sau đó là ba người con của ông. Khi Mát-tít-gai qua đời, Giuđa Ma-ca-bê tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến đấu. Giuđa Ma-ca-bê Giuđa đã giành được một số chiến thắng, thanh tẩy lại Đền thờ năm 164. Tuy nhiên ông gặp phải nhiều khó khăn do những âm mưu của thượng tế Alcimus. Cuối cùng ông qua đời trong một trận chiến và người anh em lên kế vị là Giô-na-than (160-142). Dưới thời Giô-na-than, những nỗ lực quân sự bắt đầu được thay thế bằng những tính toán chính trị. Giô-na-than đã từ từ lấy lại được một phần đất thuộc vương quốc của Đavít và Sa-lô-môn ngày xưa, nhưng cuối cùng ông bị giết dưới tay tướng Try-phôn của nhà Pơ-tô-lê-mai. Người thứ ba kế tục sự nghiệp nhà Ma-ca-bê là Simon (142-134). Ông cũng theo đường lối chính trị của người đi trước, dần dần mở rộng bờ cõi, nhưng cuối cùng bị chính người con rể ám sát. Kẻ sát nhân lại bị người con thứ hai của Si-môn là Gioan Hyrcanus giết chết, và ông này tiếp tục sự nghiệp của cha (134-105).

Gioan Hyrcanus I nổi tiếng là nhà quân sự tài ba. Năm 109 trước Công nguyên, ông đã chiếm Samaria, phá hủy Đền thờ trên núi Garizim và ép buộc dân Samari phải thờ phượng Chúa ở Giêrusalem. Những người Sađucê là hàng tư tế quý tộc ủng hộ ông, trong khi những người Hasideans (tiền thân của Pharisêu) lại bất bình. Tuy không mang danh hiệu là vua nhưng Hyrcanus tự xem mình như người tái lập vương quốc Đavít nhờ chính sách bành trướng của ông. Sau khi Hyrcanus qua đời, người con lớn của ông là Aristobulus I lên cầm quyền vào năm 104 trước Công nguyên. Ông này nổi tiếng tàn ác vì đã bắt giam cả mẹ và anh em ruột, thậm chí để mẹ chết đói trong tù. Ông lấy danh hiệu là vua nhưng ngay sau đó lại chết bất ngờ, và người kế nghiệp là Alexander Jannaeus (103-76), người hết lòng ủng hộ Hy Lạp. Sách Ma-ca-bê I gồm có 16 chương:

Chương

Chương

1. Vua A-lê-xan-đê và các tướng kế vị - Vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê đưa văn hoá Hy-lạp vào Ít-ra-en - Chinh phạt Ai-cập lần thứ nhất. Cướp phá Đền Thờ - Tướng A-pô-lô-ni-ô. Việc kiến thiết đồn quân.

9. ÔNG GIÔ-NA-THAN LÀM THỦ LÃNH VÀ THƯỢNG TẾ - Trận Bê-rê-a. Ông Giu-đa Ma-ca-bê tử trận. - Đám tang ông Giu-đa - Phe thân Hy-lạp thắng thế. Ông Giô-na-than, thủ lãnh phe kháng chiến - Ông Giô-na-than hoạt động trong sa mạc Tơ-cô-a. Vụ thảm sát gần Mê-đơ-va - Bắc-khi-đê tăng cường phòng thủ. An-ki-mô chết

2. Ông Mát-tít-gia và các con khơi dậy thánh chiến - Thử thách nhân dịp tế thần ở Mô-đin - Thử thách nhân ngày sa-bát trong hoang địa - Hoạt động của ông Mát-tít-gia và nhóm của ông - Di chúc. Ông Mát-tít-gia qua đời.

10. Cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa vua A-lê-xan-đê Ba-la và vua Đê-mết-ri-ô - Vua Đê-mết-ri-ô I gửi thư cho ông Giô-na-than - Ông Giô-na-than từ khước bổng lộc của vua Đê-mết-ri-ô. Vua Đê-mết-ri-ô tử trận - Vua A-lê-xan-đê cưới công chúa Cơ-lê-ô-pát. Ông Giô-na-than được cử làm quân sư và tổng trấn.

3. ÔNG GIU-ĐA MA-CA-BÊ, THỦ LÃNH NGƯỜI DO-THÁI (166-160) - Lời ca tụng ông Giu-đa Ma-ca-bê - Những thắng lợi bước đầu - Vua An-ti-ô-khô chuẩn bị tấn công Ba-tư và Giu-đa Quan nhiếp chính Ly-xi-a - Người Do-thái họp nhau ở Mít-pa

11. Vua Pơ-tô-lê-mai VI ủng hộ vua Đê-mết-ri-ô II. - Hiến chương mới thuận lợi cho người Do-thái - Vua Đê-mết-ri-ô được ông Giô-na-than tiếp viện

4. Trận chiến ở Em-mau - Ông Ly-xi-a xuất chinh lần đầu - Lễ thanh tẩy và cung hiến Đền Thờ

12. Ông Giô-na-than giao hảo với người Rô-ma và Xi-pác-ta - Ông Giô-na-than đi tới miền Coi-lê Xy-ri. Ông Si-môn đi tới miền duyên hải - Công trình phòng thủ Giê-ru-sa-lem - Ông Giô-na-than sa vào tay quân thù

5. Chinh phạt dân I-đu-mê và dân Am-mon - Sơ lược về các trận chiến ở Ga-li-lê và Ga-la-át - Thất trận ở Giam-ni-a - Thắng lợi ở miền I-đu-mê và Phi-li-tinh

13. ÔNG SI-MÔN LÀM THƯỢNG TẾ VÀ THỦ LÃNH DÂN DO-THÁI (143-134) - Ông Si-môn nắm quyền lãnh đạo - Ông Si-môn đẩy lui Try-phôn khỏi miền Giu-đa - Ông Giô-na-than được mai táng ở Mô-đin. Ông Si-môn xây mộ - Vua Đê-mết-ri-ô II ủng hộ ông Si-môn - Ông Si-môn đánh chiếm Đô Thị ở Giê-ru-sa-lem

6. Vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê chết - Vua An-ti-ô-khô V lên nối ngôi - Ông Giu-đa Ma-ca-bê bao vây đồn quân ở Giê-ru-sa-lem - Cuộc chinh phạt của vua An-ti-ô-khô V và tướng Ly-xi-a. Trận Bết Dơ-khác-gia - Bết Xua thất thủ. Núi Xi-on bị vây hãm - Người Do-thái được tự do hành đạo

14. Ca tụng ông Si-môn

7. Đê-mết-ri-ô I lên ngôi. Ông Bắc-khi-đê và ông An-ki-mô được cử đến miền Giu-đa - Tướng Ni-ca-no. Trận Kha-phác-xa-la-ma - Ni-ca-no doạ đốt Đền Thờ - Tướng Ni-ca-no ở Kha-đa-sa

15. Bức thư của vua An-ti-ô-khô VII. Cuộc bao vây thành Đô-ra - Các sứ giả từ Rô-ma trở về xứ Giu-đê. Công bố giao ước với người Rô-ma - Vua An-ti-ô-khô vây hãm thành Đô-ra và trở thành thù địch của ông Si-môn - Toàn quyền Ken-đê-bai-ô quấy phá miền Giu-đê

8. Ca tụng người Rô-ma - Người Do-thái liên minh với người Rô-ma

16. Các con ông Si-môn đánh thắng tướng Ken-đê-bai-ô - Cái chết bi thảm của ông Si-môn ở pháo đài Đốc. Ông Gio-an, con ông Si-môn lên thay.

2. Thần học của Sách Ma-ca-bê

  a. Sách Ma-ca-bê I

Có thể nói thần học trong sách này là thần học về giao ước: dân được yêu cầu tuân giữ Lề luật, và khi họ không tuân giữ thì Thiên Chúa trừng phạt họ. Như thế những người không tuân giữ Lề luật bị coi là những thủ phạm dẫn đến những đau khổ và mất mát mà dân phải chịu dưới sự thống trị của Hy Lạp. Đồng thời sách Ma-ca-bê I nhấn mạnh những chính sách tàn ác của Hy Lạp nhằm xâm chiếm đất đai và ngăn cấm người Do thái thực hành niềm tin tôn giáo của họ.

Một trong những đóng góp lớn của nhà Ma-ca-bê là việc tái lập Đền thờ, và biến cố này vẫn được tưởng niệm hằng năm trong ngày lễ Hanukkah. Nhà Macabê được coi là những người trung thành với Lề luật tuy có nhiều khi họ cũng chọn một thái độ uyển chuyển cho phù hợp với hoàn cảnh. Tuy nhiên tác giả viết sách muốn làm nổi bật ý tưởng rằng mọi chiến thắng và thành công là do ơn Chúa chứ không do con người. Ngoài ra trong giáo huấn của các tiên tri, có một chủ đề quan trọng được nhấn mạnh là chủ đề về Số Sót. Nhà Ma-ca-bê được giới thiệu như lãnh đạo số sót này, những người trong cộng đồng cương quyết trung thành với Lề luật cho dù phải chịu bắt bớ và bách hại. Cuối cùng, cho dù anh em nhà Ma-ca-bê bị giết chết nhưng dân được hưởng tự do tương đối để sống theo Lề luật và truyền thống cha ông. Một lần nữa, Thiên Chúa bày tỏ sự trung tín với dân của Người.

  b. Sách Ma-ca-bê II

Sách này tập trung vào Đền thờ Giêrusalem và kể lại những biến cố đã xảy ra cho Đền thờ: bị xúc phạm, được thanh tẩy và tái thiết, rồi lại bị tấn công dưới thời Antiochus IV và con trai ông. Những gì xảy ra cho Đền thờ cũng là những gì xảy ra cho dân tộc: chịu bách hại, được giải thoát và tái thiết. Sách Ma-ca-bê II chủ yếu nhắm vào chính cộng đoàn Do thái. Những cá nhân trong đó có cả các thượng tế đã đưa văn hoá ngoại giáo là Hy Lạp vào đất nước, vào Giêrusalem và vào cả Đền thờ. Đây là điều không thể phù hợp với việc thực hành Do thái giáo chân chính. Chính những tội lỗi này đã dẫn đến sự trừng phạt của Chúa. Như thế, tư tưởng mà tác giả muốn đề cao là: tội lỗi sẽ dẫn đến hình phạt, còn hoán cải dẫn đến ơn cứu độ. Điểm yếu của cách nhìn này là không thể giải thích được nỗi đau của người vô tội (xem sách Gióp), đồng thời khiến người ta có cái nhìn tiêu cực rằng mọi đau khổ đều là hình phạt của tội.

3. Khởi đầu cuộc kháng chiến của gia đình Ma-ca-bê

 a. Biến cố tại Mô-đin (2,15-28)

Bối cảnh: Mát-tít-gai và gia đình thuộc dòng dõi tư tế. Đứng trước chính sách Hy Lạp hoá của vua An-ti-ô-khô cũng như tình trạng người Do thái hợp tác với quân thù, phản ứng đầu tiên của họ chỉ là than khóc và buồn phiền (2,1-14). Tuy nhiên biến cố tại Mô-đin đã khơi mào cho một phản ứng khác. Tại Mô-đin, các đại diện của nhà vua đã thúc bách người Do thái, kể cả Mát-tít-gai và các con ông, phải chối đạo. Vì Mát-tít-gai là người có thế giá trong cộng đoàn nên ông được mời làm người đầu tiên thực hành chỉ dụ của vua là tế thần ngoại giáo. Dù được hứa hẹn nhiều điều, Mát-tít-gai đã cương quyết khước từ những gì đi ngược với Lề luật và truyền thống của cha ông. Không phải mọi người Do thái đều theo gương của ông. Đã có người tiến lên tế thần và Mát-tít-gai đã giết chết người đó. Ở đây tác giả nhắc lại hành động tương tự của Pin-khát (Ds 25,6-15) và như thế biện hộ cho hành động của Mát-tít-gai. Sau đó Mát-tít-gai và gia đình phải trốn lên núi để bảo vệ bản thân và chuẩn bị cuộc kháng chiến.

 b. Suy nghĩ cho đời sống Kitô hữu

Ở bất cứ thời đại nào, luôn luôn có những sức mạnh đối kháng với đức tin Kitô giáo, và lôi cuốn ta xa rời đức tin bằng hai cách: (1) Cám dỗ: “Ông và các con sẽ được kể vào số bạn hữu của đức vua, sẽ được danh giá, được nhiều vàng bạc và bổng lộc” (2,18); (2) Đe doạ: “Ai không tuân lệnh vua thì phải chết” (1,50). Thái độ của Mát-tít-gai và gia đình ông có thể soi sáng điều gì cho chúng ta ngày nay? Phải trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh, hay cố gắng tìm cách thoả hiệp để bảo vệ sự sống thân xác hoặc những lợi lộc mà thế gian hứa ban? Bản văn cũng nhấn mạnh đến lòng nhiệt thành của Mát-tít-gai và so sánh với lòng nhiệt thành của Phinehas. Thánh Gioan tông đồ cũng nói đến lòng nhiệt thành của Chúa Giêsu (x.Ga 2,1-10). Tôi có lòng nhiệt thành trong đời sống đạo hay không?

 

CUỐN SÁCH 21

MA-CA-BÊ II (2Mcb)

Chương

Chương

1. CÁC THƯ GỬI CHO NGƯỜI DO-THÁI Ở AI-CẬP - Tạ ơn vì vua An-ti-ô-khô bị trừng phạt - Lửa thiêng được gìn giữ lạ lùng

9. Cái chết của vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê - Vua An-ti-ô-khô gửi thư cho người Do-thái

2. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a cất giấu đồ thờ phượng - Thư viện của ông Nơ-khe-mi-a - Kêu gọi mừng lễ thánh hiến -

10. Thanh tẩy Đền Thờ - Ông Pơ-tô-lê-mai Mác-rôn bị thất sủng - Tướng Goóc-ghi-át và các thành trì xứ I-đu-mê - Ông Giu-đa hạ tướng Ti-mô-thê và chiếm Ghe-de

3. Quan Hê-li-ô-đô-rô đến Giê-ru-sa-lem - Thành phố xáo trộn - Ông Hê-li-ô-đô-rô bị trừng phạt - Ông Hê-li-ô-đô-rô được ơn trở lại

11. Cuộc chinh phạt thứ nhất của tướng Ly-xi-a - Hoà ước ký với người Do-thái. Bốn lá thư liên quan đến hoà ước

4. Tội ác của viên quản lý Si-môn - Thượng tế Gia-xon du nhập văn hoá Hy-lạp - Vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê được hoan nghênh ở Giê-ru-sa-lem - Ông Mê-nê-la-ô làm thượng tế - Thượng tế Ô-ni-a bị ám sát - Ly-xi-ma-khô bị giết trong cuộc nổi loạn - Ông Mê-nê-la-ô bị kiện nhưng được tha

12. Biến cố xảy ra tại Gia-phô và Giam-ni-a - Chinh phạt vùng Ga-la-át - Trận đánh ở Các-ni-on - Ông Giu-đa từ Ép-rôn và Xi-ky-thô-pô-li trở về - Trận chiến chống lại tướng Goóc-ghi-át - Lễ tế cầu cho chiến sĩ trận vong

5. Chinh phạt Ai-cập lần thứ hai - Trận tấn công của ông Gia-xon và cuộc đàn áp của vua An-ti-ô-khô - Cướp phá Đền Thờ - Tướng A-pô-lô-ni-ô

13. Cuộc chinh phạt của vua An-ti-ô-khô và tướng Ly-xi-a. Ông Mê-nê-la-ô bị tử hình - Người Do-thái cầu nguyện và đã thành công ở gần thành Mô-đin - Vua An-ti-ô-khô V thương thuyết với người Do-thái

6. Thiết lập nền phụng tự ngoại giáo - Ý nghĩa cuộc bách hại - Ông E-la-da tử đạo

14. Thượng tế An-ki-mô can thiệp - Tướng Ni-ca-no kết thân với ông Giu-đa - An-ki-mô gieo rắc tai hoạ. Ni-ca-no đe doạ Đền Thờ - Cái chết của ông Ra-dít

7. Cuộc tử đạo của bảy anh em

15. Những lời lộng ngôn và phạm thượng của Ni-ca-no - Ông Giu-đa khích lệ binh lính và được ca tụng - Ni-ca-no bại trận và chết - Lời kết

8. Ông Giu-đa Ma-ca-bê vào mật khu - Giao tranh với Ni-ca-no và Goóc-ghi-át - Các tướng Ti-mô-thê và Bắc-khi-đê thất trận - Tướng Ni-ca-no chạy trốn và tuyên bố có Thiên Chúa

 

 

1. Đền tội cho người đã chết (2 Mc 12,38-46)

  a. Đọc bản văn

   - 12,38-41: Sau ngày Sabát, Giuđa và các bạn chuẩn bị an táng cho những người đã chết trong cuộc chiến. Tuy nhiên trong áo trận của mỗi tử thi, người ta đều tìm thấy những đồ vật được dâng cúng cho các thần ngoại. Có thể vì họ tin rằng mang những đồ vật đó sẽ đem lại may mắn. Thế nhưng đó lại là điều Lề luật cấm. Do đó người ta hiểu rằng những người này chết là vì tội lỗi đã phạm (xem thêm Giô-suê chương 7).

  - 12,42: Những người còn sống được nhắc nhở để đừng phạm những tội trên, đồng thời họ cầu nguyện xin Chúa tẩy sạch tội lỗi đã phạm.

  - 12,43-45: Ông Giuđa quyên góp tiền bạc để gửi về Giêrusalem xin dâng hy lễ tạ tội. Tác giả nhấn mạnh lý do của hành động này là niềm tin và hy vọng vào sự phục sinh.

 b. Cầu nguyện cho người quá cố

Giáo huấn của Thánh Gregorio Cả: “Đối với một số tội nhẹ, phải tin là trước phán xét chung có lửa thanh luyện. Chúa Giêsu xác nhận: nếu ai nói phạm đến Chúa Thánh Thần, người ấy sẽ chẳng được tha cả đời này lẫn đời sau (x. Mt 12,31)”. Qua khẳng định này, chúng ta có thể hiểu là một số tội có thể được tha ở đời này, nhưng một số tội khác thì phải đợi tới đời sau.

         Sự kiện ông Giuđa Ma-ca-bê xin dâng hy lễ cầu nguyện cho những người đã chết là nền tảng Thánh Kinh cho tập quán cầu nguyện cho những người đã chết. Hội Thánh Công giáo khuyên con cái mình dâng Thánh Lễ, làm các việc bác ái, hãm mình, và nhường các ân xá cho những người đã qua đời: “Chúng ta hãy giúp họ và hãy nhớ đến họ. Nếu các con của ông Gióp đã được thanh luyện nhờ việc hiến lễ của cha (x.G 1,5), tại sao chúng ta còn nghi ngờ là những lễ tế chúng ta dâng lên Thiên Chúa lại không đem đến cho những người đã chết một phần an ủi nào? Đừng do dự giúp đỡ và cầu nguyện cho những người đã qua đời” (Thánh Gioan Kim Khẩu).

2. Cuộc tử đạo của bảy anh em (2 Mc 7,1-42)

Đây là trình thuật được biên soạn công phu. Trong truyền thống Do thái, số 7 tượng trưng cho sự hoàn hảo, vì thế trình thuật này là câu truyện về một gia đình hoàn hảo. Toàn bộ trình thuật làm nổi bật ý tưởng then chốt này là việc tuân giữ Lề luật còn quan trọng hơn chính sự sống. Những câu trả lời của bảy anh em hàm chứa những lý luận thần học biện minh cho việc tuân giữ Lề luật của Chúa:

- Thà chết còn hơn là vi phạm Lề luật (câu 2).

- Nhà vua có thể tước đoạt mạng sống nhưng chính Thiên Chúa sẽ làm cho kẻ tin sống lại để hưởng sự sống đời đời (câu 9).

- Nhà vua có thể cắt đi các phần thân thể nhưng Thiên Chúa sẽ ban lại (câu 11).

- Chết vì niềm tin sẽ đem lại phục sinh, còn nhà vua sẽ không được hưởng sự sống đời đời (câu 14).

- Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi dân Người và sẽ trừng phạt kẻ gian ác (câu 17).

- Chấp nhận cực hình như hình phạt của tội (câu 18).

Cách riêng, hình ảnh bà mẹ làm ta xúc động, không những vì sự can đảm của bà mà nhất là vì những tâm tình bà nói với các con, khuyến khích các con can đảm đón nhận mọi hình khổ. Những lời khuyên của bà phản ánh niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa là cội nguồn và cùng đích của sự sống: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo mọi sự. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Lề luật của Người hơn bản thân mình” (7,22-23). Khi chỉ còn lại người con út và mạng sống người con đó cũng đang bị đe doạ, bà vẫn can đảm thuyết phục con vừa bằng tình thương mẫu tử “Con hãy thương mẹ, chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm,” lại vừa bằng những lý lẽ của đức tin: “Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này, nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ” (7,28-29). Bao lâu còn có những người mẹ như thế, đức tin sống động vẫn được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bao lâu còn có những người mẹ như thế, thì mới hy vọng những giá trị Tin Mừng được thấm nhập vào đời sống xã hội. Người mẹ tuyệt vời này lại chẳng phải là mẫu mực cho đời sống gia đình Công giáo hay sao?

 

CUỐN SÁCH 22

SÁCH GIÓP (G)

1. Tổng quát

Tại sao người công chính và vô tội lại phải chịu đau khổ? Thiên Chúa có công bằng không khi để xảy ra nghịch lý đó? Con người ở thời đại nào cũng phải đối diện với vấn nạn này, thường được gọi là vấn nạn về sự dữ, và đây cũng là chủ đề chính của sách Gióp.

  a. Bối cảnh

Sách Gióp được viết cách đây khoảng 2500 năm trong bối cảnh tôn giáo và văn hoá đặc thù của dân Ít-ra-en. Nền văn hoá lúc đó là văn hoá bộ tộc. Trong nền văn hoá này, người ta nhấn mạnh đến sự phát triển dòng tộc cũng như đất đai của cải, đồng thời hy vọng sẽ tiếp tục tồn tại nơi con cháu của mình (chưa có khái niệm về đời sống sau khi chết). Đồng thời người ta xem trọng vinh dự về mặt xã hội: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Về mặt tôn giáo, sách Gióp thuộc thể loại văn chương khôn ngoan, tin tưởng chắc chắn rằng sống công chính và khôn ngoan sẽ đem đến phúc lộc dồi dào, cụ thể nhất là con đàn cháu đống và làm ăn thịnh vượng. Sách Gióp gồm có 41 chương:

Chương

Chương

1. Xa-tan thử thách ông Gióp

22. THIÊN THỨ BA - Thiên Chúa trừng phạt nhân danh công lý

2. Xa-tan thử thách ông Gióp (tiếp)

23. Thiên Chúa ở xa nên sự ác thắng thế

3. ĐỐI THOẠI - THIÊN THỨ NHẤT - Ông Gióp nguyền rủa ngày ông chào đời

24. Thiên Chúa ở xa nên sự ác thắng thế (tiếp)

4. Tin tưởng vào Thiên Chúa

25. Thánh thi ca tụng quyền năng Thiên Chúa

5. Tin tưởng vào Thiên Chúa (tiếp)

26. Ông Bin-đát nói vu vơ

6. Chỉ có ai đau khổ mới hiểu được nỗi khổ của mình

27. Ông Gióp nhìn nhận quyền năng Thiên Chúa - Ý kiến của ông Xô-pha

7. Chỉ có ai đau khổ mới hiểu được nỗi khổ của mình (tiếp)

28. Khôn ngoan con người không thể đạt được

8. Cần học hỏi về đức công chính của Thiên Chúa

29. KẾT THÚC CUỘC ĐỐI THOẠI - Lời than van và biện hô của ông Gióp

9. Đức công chính của Thiên Chúa vượt trên tất cả

30. Lời than van và biện hô của ông Gióp (tiếp)

10. Đức công chính của Thiên Chúa vượt trên tất cả (tiếp)

31. Lời biện hộ của ông Gióp

11. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa mời gọi ông Gióp thú tội

32. LỜI LẼ CỦA ÔNG Ê-LI-HU - Ông Ê-li-hu can thiệp

12. Thiên Chúa quyền năng biểu lộ sự khôn ngoan qua các hành động của Người

33. Lòng tự cao của ông Gióp

13. Thiên Chúa quyền năng biểu lộ sự khôn ngoan qua các hành động của Người (tiếp)

34. Ba nhà khôn ngoan không biện hộ nổi cho Thiên Chúa

14. Thiên Chúa quyền năng biểu lộ sự khôn ngoan qua các hành động của Người (tiếp)

35. Thiên Chúa không dửng dưng trước công việc của con người

15. THIÊN THỨ HAI - Ông Gióp tự kết án bằng những lời lẽ của ông

36. nghĩa đích thực những đau khổ của ông Gióp

16. Con người không công chính còn Thiên Chúa công chính

37. nghĩa đích thực những đau khổ của ông Gióp (tiếp)

17. Con người không công chính còn Thiên Chúa công chính (tiếp)

38. LỜI ĐỨC CHÚA PHÁN DẠY - Công trình sáng tạo của Đức Khôn Ngoan làm ông Gióp ngỡ ngàng

18. Giận dữ cũng chẳng làm gì được Thiên Chúa

39. Công trình sáng tạo của Đức Khôn Ngoan làm ông Gióp ngỡ ngàng (tiếp)

19. Bị Thiên Chúa và con người bỏ rơi, nhưng vẫn tin

40. Thiên Chúa chế ngự sức mạnh của sự dữ - Con thú Bơ-hê-mốt - Con Giao Long

20. Thiên Chúa công chính không miễn trừ ai

41. Con Giao Long (tiếp)

21. Thực tế không phải vậy

42. Câu trả lời cuối cùng của ông Gióp - Câu trả lời cuối cùng của ông Gióp - ĐỨC CHÚA khôi phục tài sản cho ông Gióp

  b. Nội dung tổng quát

    -  Phần mở đầu (1,1 – 2,13): Ông Gióp mất tất cả. Ba người bạn đến khuyên nhủ.

   - Đối thoại (3,1 – 31,40): Sau khi nghe ông Gióp than thở về số phận hẩm hiu của mình, ba người bạn lên tiếng biện hộ cho Chúa. Họ tranh luận với nhau qua ba diễn từ cho đến khi ông Gióp kết thúc bằng lời thề nguyền vô tội.

  - Diễn từ của Ê-li-hu (32,1 – 37,24):  Một người trẻ với những lời lẽ mới mẻ và nâng đỡ.

   - Diễn từ của Đức Chúa (38,1 – 42,6): Thiên Chúa lên tiếng qua hai diễn từ dài và dồn ông Gióp vào thế thinh lặng.

   - Phần Kết (42,7-17): Cơ nghiệp của ông Gióp được phục hồi và sống hạnh phúc mãi mãi.

2. Phần mở đầu (1,1 – 2,13)

  a. Cảnh I (dưới đất) (1,1-5)

Tên ông Gióp có nghĩa là “Chúa của tôi ở đâu?” Ông là mẫu người đạo đức và công chính, kính sợ Chúa. Trong văn chương khôn ngoan, kính sợ Chúa được coi là khởi điểm và cốt lõi của khôn ngoan (Cn 1,7; 9,10). Vì thế ông được chúc phúc, con cái đề huề, của cải sung túc.

  b. Cảnh II (trên trời) (1,6-12)

Đức Chúa được mô tả như một vị vua ở phương Đông, với “con cái” vây quanh. Trong các thần thoại ngoại giáo, “con cái” là những vị thần cấp thấp hơn, nhưng trong Thánh Kinh, chúng được coi là những tôi tớ hầu cận Đức Chúa (x. 1V 22,19-23). Satan cũng có mặt ở đó. Satan cho rằng Gióp sống đạo đức chỉ vì được lợi lộc. Nếu Gióp mất hết của cải thì hắn sẽ nói gì về Thiên Chúa? Sau đó, Satan được phép đi thử thách Gióp.

  c. Cảnh III (dưới đất) (1,13-22)

Toàn bộ cơ nghiệp, của cải và cả con cái của ông Gióp bị tiêu tan trong giây lát. Những sức mạnh hủy diệt ở đây có cả thiên tai (lửa, cuồng phong) và nhân tai (dân Sơ-va và Can-đê). Tuy nhiên Satan phải thất vọng vì dù mất tất cả, ông Gióp vẫn một niềm tin tưởng, chúc tụng tôn vinh Danh Chúa (1,20-21).

  d. Cảnh IV (trên trời) (2,1-6)

Câu 3b quan trọng nhất vì xác định không có mối liên hệ nào giữa đời sống đạo đức của Gióp và những đau khổ ông phải chịu. Satan vẫn chưa chịu đầu hàng. Nó đòi hỏi tiếp tục thử thách Gióp.

 e. Cảnh V (dưới đất) (2,7-13)

Gióp phải chịu thứ ung nhọt khủng khiếp. Bây giờ không còn là những đau khổ bên ngoài nhưng ngay trong chính thân xác ông. Thêm vào đó, vợ của ông vào cuộc, lên tiếng nguyền rủa ông. Nhưng ông Gióp vẫn kiên vững trong đường lối của mình. Ba người bạn của ông Gióp xuất hiện để an ủi và nâng đỡ ông, và “họ ngồi xuống đất, bên cạnh ông, suốt bảy ngày đêm, chẳng nói với ông một lời, vì họ thấy rằng nỗi đau khổ của ông quá lớn” (2,13).

3. Lời than van của ông Gióp (3,1-26)

Than van là tiếng kêu đau đớn phát xuất cách tự nhiên từ trái tim con người khi cuộc đời bị tràn ngập khổ đau và đổ vỡ.

  a. Nguyền rủa cả ngày và đêm (3,3-10)

Gióp không nguyền rủa Thiên Chúa nhưng nguyền rủa “ngày chào đời” và đêm báo thụ thai.” Tiên tri Giê-rê-mi-a từng mang tâm trạng như thế (20,14-18).

  b. Mong được chết (3,11-19)

“Sao tôi không chết đi lúc vừa mới chào đời?” “Mong chết mà không được, tìm cái chết hơn tìm kho báu”. Trong những lời than vãn của ông Gióp, lưu ý hai đặc điểm: sử dụng nhiều lần từ “tại sao” (đây là tiếng kêu đau khổ hơn là tìm kiếm trí thức) và “tôi” (nhấn mạnh kinh nghiệm cá nhân).

  c. Mong được giải thoát khỏi Chúa (3,20-26)

Gióp mô tả bản thân ông là người “bị Thiên Chúa giam hãm tư bề.” Với dân Ít-ra-en, Thiên Chúa là Đấng giải thoát họ khỏi sự chết, còn ở đây Gióp lại cầu mong cái chết giải thoát ông khỏi bàn tay của Chúa! Thật là oái oăm nhưng ở đó diễn tả nỗi đau cùng cực của người mà “bánh ăn chỉ là tiếng nức nở, và tiếng gào thét tựa nước lũ ngập tràn.”

 4. Độc thoại của ông Gióp (29,1 – 31,37)

Trong những chương trước, bạn bè của ông Gióp cho rằng ông có tội nên mới bị trừng phạt, và ông Gióp phủ nhận lời kết án đó. Tuy nhiên những lời kết án cũng như phản ứng của ông Gióp chỉ được trình bày cách chung chung, còn trong 29,1 – 31,37, ông Gióp trả lời đầy đủ hơn, qua đó thấy được nỗi lòng của ông, một người vô tội mà phải chịu đau khổ.

  a. Nhớ lại những ngày xưa tháng cũ (29,1-25)

Gióp nhắc lại những tháng ngày tràn ngập phúc lành của Chúa: mùa màng tươi tốt, con cái quây quần. Đặc biệt là ông được mọi người kính trọng: “Họ nghe tôi nói và chờ đợi, chăm chú theo dõi ý kiến của tôi” (câu 21), “Tôi vẽ đường chỉ lối và hướng dẫn họ, sống với họ như vua ở giữa ba quân, như người ủi an giữa những kẻ ưu sầu” (câu 25). Đời sống đạo đức của ông được thể hiện qua cách đối xử của ông với mọi người: người nghèo khổ, kẻ mồ côi goá bụa, người lâm cơn hấp hối...

  b. Than thở nỗi khốn cùng hiện tại (30,1-31)

Thay cho sự giàu sang danh giá khi xưa là sự khinh miệt của người đời (1-15). Gióp quay ra than phiền Chúa: “Con kêu lên Ngài nhưng Ngài không đáp, con trình diện Ngài nhưng Ngài chẳng lưu tâm” (câu 20). Điều trớ trêu là khi người khác lâm cảnh khốn cùng thì ông Gióp đưa tay nâng đỡ, còn bây giờ khi ông lâm cảnh khổ đau, có ai nâng đỡ? (câu 24-31).

   c. Lời thề vô tội (31,1-40) 

Ông Gióp liệt kê chín điểm trong đời sống luân lý để tự biện cho sự vô tội của ông. Chín điểm này bao trùm mọi mối quan hệ trong cuộc sống con người: với Thiên Chúa, với chính mình, với tha nhân, với cả môi trường thiên nhiên:

- Không đồng hành cùng gian dối (câu 5-8).

- Không khai thác đất đai quá mức (38-40).

- Không gian dâm ngoại tình (9-12).

- Không chà đạp quyền lợi của người tôi tớ (13-15).

- Không cứng lòng trước người đau khổ (16-23).

- Không chạy theo các ngẫu tượng (24-28).

- Không thù ghét địch thù (29-30): một thái độ rất đáng phục.

- Lòng hiếu khách (31-32).

- Ngay thẳng và chính trực.

II. Chương 22-42

 1. Thiên Chúa lên tiếng (38,1 – 42,6)

Thiên Chúa trả lời những vấn nạn của ông Gióp qua hai diễn từ:

  a. Diễn từ thứ nhất (38,1 – 40,2)

Thiên Chúa tra vấn Gióp về những kỳ công của công trình tạo dựng, biểu lộ sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài: đặt nền móng cho trái đất (câu 4-7), vạch ranh giới cho đại dương (8-11), điều hành ánh sáng cho vũ trụ (12-15). Tiếp đó Thiên Chúa nói đến những điều kỳ diệu trong vũ trụ, cụ thể là hiện tượng thời tiết (22-30) và thế giới động vật (38,39 – 39,30). Tất cả chứng tỏ rằng Thiên Chúa không chỉ tạo dựng vũ trụ mà còn tiếp tục bảo tồn vũ trụ bằng sự quan phòng của Người. Diễn từ này nhằm trả lời vấn nạn của Gióp cho rằng không hề có kế hoạch, định hướng hay sự quan phòng nào trong thế giới này (38,2).

   b. Diễn từ thứ hai (40,6 – 41,26)

Xem ra ông Gióp đã muốn lên án Thiên Chúa để biện hộ cho sự vô tội của mình. Nhưng có thực sự cần phải làm như thế không (40,8)? Diễn từ nhắc tới hai con thú Bơ-hê-mốt và Giao Long. Các học giả cho rằng đây là hà mã và giao long. Tuy nhiên điều quan trọng hơn là hai con thú này tượng trưng cho sự hỗn mang thuở đầu tạo dựng. Thiên Chúa hỏi Gióp xem liệu ông có chế ngự được sự hỗn mang đó không? Những lời chất vấn của Thiên Chúa đưa ông ra khỏi nỗi đau của bản thân để mở rộng tầm nhìn đến toàn thể vũ trụ, khám phá sự khôn ngoan và quyền năng Thiên Chúa bao trùm tất cả.

2. Đoạn kết (42,7-17)

Chúa trách mắng những người bạn của ông Gióp vì đã nói về Ngài không đúng. Họ chỉ nói về Thiên Chúa từ nhãn quan chật hẹp của họ. Đồng thời Chúa khôi phục tài sản cho ông Gióp và phúc lành của Người chan chứa trên ông.

3. Ý nghĩa của Sách Gióp

 a. Vấn đề người vô tội phải chịu đau khổ

Đau khổ là chủ đề chính trong những cuộc tranh luận giữa ông Gióp và bạn hữu ông. Họ khẳng định rằng đau khổ là hình phạt của tội (x. 4,7-9; 8,20; 11,4-6). Khi Gióp phủ nhận khẳng định này trong trường hợp của ông thì họ trả lời: “Trước nhan Thiên Chúa, phàm nhân cho mình là công chính thế nào được! Và đứa con do người phụ nữ sinh ra, làm sao dám coi mình là thanh sạch?” (25,4-6; 14,1-4; 15,14). Tóm lại là không thể có chuyện người vô tội phải chịu đau khổ. Thế nhưng thực tế phức tạp hơn nhiều, và đã có những câu trả lời khác trong sách Gióp. Đau khổ là một huyền nhiệm và chúng ta là ai mà có thể hiểu được đường lối của Thiên Chúa (11,7-10; 15,8-9; 42,3). Đau khổ là phương thế Chúa dùng để giáo huấn ta và làm cho ta nên tốt hơn (5,17-18; 36,15). Thiên Chúa cho phép đau khổ xảy ra để thử thách đức độ của người công chính (chương 1-2). Những câu trả lời trên làm nổi bật hai điều: một bên là sự vô tội của con người và một bên là sự công chính của Thiên Chúa. Bạn hữu của ông Gióp cũng như chính ông đều nhấn mạnh đến sự công chính của Thiên Chúa. Bạn hữu ông nhấn mạnh điều này vì đó là cách giải thích truyền thống. Còn ông Gióp nhấn mạnh điều này vì đó là nền tảng để ông dựa vào mà kêu xin Thiên Chúa lắng nghe và phán xử cho ông.

Cho dù đau khổ được xem như chủ đề lớn của sách Gióp, thực ra đây không phải là vấn đề chính. Bởi lẽ người đọc đã biết ngay từ đầu rằng đau khổ mà ông Gióp phải chịu là để thử thách chứ không phải hình phạt: “Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không cầu lợi chăng?” (1,9). Đàng khác nếu coi đau khổ là chủ đề chính thì xem ra vấn đề vẫn không được giải quyết, kể cả câu trả lời của Chúa xem ra cũng chẳng soi sáng gì hơn.

  b. Huyền nhiệm đau khổ và mối tương quan với Thiên Chúa

Đau khổ là một huyền nhiệm hơn là một vấn đề. Vấn đề (hay bài toán) là cái gì ở trước mắt ta và ta giải quyết một lần là xong, dù khó khăn đến mấy. Còn huyền nhiệm là một thực tại ta bị nhận chìm trong đó, suy nghĩ về nó nhưng đồng thời hít thở trong nó, đau khổ và hạnh phúc trong nó. Tình yêu, đau khổ và sự chết là những huyền nhiệm lớn trong đời. Như thế cần nhìn huyền nhiệm đau khổ trong những tương quan sống.

Đối với ông Gióp, nỗi đau khổ lớn nhất là ở chỗ ông cảm thấy mơ hồ về mối tương quan giữa ông và Thiên Chúa. Trước đây Chúa sống với ông như người bạn (chương 29), còn bây giờ lại như thù địch (13,24). Đặt mình trong bối cảnh đó, sẽ thấy câu trả lời của Chúa đã soi sáng cho ông Gióp, không phải vì diễn từ đó đưa ra một câu trả lời rõ ràng về mặt lý luận, nhưng vì diễn từ đó khẳng định rằng Thiên Chúa vẫn luôn ở đó khi Gióp đau khổ và luôn lắng nghe lời than thở của ông. Nghĩa là Thiên Chúa khẳng định mối quan hệ tốt đẹp giữa Ngài và ông Gióp, và như thế Gióp khám phá ra rằng ông không cô độc trong đau khổ, Chúa vẫn ở đó với ông. Đó chính là sức mạnh cho phép ông vượt qua mọi khó khăn thử thách. Hiểu như thế, sách Gióp không nhằm bàn luận một vấn đề thần học cho bằng là một tiếp cận mầu nhiệm đức tin, mầu nhiệm về mối tương quan của ta với Thiên Chúa.

Trong ý hướng trên, ta khám phá những thay đổi nơi bản thân ông Gióp. Trước kia Gióp là người rất đạo đức nhưng xem ra không thực tế cho lắm. Rồi thử thách xảy ra liên tiếp, ông phải suy nghĩ về những gì ông trải nghiệm xuyên qua những lần tranh luận với bạn hữu. Cuối cùng ông nhìn nhận rằng trước kia ông chỉ biết Chúa nhờ người ta nói lại, nhưng bây giờ chính mắt ông chứng kiến. Vì thế “điều đã nói ra, con xin rút lại, trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn” (42,6). Gióp đã trở thành con người khác với một sự thay đổi sâu xa xuyên qua những kinh nghiệm đời sống.

  c. Đâu là dung nhan đích thực của Thiên Chúa?

Các bạn hữu của ông Gióp đã nói rất nhiều về Chúa và nhân danh sự công chính của Chúa mà lên án ông. Nhưng cuối cùng chính Chúa lên tiếng: “Các ngươi đã không nói đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta” (42,7-8). Gióp đã nói đúng đắn về Chúa. Có thể hiểu “đúng đắn” theo hai nghĩa: Gióp đã nói “cách đúng đắn” và Gióp đã nói “những điều đúng đắn.”

Gióp đã nói cách đúng đắn vì ông nói thật với lòng mình. Ông không ngần ngại nói lên nỗi đau của mình, cả những mối hoài nghi và hoang mang của mình. Mối quan hệ đích thực với Thiên Chúa phải được xây dựng trên sự thật. Không phải ông không biết những cách giải thích truyền thống, những lập luận thần học về Thiên Chúa mà bạn bè ông nêu ra, nhưng ông không cảm thấy thoả mãn với những lập luận đó, và ông nói thật những suy tư, những cảm nghiệm của mình. Nói về Chúa, dù hay cách mấy mà không có sự chân thật, vẫn chỉ là giả dối.

         Đồng thời Gióp đã nói “những điều đúng đắn” về Chúa. Các bạn hữu của ông Gióp nghĩ rằng họ biết về Chúa nhưng thực ra họ đã đóng khung Thiên Chúa trong khuôn khổ chật hẹp của những khái niệm và lý luận chật hẹp của con người. Trong khi đó Thiên Chúa là mầu nhiệm không thể dò thấu, Người vượt trên tất cả và những khái niệm của con người trở thành ngu xuẩn trước thực tại vô cùng huyền nhiệm này (42,8). Chính Thiên Chúa nhắc nhớ cho các bạn hữu của Gióp như thế và cũng nhắc nhớ cho tất cả chúng ta.

 

CUỐN SÁCH 23

SÁCH THÁNH VỊNH (Tv)

1. Tổng quát

Ở trung tâm của mọi Thánh vịnh là sự hiện diện của Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. Đối với tác giả Thánh vịnh, Đức Chúa hiện diện trước hết là trong Đền thờ được vua Sa-lô-môn xây trên núi Sion ở Giêrusalem vào thế kỷ 10, và được xây lại vào thế kỷ 6 trước Công nguyên. Đền thờ là điểm quy tụ của ba ngày lễ lớn trong năm: lễ Vượt qua vào đầu mùa Xuân, bảy tuần sau là lễ Ngũ tuần và lễ Lều vào đầu mùa thu. Trong khuôn viên Đền thánh, dân chúng gặp gỡ Đức Chúa, và qua những nghi thức phụng vụ, họ nhớ lại những thời điểm quan trọng như công trình tạo dựng và cuộc xuất hành. Tuy nhiên theo tác giả Thánh vịnh, Đền thờ không phải là nơi duy nhất cho dân gặp Đức Chúa. Họ còn có thể gặp gỡ Đức Chúa qua các vua là trung gian giữa Chúa và Dân Người. Một hình thức hiện diện khác của Đức Chúa là qua Lề luật. Với các Kitô hữu, Chúa Kitô và Hội thánh của Người chính là nơi Thiên Chúa hiện diện cách rõ ràng nhất.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã trình bày thật phong phú và sâu sắc về ý nghĩa và vai trò của Thánh vịnh trong đời sống Dân Chúa: “Các Thánh vịnh nuôi dưỡng và diễn tả tâm tình cầu nguyện của Dân Chúa là cộng đoàn quy tụ vào các dịp đại lễ tại Giêrusalem và mỗi ngày sabát trong các hội đường. Kinh nguyện này vừa có tính cá nhân vừa có tính cộng đoàn, vừa liên hệ với những người đang cầu nguyện vừa liên hệ đến toàn thể mọi người. Các Thánh vịnh vang lên từ thánh địa và các cộng đoàn Do thái tản mác khắp nơi nhưng lại bao trùm toàn thể thụ tạo; nhắc lại các biến cố cứu độ trong quá khứ và vươn đến ngày hoàn tất lịch sử; nhắc nhớ Thiên Chúa đã thực hiện những lời hứa thế nào, đồng thời chờ đợi Đấng Mêsia đến hoàn tất trọn vẹn. Được Chúa Kitô sử dụng để cầu nguyện và kiện toàn, các Thánh vịnh luôn chiếm vị trí thiết yếu đối với kinh nguyện của Hội Thánh… Qua các Thánh vịnh, chúng ta gặp thấy những đặc điểm: lời cầu nguyện đơn sơ và tự phát, lòng khao khát Thiên Chúa qua và với tất cả những gì tốt đẹp trong vũ trụ, hoàn cảnh khó khăn của người tín hữu muốn yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự nhưng lại phải đối diện với bao thử thách và địch thù, dù vậy vẫn chờ đợi Thiên Chúa trung tín ra tay hành động; niềm xác tín vào tình yêu Thiên Chúa và phó thác theo Thánh Ý Người” (số 2586 – 2589).

150 Thánh vịnh diễn tả kinh nghiệm của Ít-ra-en về Đấng Thánh. Những kinh nghiệm này được trình bày qua các hình thức và truyền thống văn chương của thời đại đó. Vì thế để hiểu và lĩnh hội những kinh nghiệm tôn giáo đó, không thể không quan tâm đến cách diễn tả của thời đại đó. Theo các học giả Thánh Kinh, có thể chia các Thánh vịnh thành ba loại: than vãn (cá nhân hay cộng đoàn), tạ ơn (cá nhân và cộng đoàn), và ngợi khen.

  a. Thánh vịnh than vãn

    a.1. Đặc điểm: Trong những Thánh vịnh này, có những yếu tố chính như sau:

- tiếng kêu trực tiếp và chân thành hướng lên Đức Chúa.

- than thở: mô tả cụ thể nỗi đau của cộng đoàn như bị mất mùa, bị thua trận, hoặc nỗi đau của cá nhân như bệnh tật, bị lừa đảo, bị oan ức...

- tín thác: dù phải lâm vào cơn khủng hoảng, tác giả Thánh vịnh vẫn một niềm cậy trông vào Chúa. Tâm tình này thường được bắt đầu bằng từ “nhưng” hay “tuy nhiên”...

- khấn xin: tác giả Thánh vịnh xin ơn giải cứu cho dân và xin Chúa hạ gục quân thù.

- lời bảo đảm: lời khẳng định Thiên Chúa nhận lời.

- ngợi khen: ở cuối Thánh vịnh là tâm tình ngợi khen, ngược lại với nỗi âu lo thất vọng được trình bày ở đầu.

Như thế, trong mỗi Thánh vịnh theo thể loại này, có ba nhân vật: tác giả Thánh vịnh (người đọc Tv), Thiên Chúa, và kẻ gian ác. Trong lời than thở, tác giả mô tả thật bi thảm nỗi đau của mình và lấy sự vô tội của mình như lý do thúc đẩy Chúa hành động: Chẳng lẽ Chúa là Đấng công chính mà lại để cho kẻ gian ác đàn áp người vô tội như thế sao? Chẳng lẽ Chúa lại để cho Ít-ra-en là dân của Chúa bị quân thù đè bẹp sao? Lời bảo đảm (như đã phân tích ở trên) được nhìn như phán quyết của Chúa, khẳng định Chúa sẽ không để cho sự ác chiến thắng. Tâm tình ngợi khen ở cuối Thánh vịnh diễn tả niềm hy vọng rằng chắc chắn Đức Chúa sẽ hành động.

   a.2. Một vài Thánh vịnh than vãn

v Thánh vịnh 22: Tuy không theo sát lược đồ trên nhưng những yếu tố chính trong thể loại than vãn xuất hiện rất rõ.

 - Than thở: hai lời than thở “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?... Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi...” (câu 2-12) “Nghe cổ họng khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau, chốn tử vong Chúa đặt vào... Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (câu 13-22).

 - Tín thác “Thế nhưng Chúa ngự nơi đền, vinh quang của Ít-ra-en là Ngài” (câu 4-6) và “Đưa con ra khỏi thai bào, vòng tay mẹ ẵm Chúa trao an toàn...” (câu 10-12).

  - Khấn xin “Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau lạy Chúa, xin đừng đứng xa” (câu 20-22).

   - Ngợi khen “Con nguyện sẽ loan truyền Danh Chúa... Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Ngài đi” (câu 23-32).

Với người Kitô hữu, Thánh vịnh này không thể không làm ta nhớ đến Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn, những lời Ngài kêu lên từ thập giá, “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46), và những sự kiện được các thánh sử kể lại, “chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau” (Mc 15,24). Có lẽ khi bị đóng đinh trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng Thánh vịnh này, một Thánh vịnh được bắt đầu bằng những lời than vãn dường như tuyệt vọng nhưng kết thúc với tâm tình trọn vẹn tín thác, cậy trông. Chúng ta lại không thể lấy Thánh vịnh này làm lời cầu nguyện tuyệt vời những khi phải sa cơn thử thách sao?

v   Thánh vịnh 51 (Thánh vịnh sám hối): Thánh vịnh có hai phần dài gần như nhau: câu 3-10 và 11-19, và phần kết (20-21). Có thể gặp ở đây những yếu tố cụ thể trong thể loại than vãn.

 - Tiếng kêu lên Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con” (câu 3).

  - Than vãn: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm...” Thánh vịnh mô tả tình trạng tội lỗi cách sâu sắc, “Ngài thấy cho, lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai...” (câu 5-7).

   - Tín thác: ý thức mình tội lỗi nhưng luôn vững một niềm cậy trông vào Chúa, “nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan” (câu 8).

  - Khẩn cầu: “Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỉ... Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi, và xoá đi hết mọi lỗi lầm” (câu 10-11). Lời khẩn cầu rất sâu xa và phong phú vì không chỉ ngưng lại ở việc xin tha tội nhưng còn xin được ở gần Chúa, sống nhờ quyền năng Chúa (câu 12-13). Nhờ đó có được niềm vui (câu 14) và trở nên chứng nhân cho đường lối Chúa giữa các tội nhân (câu 15-16)

  - Ngợi khen: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài...” (câu 17-19).

Đây là một trong những Thánh vịnh nổi tiếng nhất và được nhiều người biết đến. Người Kitô hữu thường đọc và suy niệm Thánh vịnh này trong mùa Chay, mùa trở về, mùa sám hối. Suy niệm Thánh vịnh này giúp ta hiểu và sống tâm tình sám hối chân thật, không chỉ ngừng lại ở những dằn vặt về tội lỗi nhưng hướng nhìn lên Chúa là Tình yêu, quyết tâm trở về với Chúa và trở nên nhân chứng tình yêu của Chúa.

2. Nguồn gốc và tác giả Thánh vịnh

         Nguồn gốc các thánh vịnh là các tuyển tập thánh ca của đền Thờ Giêrusalem. Theo truyền thống kể lại vua Đavít đã quy định các nguyên tác của phụng vụ cũng như đã sáng tác toàn bộ các thánh vịnh (trích chú dẫn nhập sách Thánh vịnh, Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước, Giờ Kinh Phụng Vụ)

3. Những chủ đề chính trong Sách Thánh Vịnh

  a. Thiên Chúa

Rõ ràng Thiên Chúa là chủ đề lớn nhất của các Thánh vịnh đến nỗi có thể nói rằng các Thánh vịnh chỉ nói với Chúa và về Chúa. Mọi chủ đề khác cuối cùng cũng hướng về Chúa: thế giới này hiện hữu là do Ngài và phải tôn vinh chúc tụng Ngài; dân Ít-ra-en là dân được Chúa tuyển chọn, dẫn đưa, yêu thương và trừng phạt trong suốt dòng lịch sử; mỗi tín hữu được Ngài dẫn từng bước đi. Quả thật, Thiên Chúa hiện diện trong từng lời, từng chữ của các Thánh vịnh.

Khi nói về Chúa, các Thánh vịnh có thể sử dụng ngôn ngữ như nhân, diễn tả Thiên Chúa bằng những kinh nghiệm và tình cảm của con người. Tuy nhiên đây chỉ là hình ảnh, còn tự thâm sâu, tác giả Thánh vịnh ý thức rõ ràng Thiên Chúa siêu việt trên mọi thụ tạo của Ngài. Tính siêu việt này gắn với tính độc nhất, nghĩa là chỉ một mình Chúa là Thiên Chúa. Hẳn nhiên có những cách diễn tả như Thiên Chúa siêu việt trên các thần (Tv 136,2-3; 97,7-9), hoặc nói đến những hữu thể thiêng liêng, có khi nói đến những hữu thể thần linh (Tv 8,6), nhưng toàn bộ sách Thánh vịnh cho thấy khẳng định độc thần giáo rất rõ ràng. Còn về quỷ, trong văn bản Híp-ri, quỷ không bao giờ được gọi tên rõ ràng nhưng chỉ được diễn tả là thù địch của Chúa, là những quyền lực xấu xa đe doạ và bách hại các tín hữu.

Một đàng, Thiên Chúa siêu việt trên các loài thụ tạo; đàng khác, Ngài lại liên hệ gần gũi với thụ tạo của Ngài. Ngài quan phòng lo liệu không những cho thế giới vật chất này có trật tự, mà còn để bảo vệ sự công bằng trên trái đất. Với người công chính, Ngài là Đấng bảo vệ và trả thù thay cho họ; với người tội lỗi có lòng hối cải ăn năn, Ngài là chốn nương thân; với kẻ nghèo hèn khiêm tốn, Ngài là lòng thương xót, từ tâm và nhân hậu.

  b. Ơn cứu độ

Thiên Chúa hứa ban Ơn Cứu độ cho con người, nghĩa là một ngày nào đó Ngài sẽ can thiệp để bảo đảm sự chiến thắng của người công chính trên kẻ bất lương, và khai mạc triều đại của Ngài trong một thế giới mới. Lời hứa này chưa rõ nét trong những bản văn xa xưa, nhưng ngày càng rõ ràng hơn. Ơn Cứu độ sẽ đến tại Xi-on, núi thánh của Chúa. Ơn Cứu độ sẽ đến từ dòng dõi Đavít. Rõ hơn nữa, ngày nào đó, một người thuộc dòng dõi Đavít sẽ là Đấng Mêsia, vừa là Vua vừa là Tư tế, và sẽ thực hiện nơi chính bản thân mình tất cả mọi lời tiên tri. Đấng Mêsia đó sẽ bị bách hại nhưng Người sẽ chiến thắng. Người sẽ là vị vua hoà bình, mang nơi mình mọi nhân đức của vị vua lý tưởng, với trách nhiệm chăn dắt và xét xử toàn thế giới. Những mô tả về thời đại Đấng Mêsia cho ta thoáng thấy một triều đại mới, khi các dân tộc tuôn đổ về Xi-on và phủ phục trước Thiên Chúa của Ít-ra-en.

  c. Con người

Trước nhan Thiên Chúa, con người thật nghèo nàn và đáng thương. Trong rất nhiều Thánh vịnh, con người cất tiếng than van về nỗi khốn cùng của mình. Nhưng con người không bị bỏ rơi trong tuyệt vọng. Nhờ cầu nguyện, họ đón nhận phúc lành và sự đỡ nâng của Đấng Tạo hoá. Thiên Chúa giải thoát họ và họ dâng lời chúc tụng tạ ơn Ngài. Đời sống luân lý hệ tại việc thực thi công chính, tuân giữ Lề luật, và tham dự việc thờ phượng. Những việc này không đối kháng nhau; đúng hơn đó là những mặt khác nhau của cùng một lý tưởng. Đền thờ được nhắc đến trong những Thánh vịnh cổ xưa cũng như những Thánh vịnh sau này. Vào thời sau này của Do thái giáo, việc nghiên cứu và suy niệm lề luật chiếm vị trí quan trọng trong đời sống người công chính, nhưng đây cũng không phải là điều gì hoàn toàn mới mẻ; đúng hơn, chỉ là nhấn mạnh một khía cạnh trong tôn giáo của các tổ phụ.

  d. Thưởng phạt

Vấn đề thưởng phạt là chủ đề rất quan trọng trong toàn bộ lịch sử tôn giáo của Ít-ra-en, do đó không nên ngạc nhiên khi thấy chủ đề này có mặt trong hầu hết các Thánh vịnh. Phần lớn các Thánh vịnh phản ánh quan niệm truyền thống của dân Israel, cho rằng lòng đạo và hạnh phúc đi đôi với nhau, còn đau khổ dứt khoát là hình phạt cho sự ác. Thế nhưng kinh nghiệm thực tế xem ra lại không như thế, và tác giả Thánh vịnh có thể có nhiều thái độ khác nhau: có khi tác giả khẳng định rằng sự thất bại của người công chính chỉ là thất bại bên ngoài thôi, ngược lại thành công của kẻ tội lỗi chỉ là thành công thoáng qua; có khi chứng kiến sự bất công thì tác giả cảm thấy bất nhẫn và than thở với Chúa, xin Ngài can thiệp; có khi tác giả nói đến sự thưởng phạt của Chúa trong tương lai xa. Tuy nhiên ta nên cẩn trọng khi nói đến niềm tin vào đời sống tương lai được diễn tả trong các Thánh vịnh. Thật vậy, tác giả Thánh vịnh vẫn giữ những ý tưởng truyền thống về chủ đề này, nghĩa là nói đến sheol (âm phủ) như nơi chốn bị lãng quên, xa cách thánh nhan Chúa, chứ không phải là sự phục sinh như ta hiểu ngày nay.

Trên đây là một vài chủ đề lớn trong sách Thánh vịnh, cũng là những mối quan tâm lớn trong đời sống Kitô hữu. Chính vì thế, Thánh vịnh luôn có mặt trong kinh nguyện của Hội Thánh, đồng thời thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và mọi thời.

 

 

 

 

CUỐN SÁCH 24

SÁCH CHÂM NGÔN (Cn)

 

1. Tổng quát

  a. Văn loại

Sách Châm ngôn sử dụng hai thể văn: châm ngôn và giáo huấn. Đặc tính của thể văn châm ngôn là (1) ngắn gọn, (2) khôn ngoan, (3) dễ nhớ, (4) phát xuất từ kinh nghiệm, (5) trình bày chân lý phổ quát, (6) nhằm mục đích thực hành, (7) có giá trị lâu dài. Các Châm ngôn thường được trình bày do những tác giả khuyết danh, như những bài học thế hệ trước để lại cho thế hệ sau. Thể văn giáo huấn (các chương 1-9; 22,17 – 24,23): được trình bày như di sản người cha để lại cho con cái, với những huấn lệnh và những lý do giải thích tại sao phải vâng theo.

  b. Mục đích

Sách Châm Ngôn nhấn mạnh đến cả hai mặt: tri thức và đạo đức. Văn hoá của Ít-ra-en cổ xưa xem “tâm” như là nguồn của suy nghĩ, lý luận và quyết định; do đó những giáo huấn trong sách Châm Ngôn nhắm đến “tâm” chứ không chỉ là trí theo quan niệm ngày nay. Nếu sách Châm Ngôn nhấn mạnh suy nghĩ như là chìa khoá của hiểu biết, thì suy nghĩ ở đây không chỉ được nhìn thuần túy là tư tưởng trừu tượng nhưng phải được thể hiện và đánh giá trong đời sống cụ thể. Vì thế, khía cạnh tri thức luôn song hành với khía cạnh đạo đức. Cách nhìn này khá gần gũi với truyền thống văn hoá Việt Nam.

  c. Thần học của sách Châm Ngôn

Những tư tưởng trọng tâm trong sách Châm ngôn là lý tưởng về đời sống gia đình và lòng hiếu thảo, sự chân thật và ngay chính, quan tâm đến người nghèo, tự chủ và kềm hãm các đam mê. Nguồn gốc và tóm kết của tất cả các nhân đức này là sự khôn ngoan, hiểu như sự kính sợ Chúa và tin tưởng nơi một mình Chúa. Ăn bên trong những lời khuyên này là niềm xác tín rằng sự ác không thể được dung thứ trong trật tự của Thiên Chúa. Chương 1-9 đồng hoá đức khôn ngoan với chính quyền bính của Thiên Chúa. Vì thế, những người trung tín sẽ được chúc phúc và những kẻ bất tín sẽ bị nguyền rủa.

  d.  Sách Châm ngôn có 30 chương gồm các phần chính trong sách Châm Ngôn:

     - Phần I: Những giáo huấn về khôn ngoan (1,1– 9,18)

     - Phần II : Các châm ngôn của Sa-lô-môn (10,1– 22,16)

     - Phần III: Ba mươi lời của hiền nhân (22,17 – 24,22)

     - Phần IV: Sưu tập của Khít-ki-gia (25,1 – 29,27)

    - Phần V: Các lời của A-gua và Lơ-mu-ên (30,1 – 31,31)

Chương

Chương

1. Đề tựa tổng quát – Phần mở đầu những lời huấn dụ Khôn Ngoan

16. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn(tiếp)

2. Những phúc lành do khôn ngoan ban tặng

17. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn(tiếp)

3. Thái độ đối với ĐỨC CHÚA

18. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn(tiếp)

4. Để cho Đức Khôn Ngoan hướng dẫn

19. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn(tiếp)

5. Xa lánh người đàn bà trắc nết - Sống chung thuỷ

20. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn(tiếp)

6. Sự bảo lãnh thiếu khôn ngoan - Người biếng nhác và con kiến - Người xảo trá - Cha tiếp tục nhắn nhủ con

21. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn(tiếp)

7. Cha tiếp tục nhắn nhủ con (tiếp)

22. Sưu tập những lời của Bậc Khôn Ngoan

8. Đức Khôn Ngoan tiếp tục kêu gọi

23. Sưu tập những lời của Bậc Khôn Ngoan (tiếp)

9. Đức Khôn Ngoan tự ca ngợi

24. Sưu tập những lời lời khác của Bậc Khôn Ngoan

10. Lời kêu gọi khẩn thiết

25. Bộ Sưu tập thứ hai các Châm Ngôn của vua Sa-lô-môn

11. Đức Khôn Ngoan mở tiệc đãi khách - Mụ Khờ Dại cũng lên tiếng mời mọc

26. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn (tiếp)

12. Bộ Sưu tập thứ nhất các Châm Ngôn của vua Sa-lô-môn - Châm ngôn của vua Sa-lô-môn

27. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn (tiếp)

13. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn (tiếp)

28. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn (tiếp)

14. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn(tiếp)

29. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn (tiếp)

15. Châm ngôn của vua Sa-lô-môn(tiếp)

30. Châm Ngôn có số

 

31. Lời của Lơ-mu-ên – Người vợ đảm đang.

2. Chương 1-15: Đức Khôn Ngoan

  a. Giá trị của đức khôn ngoan

Mọi hiểu biết và phúc lành đều từ Thiên Chúa mà đến. Khôn ngoan là quà tặng của Thiên Chúa chứ không chỉ là sản phẩm của trí khôn nhân loại. Nói như thế không có nghĩa là khinh thường những nỗ lực tìm kiếm và nghiên cứu nhưng để thấy đâu là điều chính yếu (2,1-11). Đức Khôn Ngoan được nhân cách hoá (8,12-16) và đã hiện diện trước nhan Thiên Chúa như mẫu mực trong ngày Chúa tạo dựng thế giới. Trong Tân Ước, Chúa Giêsu được coi là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (x. Mt 11,19tt; Lc 11,49; 1Cr 1,24-30). Khởi điểm của sự khôn ngoan là lòng kính sợ Chúa (1,7) và trung thành với Chúa (9,1-18). “Đừng khinh thường sự sửa trị của Giavê và đừng nhàm chán lời Người quở mắng. Bởi Giavê quở mắng kẻ Người thương mến, như người cha quở mắng đứa con ông yêu dấu”(3,12).

  b. Những lời cảnh giác

   - Cảnh giác trước đường lối của kẻ vô đạo (2,12-15) từ tư tưởng đến lời nói: “Con sẽ bước đi trong đường kẻ lành, con sẽ giữ nẻo người công chính. Người ngay chính sẽ ở trong xứ sở... còn phường gian ác sẽ bị tiễu trừ khỏi xứ sở”.

  - Cảnh giác trước những phụ nữ lăng loàn (5,1-18): “Môi miệng vợ người khác tiết ra mật ngọt, và lời của nó trơn tru hơn dầu; nhưng rốt cuộc nó đắng hơn khổ ngải và sắc như gươm hai lưỡi. Chân nó bước vào cõi chết, và bước đi đạt thấu âm phủ; nó chẳng màng tới đường sự sống, lạc đường lạc lối nó nào có hay”.

3. Chương 16-31

  a. Châm ngôn của Sa-lô-môn (10,1 – 22,16)

      Đây là phần dài nhất trong sách Châm Ngôn, gồm 375 câu châm ngôn nói về mọi mặt của đời sống. Những câu châm ngôn này được gán cho vua Sa-lô-môn. Những câu châm ngôn liên quan đến cùng một đề tài không được sắp xếp thành một phần riêng nhưng rải rác nhiều nơi. Tuy nhiên cũng có một số phần khá rõ: chương 10-15 chủ yếu là những châm ngôn bàn về sự đối kháng giữa người công chính và kẻ tội lỗi. Chương 16-22 có nhiều lời khuyên cụ thể về sự thành công. Những gợi ý tiếp theo sẽ tập trung vào một vài đề tài đáng được quan tâm.

 b. Thiên Chúa và sự khôn ngoan của con người (16,1-15)

Những châm ngôn của Sa-lô-môn được ghi lại từ chương 10-22, nhưng 15 câu đầu trong chương 16 (16,1-15) là trung tâm điểm. Những câu này bàn đến mối tương quan giữa sự khôn ngoan nhân loại và Thiên Chúa. Thiên Chúa điều khiển mọi khía cạnh của đời sống cũng như những tính toán của con người.

   - Câu 1 xác quyết chính Thiên Chúa đóng vai trò quyết định: “Những mưu tính lòng dạ là của con người, nhưng câu trả lời đến từ Giavê”.

  - Câu 2 và 3 khai triển xác quyết trên: chỉ khi nào để cho Thiên Chúa điều khiển thì dự định của con người mới thành công: “Hãy phú cho Giavê mọi công trình của ngươi, và mọi dự tính của ngươi sẽ được thực hiện”.

  - Câu 5-8 liệt kê những thái độ phải có: khiêm tốn thay vì kiêu ngạo, sống trung tín và tín nghĩa, lánh xa sự dữ dù phải chịu thiệt thòi.

  - Câu 9 tóm kết xác tín: “Lòng người suy tính về đường mình đi, nhưng chính Giavê cho bước chân nên mạnh”.

 -  Những câu châm ngôn này có ý nghĩa gì cho kinh nghiệm sống đức tin của tôi?

  c. Tầm quan trọng của lời nói (18,1-24)

Trong truyền thống trí thức của vùng Cận Đông, lời nói đóng vai trò hết sức quan trọng. Lời nói vừa là khí cụ xây dựng lại vừa là phương thế hủy diệt.. Trong phần Châm Ngôn của Sa-lô-môn, có khá nhiều câu bàn về lời nói:

   - Tai hại của những lời nói “ngu xuẩn”: “Môi miệng người ngu xuẩn đưa đến kiện tụng và miệng nó kêu gọi roi vọt”(18,6). “Miệng người ngu là sự đổ vỡ của nó và môi miệng nó là cạm bẫy cho mạng sống của nó”(18,7). “Kẻ trả lời trước khi nghe, chuốc lấy điên dại và thẹn thùng”(18,13). “Chết và sống đều do cái lưỡi. Những kẻ yêu mến nó sẽ được ăn hoa quả của nó”(18,21).

  - Khi được sử dụng đúng cách, lời nói là sức mạnh của người khôn ngoan. Lời có thể thay đổi con người: “Người vứt bỏ lời sửa trị tự coi nhẹ mình, người nghe lời quở mắng tích lũy thêm hiểu biết”(15,32). Lời có thể chữa lành: “Lời nói không suy xét đâm thủng như lưỡi kiếm, những lưỡi người khôn ngoan làm lành vết thương”(12,18). Phải biết tự chế trong lời nói: “Kẻ giữ miệng, giữ được sự sống, người môi toác hoác đến chỗ diệt vong”(13,3). “Kẻ biết giữ miệng là người hiểu biết, người bình tĩnh là người thông hiểu”(17,28).

   - Thánh Giacôbê Tông đồ cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của lời nói: “Ai không sa ngã trong lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kềm chế toàn thân...Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa. Thưa anh em, như vậy thì không được”(3,2-10).

Kết luận:

Sách Châm Ngôn được gán cho vua Sa-lô-môn. Chắc chắn có nhiều câu châm ngôn trong Sách phát xuất từ vị vua nổi tiếng khôn ngoan này; tuy nhiên Sách này đúng ra là một sưu tập nhiều giáo huấn và châm ngôn từ nhiều thời đại. Như thế Sách này chứa đựng kho tàng minh triết của nhân loại. Điều quan trọng là không chỉ đọc thoáng qua nhưng nên tập trung vào một lời nào đó, rồi suy nghĩ và đối chiếu với kinh nghiệm đời sống của mình. Có như thế, giáo huấn của Sách này mới thực sự mang lại ích lợi cho ta, không những về mặt thiêng liêng mà ngay cả về mặt nhân bản cũng như trong những quan hệ xã hội hằng ngày.

 

CUỐN SÁCH 25

SÁCH GIẢNG VIÊN (Gv)

 

1. Tổng quát

Trong bản dịch Hy Lạp, sách này được gọi là sách Giáo sĩ (Ecclesiastes do từ Hy Lạp có nghĩa là Giáo hội), còn bản Híp-ri gọi là sách Qoheleth và được dịch là Giảng Viên trong tiếng Việt, vì Cô-he-lét có nghĩa là người nói với cộng đoàn. Tác giả sống vào khoảng năm 300-200 trước Công nguyên. Ông là một giáo sư và tác phẩm được coi như suy tư của một triết gia về cuộc sống với những hiểu biết và kinh nghiệm từng trải của chính bản thân tác giả.

Xem ra tác phẩm không có cấu trúc rõ rệt. Để có tầm nhìn tổng quát, Sách Giảng Viên gồm 12 chương, có thể chia ra thành những phần chính:

- Phần đầu (1,1 – 3,15): những suy tư về cuộc sống như sự theo đuổi các mục tiêu để cuối cùng khám phá thất vọng.

- Phần giữa (3,16 – 11,8): những ghi nhận về nhiều đề tài khác nhau, trong đó có nhiều câu châm ngôn.

- Phần cuối (11,9 – 12,8): mang một cung giọng mới. Tác giả khuyến khích người trẻ vui sống. Nhưng cuối cùng, ta sẽ đi tới đâu? Câu hỏi muôn thuở của trái tim con người.

- Phụ trương (12,9-12)

Chương

Chương

1. PHẦN THỨ NHẤT - Lời tựa - Đời sống của vua Sa-lô-môn

7. PHẦN THỨ HAI - Lời tựa

2. Đời sống của vua Sa-lô-môn (tiếp)

8. Số phận

3. Cái chết

9. Khôn ngoan và ngu dại

4. Đời sống tập thể

10. Khôn ngoan và ngu dại (tiếp)

5. Tiền bạc

11. Tuổi trẻ và tuổi già

6. Tiền bạc (tiếp)

12. Lời kết

 

2. Giáo huấn

Cô-he-lét thời trẻ xem ra nuôi lý tưởng rất cao về công bằng và chính trực, thế nhưng kinh nghiệm cuộc sống làm cho ông thất vọng: “Tôi lại còn thấy dưới ánh mặt trời: có sự gian ác ngay tại chốn pháp đình, sự gian ác ngay tại nơi xét xử”(3,16). Tệ hơn nữa, càng lên bậc cao trong xã hội, lại càng tệ hại hơn: “Nếu trong một miền nào, bạn thấy người nghèo bị áp bức, luật pháp và công lý bị chà đạp, thì chớ ngạc nhiên, bởi vì một người làm lớn còn có người lớn hơn canh chừng, và cả hai lại có người lớn hơn nữa”(5,7).

Cô-he-lét nhìn thấy những bất công trong xã hội nhưng ông lại không phải là một tiên tri dám tố cáo bất công cho dù phải chết. Ngược lại ông có vẻ xu thời để sống: “Trong cuộc đời phù du của tôi, tôi đã thấy hết cả: có người công chính bị tiêu vong dù đã sống công chính, có kẻ gian ác lại được sống lâu dù làm điều gian ác. Đừng sống quá công chính, cũng chớ quá khôn ngoan. Tại sao bạn lại huỷ diệt chính mình?”(7,15-16). Tuy nhiên ông không tệ hại đến độ tìm mọi cách chỉ để tồn tại, mà khiêm tốn nhận ra sự thật về thân phận hữu hạn của con người: “Sau khi đã chú tâm tìm hiểu lẽ khôn ngoan, và quan sát công việc mà con người thực hiện cả ngày lẫn đêm không chớp mắt trên mặt đất này, tôi nhận ra tất cả là công việc Thiên Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được thực hiện dưới ánh mặt trời, cho dù có ra công tìm kiếm cũng không khám phá nổi, cho dù người khôn ngoan có nói là đã biết được, thì người ấy cũng không thể khám phá ra”(8,16-17).

Nếu so sánh với sách Gióp, sách Giảng Viên có một cung giọng khác. Ông Gióp cố gắng sống đời tốt lành, và cứ theo giáo huấn truyền thống thì ông phải được hưởng đời sống sung túc với gia đình êm ấm và mọi người kính trọng, nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược, và ông lên tiếng hỏi “tại sao?” Còn Cô-he-lét lại đau khổ từ một góc độ khác. Ông đã đạt được mọi sự mà người đời mơ ước để rồi khám phá “tất cả chỉ là phù vân”(1,2). Dòng đời xem ra vẫn chảy theo nhịp của nó dù con người có làm gì chăng nữa. Sống và chết, chiến tranh và hoà bình, yêu thương và thù hận, mọi sự vẫn diễn ra như những điều không thể tránh được. Vậy cái gì ẩn sau những diễn biến này. Vấn đề căn bản là chúng ta nhận rằng những diễn biến này phải có một ý nghĩa, nhưng lại không tìm ra được ý nghĩa: “Làm lụng vất vả thì được lợi lộc gì? Tôi nhìn thấy công việc mà Thiên Chúa giao cho con người phải gắng sức làm. Thiên Chúa đã làm mọi sự hợp thời đúng lúc. Thiên Chúa cũng ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế con người cũng không thể nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử”(3,9-11). Nói như thế không có nghĩa là không nên sống vì “chỉ những ai còn sống trong cõi dương gian mới có hy vọng mà thôi, vì con chó sống thì hơn con sư tử chết”(9,4). Vì thế, “Cứ ăn cho vui vẻ, uống cho thoả thích, vì Thiên Chúa đã vui nhận những việc bạn làm. Lúc nào cũng hãy ăn mặc cho sang, mái tóc luôn xức dầu thơm phức”(9,7-8). Dẫu sao, tác phẩm vẫn kết thúc bằng cung giọng bi quan: “Và bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi thở Người đã ban cho mình… Phù vân quả là phù vân. Tất cả mọi sự đều là phù vân”(12,7-8). Tác giả không có câu trả lời về thế giới sau cuộc đời này. Chỉ nơi Con Thiên Chúa làm người, ta mới gặp được lời đáp trả.

 

CUỐN SÁCH 26

SÁCH DIỄM CA (Dc)

 

1. Tổng quát

  a. Tại sao sách Diễm Ca lại có mặt trong bộ Thánh Kinh?

Không giống với những Sách khác trong Thánh Kinh Cựu Ước, xem ra sách Diễm Ca không liên quan gì đến lịch sử thánh, lề luật, giao ước hay các tiên tri. Thậm chí không nhắc đến Thiên Chúa nữa. Chúng ta cũng không biết sách Diễm Ca được viết khi nào, ai viết, và với mục đích gì! Vậy tại sao Sách này lại có mặt trong bộ Thánh Kinh? Ngay cả Do thái giáo cũng tranh luận nhiều về vấn đề này. Đến năm 90 Trước Công nguyên, mọi sự được ấn định khi rabbi Akiba đưa ra lý do: Sách này diễn tả cuộc hôn nhân giữa Đức Chúa và Dân Người tuyển chọn. Đồng thời Sách này được trích đọc trong lễ Vượt Qua hằng năm. Kitô giáo cũng chấp nhận như thế, tuy nhiên ít sử dụng trong cử hành Phụng Vụ. Sau này một số đoạn được chọn để đọc vào các dịp lễ kính Đức Maria.

  b. Ý nghĩa sách Diễm Ca

Trong nhiều thế kỷ, cả Do Thái giáo và Kitô giáo đều giải thích nội dung Sách này theo nghĩa biểu tượng chứ không theo nghĩa thể lý và cảm xúc bình thường. Cuộc hôn nhân giữa Đức Chúa và Ít-ra-en hoặc giữa Chúa Kitô và Hội Thánh được coi là chủ đề chính của Sách. Đôi khi trong phụng vụ Kitô giáo, hình ảnh người thiếu nữ trong Sách được hiểu về Đức Trinh nữ Maria. Trong các văn bản của các nhà thần bí, mỗi linh hồn cũng khát khao được kết hợp với Chúa Kitô là người yêu của họ. Giải thích theo nghĩa biểu tượng thế nào còn tùy cách hiểu các bài thơ trong Sách như tỷ ngôn (allegory) hay dụ ngôn (parable). Giải thích theo tỷ ngôn thì từng câu từng chi tiết đều phải mang một ý nghĩa thiêng liêng nào đó. Một số nhà phê bình đề nghị giải thích như một dụ ngôn, nghĩa là toàn bộ câu chuyện (chứ không phải từng câu) mang một ý nghĩa thiêng liêng cho đời sống của ta về mặt cá nhân cũng như cộng đoàn. Sách Diễm Ca gồm có 8 chương:

Chương

Chương

1. Bài ca tuyệt diệu của Sa-lô-môn – Nàng – Bài ca thứ nhất

5. Bài ca thứ tư - Đồng ca

2. Bài ca thứ hai

6. Bài ca thứ năm

3. Bài ca thứ ba

7. Đồng ca

4. Chàng - Nàng

8. Lời bạt – phụ trương

2. Sách Diễm Ca trong cử hành phụng vụ

   Đọc hai bản văn sau đây: - Dc 2,8-14 - Lc 1,39-45

         Nếu chỉ đọc Dc 2,8-14, ta chỉ gặp được ở đây một áng thơ tình vào loại tuyệt tác, với những từ ngữ đầy tình tứ như bạn tình, người đẹp, linh dương, bồ câu; với ngôn ngữ hình ảnh sống động “tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt đã xa lắm rồi…” Nhưng nếu đọc bản văn Diễm ca cùng với trình thuật Luca về việc Mẹ Maria đi thăm bà Ê-li-sa-bét, ta sẽ khám phá một tầng ý nghĩa mới thật sâu sắc và phong phú về Ơn Cứu độ. “Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”(Lc 1,39). Sự việc này xảy ra ngay sau biến cố Truyền tin; vì thế “Mẹ Maria vội vã lên đường” là chính Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng thanh khiết của Mẹ đang vội vã lên đường. Thiên Chúa lên đường đến thăm và đem Ơn Cứu độ đến cho nhân loại mà ở đây Gioan tẩy giả trong lòng bà Ê-li-sa-bét là đại diện. Thế nên bước chân Thiên Chúa quả là bước chân “chàng đang tới, nhẩy nhót trên đồi, tung tăng trên núi”(Dc 2,8). Và tiếng gọi của Thiên Chúa Cứu độ vang lên, “Dậy đi em, bạn tình của anh; người đẹp của anh, hãy ra đây nào”(Dc 2,10); tiếng gọi làm oà vỡ niềm vui khiến Gioan “nhẩy lên” trong bụng mẹ (Lc 1,41). Ơn Cứu độ đã đến, “tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt đã xa lắm rồi. Sơn hà nở rộ hoa tươi, và mùa ca hát vang trời về đây”(Dc 2,11-12).

Trong ánh sáng của trình thuật thăm viếng, bản văn Dc 2,8-14 trở thành bài thơ diễn tả nội dung thần học và kinh nghiệm thần bí, mở đường cho các nhà thần bí như Gioan Thánh Giá sử dụng ngôn ngữ thi ca và hình ảnh của tình yêu hôn nhân để diễn tả kinh nghiệm linh hồn kết hợp với Thiên Chúa. Đồng thời, trình thuật thăm viếng không chỉ đơn thuần là bài giảng về bác ái và phục vụ, dù là bài học rất tốt đẹp và cần thiết, nhưng chuyển tải Tin Mừng Cứu độ muôn dân chờ đợi.

 

CUỐN SÁCH 27

SÁCH KHÔN NGOAN (Kn)

 

1. Tổng quát

Tựa đề nguyên thủy của sách là Sách Khôn Ngoan của Sa-lô-môn nhưng các văn bản La tinh chỉ gọi đơn giản là Sách Khôn Ngoan. Sa-lô-môn không bao giờ xuất hiện trong Sách như tác giả nhưng đại từ “tôi” rõ ràng nhắc đến những hành động của Sa-lô-môn (chương 9). Dựa vào nội dung của Sách, các học giả suy đoán rằng tác giả của Sách là một người Do thái đạo đức, trung thành với Lề luật, học thức cao, biết thi ca và triết học Hy lạp. Sách Khôn Ngoan có lẽ đã được biên soạn vào giữa thế kỷ 1 tức khoảng năm 50 trước Công nguyên. Nơi biên soạn có thể là Ai Cập vì tác giả quan tâm nhiều đến những vấn đề liên quan đến Ai Cập.

Mục đích của sách là nhằm củng cố đức tin của các độc giả Do thái. Một số độc giả là những người đạo đức và tác giả khuyến khích họ giữ vững đức tin giữa những xáo trộn của đời sống. Một số khác xem ra đã bị lung lay trước sức hấp dẫn của triết học Hy lạp, và Sách Khôn Ngoan muốn nhắc họ nhớ lại vẻ đẹp của tôn giáo và niềm tin truyền thống so sánh với niềm tin và tư tưởng của dân ngoại. Đối với những người đã bỏ đạo, Sách Khôn Ngoan kêu gọi họ trở về với Chúa. Cuối cùng có thể có độc giả là dân ngoại, Sách Khôn Ngoan chỉ cho họ thấy sự sai lầm khi thờ phượng các ngẫu tượng.

Sách Khôn Ngoan dạy ta rằng Thiên Chúa hoạt động khắp mọi nơi, biết hết mọi sự, và yêu thương hết mọi loài. Thiên Chúa cũng trừng phạt và ban phần thuởng dù phần thuởng ở đây không nhất thiết là của cải trần gian. Sự ác trong thế gian bắt nguồn từ sự ghen tị của quỷ. Sự khôn ngoan gần như được đồng hoá với Thiên Chúa vì phát xuất từ Thiên Chúa và thực hiện thánh ý Thiên Chúa trong thế giới. Theo đuổi sự khôn ngoan là điều tốt đẹp nhất, và đạt đến khôn ngoan là được đến gần Chúa hơn. Sách Khôn Ngoan cũng dạy rằng con người có linh hồn bất tử; sau khi chết, người công chính sẽ được ở bên Chúa và các Thánh. Tuy nhiên tác giả không nói về sự phục sinh thân xác. Sống công chính là con đường dẫn đến sự khôn ngoan và con người có tự do chọn lựa Chúa hay điều ác.

Sách Khôn Ngoan gồm có 19 chương chia ra ba phần chính:

- Khôn ngoan, phần thuởng của công chính (1,1 – 6,21)

- Sa-lô-môn ca tụng sự khôn ngoan (6,22 – 11,1)

- Sự quan phòng của Chúa trong cuộc Xuất hành (11,2 – 19,22)

Chương

Chương

1. Tìm kiếm Thiên Chúa và tránh xa tội lỗi

10. ĐỨC KHÔN NGOAN HOẠT ĐỘNG TRONG LỊCH SỬ - Từ ông A-đam tới ông Mô-sê - Cuộc xuất hành

2. Tìm kiếm Thiên Chúa và tránh xa tội lỗi (tiếp)

11. Chúa nhẹ tay với dân Ai-cập - Lý do khiến Chúa nương tay

3. Số phận của những người công chính và của phường vô đạo

12. Chúa nhẹ tay với Ca-na-an - Những bài học Chúa dạy cho Ít-ra-en - Lại nói về hình phạt Ai-cập

4. Quân vô đạo trước toà phán xét

13. Kết án tội thờ ngẫu tượng - Tôn thờ ngẫu tượng

5. Người công chính được vinh quang, quân vô đạo chịu hình phạt

14. Tôn thờ ngẫu tượng (tiếp)

6. Bậc vua chúa phải tìm kiếm Đức Khôn Ngoan - Đức Khôn Ngoan gặp gỡ con người

15. Ít-ra-en không thờ ngẫu tượng - Người Ai-cập điên rồ khi thờ ngẫu tượng khắp nơi

7. Vua Sa-lô-môn cũng chỉ là phàm nhân - Ca tụng Đức Khôn Ngoan

16. Người Ai-cập điên rồ khi thờ ngẫu tượng khắp nơi (tiếp)

8. Ca tụng Đức Khôn Ngoan (tiếp)

17. Người Ai-cập điên rồ khi thờ ngẫu tượng khắp nơi (tiếp)

9. Lời cầu xin cho được Đức Khôn Ngoan

18. Đe doạ bị tận diệt trong sa mạc

 

19. Kết luận

2. Lối sống của phường vô đạo (1,16 – 2,24)

Câu mở đầu (1,16) khẳng định gốc rễ của sự ác là chọn lựa của mỗi cá nhân. Phường vô đạo ở đây có thể hiểu về Adam và Eva “đã lên tiếng vẫy tay mời thần chết,” nhưng cũng có thể hiểu về con người tội lỗi nói chung. Những từ “bầu bạn, kết giao” cho thấy sự gắn bó với cái ác và trở thành sở hữu của ma quỷ.

2,1-5 nói đến quan niệm của phường vô đạo về cuộc sống và cái chết. Đối với họ, hiện hữu và cuộc sống này chỉ là do tình cờ ngẫu nhiên chứ không do tình yêu của Thiên Chúa (câu 2-3), và chết là hết, không còn gì khác. Quan niệm này phản ánh một số tư tưởng triết học thời đó, nhưng cũng là suy nghĩ của nhiều người ngày nay.

Quan niệm sống đó dẫn đến lối sống buông thả (2,6-9) được mô tả bằng những từ cụ thể: hưởng lấy của đời này, say rượu quý, truy hoan, dấu vết ăn chơi. Điều nguy hiểm nhất là lối sống đó lại trở thành xác tín “đó chính là phần, là số ta được hưởng”(câu 9). Đây chẳng phải là lối sống của nhiều người ngày nay sao? Họ quên rằng cũng giống như mọi thực tại, khoái lạc phải có giới hạn của nó; nếu không chính nó sẽ hủy diệt con người. Sự suy đồi của phường vô đạo còn đi xa đến chỗ triệt hạ người công chính (2,10-20). Chúng chống đối người khôn ngoan (gồm cả người già có kinh nghiệm khôn ngoan) và gạt bỏ lề luật của Thiên Chúa đòi hỏi phải chăm sóc người nghèo khổ và kẻ mồ côi. Câu 12-16 cho thấy động lực tâm lý sâu xa của phường vô đạo khi triệt hạ người công chính, đó là triệt hạ tiếng lương tâm, tiếng nói của chân lý, tiếng nói phê phán và tra vấn lối sống tội lỗi của họ. Phải triệt hạ người công chính để có thể an tâm vui hưởng lối sống tội lỗi của mình.

Câu 17-20 nói đến việc quân vô đạo thử thách người công chính xem có đủ kiên trì trung thành với Chúa không. Khi thử thách như thế, chúng tự đặt mình thành đối thủ của Chúa vì chúng lý luận “Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ nó và cứu nó khỏi tay địch thù”(2,18). Các Kitô hữu đọc những lời này và nghĩ đến Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn của Ngài. Trong phần cuối (2,21-24), tác giả lên tiếng phê phán quan niệm và lối sống của phường vô đạo. Chúng hành động như thế không chỉ vì ngu dốt mà còn vì đã liên kết với quỷ dữ (1,16). Chúng không biết rằng con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Chúa, và vì Thiên Chúa là Đấng bất diệt nên con người cũng được trường tồn bất diệt. Nhưng chỉ vì quỷ dữ ganh tị nên cái chết mới đột nhập vào trần gian. Ở đây tác giả không phân biệt rõ ràng cái chết thể lý và cái chết thiêng liêng.

Những suy tư này được viết cách đây 22 thế kỷ nhưng vẫn mang tính thời sự cụ thể cho con người ngày nay, giúp ta cảnh giác trước những lý lẽ và lối sống được gọi là hiện đại nhưng không thực sự mang lại hạnh phúc và sự sống viên mãn cho con người.

3. Tìm kiếm khôn ngoan (6,1-21)

         Phần mở đầu (câu 1-4) kêu gọi mọi người đang nắm quyền lực trên trái đất. Điều họ phải lắng nghe và thấu hiểu là công việc của họ nằm dưới sự kiểm tra của Thiên Chúa, vì thế họ phải hành xử quyền bính cách công bằng. Cũng như Thiên Chúa đã ban quyền bính cho Đavít và các vua, tác giả khẳng định rằng chính Chúa là nguồn mọi quyền bính của vua chúa. Tư tưởng này được xây dựng trên niềm xác tín vào Thiên Chúa là Chủ của lịch sử, là quan điểm được nhấn mạnh rất nhiều trong Thánh Kinh. Tác giả nhắc lại điều này để cảnh giác những người ngạo mạn, tự coi mình như độc lập hoàn toàn với Thiên Chúa.

Câu 5-8 mô tả án xử của Thiên Chúa. Người không phân biệt sang hèn. Người phận nhỏ còn được thương tình miễn thứ, còn kẻ quyền thế sẽ bị Chúa tra vấn nghiêm ngặt. Đây là cách nhìn khác hẳn với quan điểm quen thuộc của người đời, chỉ đánh giá con người dựa trên sở hữu (quyền lực, tiền bạc...), và coi khinh những người nghèo khổ, cô thân cô thế. Chính vì thế, những người nắm quyền bính cần phải học lẽ khôn ngoan, tức là học sống công chính. Đây cũng là điều khá xa lạ với những người có quyền lực trong xã hội ở mọi nơi mọi thời, vì họ thường tìm cách đạt quyền lực nhờ mánh khoé và thủ đoạn, đồng thời duy trì quyền lực cũng bằng những thủ đoạn độc ác. Giáo huấn của Sách Khôn Ngoan vẫn là những bài học mang tính thời sự cho chúng ta.

Các câu 12-21 mô tả những đặc tính của khôn ngoan và hành trình tìm kiếm khôn ngoan.

  - Khôn ngoan là điều dễ tìm (câu 12). Như thế nếu kẻ ngu si và vô đạo không gặp được là vì họ không muốn, họ chỉ tìm kiếm những điều độc ác.

- Khôn ngoan sẽ có mặt khi ta tìm kiếm (câu 13-14). Kẻ ngu si và vô đạo đã không gặp được khôn ngoan “ngồi ngay trước cửa nhà” vì họ không chịu tìm kiếm.

   - Hành trình tìm kiếm khôn ngoan được tác giả mô tả: ham muốn học hỏi – yêu mến – tuân giữ Lề luật – trường sinh bất tử. Người môn đệ của Chúa Giêsu có thể học được ở đây con đường theo Thầy Chí thánh là “sự khôn ngoan của Thiên Chúa”. Con đường theo Chúa cũng được dệt bằng niềm khao khát, tình yêu, tuân giữ Lời Chúa, và nên đồng hình đồng dạng với Chúa.

4. Sự quan phòng của Thiên Chúa trong cuộc xuất hành (11,2 – 19,22)

Đây là phần thứ ba trong sách Khôn Ngoan và mục đích của phần này là muốn chứng minh sự khôn ngoan đã bảo vệ dân Ít-ra-en như thế nào trong cuộc xuất hành. Tác giả đã làm việc này bằng cách nêu ra những tương phản, cho thấy những sự vật Chúa dùng để phạt quân thù lại là những sự vật mang điều lành đến cho Dân Chúa.

Ví dụ thứ nhất là nước (11,6-14). Thiên Chúa đã trừng phạt người Ai Cập bằng thứ nước ô uế (Xh 7,17-24) và đã nuôi sống dân Ít-ra-en  bằng nước thanh khiết (Xh 17,5-7). Nếu Thiên Chúa có trừng phạt Ít-ra-en thì đó là sự trừng phạt mang tính giáo dục của người cha dành cho con cái.

         Ví dụ thứ hai là các loài vật, được nhắc đến trong ba đoạn khác nhau (Xh 11,15-16; 12,23-27; 15,18 – 16,15). Người Ai cập bị coi là ngu muội vì đã tôn thờ các loài vật vô tri, vì thế Thiên Chúa đã dùng chính các loài vật đó như rắn rết, cóc nhái, mà trừng phạt họ. Trong khi đó các loài vật lại trở thành phúc lành cho dân Ít-ra-en, ví dụ chim cút đã thành của ăn cho họ trong hành trình sa mạc, rắn đồng chữa lành cho dân chúng. Tuy nhiên tác giả nhấn mạnh họ được cứu không phải do rắn đồng, nhưng “do chính Ngài, Đấng Cứu độ muôn người hết thảy”.

Ví dụ thứ ba là man-na (16,16-29). Thiên Chúa trừng phạt Ai cập bằng mưa đá và lửa, tức là hai yếu tố đối nghịch nhau nhưng lại cùng hoạt động theo ý Thiên Chúa (Xh 9,22-26). Trong khi đó, Chúa lại ban man-na nuôi dân, và man-na được mô tả là “như băng tuyết, chịu được lửa hồng mà không tan chảy”.

Ví dụ thứ tư là bóng tối và cột lửa (17,1 – 18,4). Khi nói đến bóng tối như sự trừng phạt người Ai cập, tác giả nhấn mạnh ý nghĩa luân lý hơn là thể lý (các câu 2-21). Trong khi đó, Thiên Chúa lại ban cho Ít-ra-en cột lửa làm hướng đạo trên con đường xa lạ, làm vầng ô dịu hiền trong cuộc di dân (18,3).

Ví dụ thứ năm là đêm thảm sầu và đêm giải thoát (18,5 – 19,21). Trong đêm Vượt qua, con đầu lòng trong các gia đình Ai cập bị giết chết nhưng con đầu lòng dân Ít-ra-en lại được cứu sống. Đêm đó là đêm kinh hoàng cho người Ai cập nhưng lại là đêm giải thoát cho dân Ít-ra-en (19,1-21).

Tất cả những so sánh trên nhằm tôn vinh sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho dân Ít-ra-en. Bài học mà tác giả muốn mọi người quan tâm là hãy đọc lại lịch sử Ít-ra-en để khám phá sự dẫn dắt khôn ngoan của Chúa và gắn bó với Chúa, đó chính là lối sống khôn ngoan. Đọc lại lịch sử để khám phá sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa vẫn là một trong những cách thế hữu hiệu giúp ta sống đức tin. Có thể nói đây cũng là một trong những nền tảng cho phương pháp được gọi là Kinh nguyện hồi tưởng. Phương pháp này mời gọi ta cầu nguyện bằng cách nhìn lại chính đời mình để nhớ lại những khoảnh khắc đặc biệt ở đó ta cảm nhận sự hiện diện của Chúa cách rõ nét, nhớ lại những con người đã ghi dấu ấn sâu đậm trong đời ta, nhớ lại những biến cố lớn trong cuộc đời, nhớ lại cả những thương tích in sâu trong tâm hồn. Tất cả nhằm mục đích giúp ta cảm nhận rõ ràng sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa trong cuộc đời mình, nhờ đó ta đến với Chúa không chỉ bằng những suy nghĩ trừu tượng của trí khôn nhưng với cả con người của mình.

5. Những ngẫu tượng (13,1 – 15,17)

Xen lẫn những suy tư về sự quan phòng của Thiên Chúa, sách Khôn Ngoan nói khá nhiều về việc thờ ngẫu tượng, đáng cho ta quan tâm. Chủ đề này được chia thành hai phần, một là việc thờ phượng thiên nhiên (13,1-9), và hai là việc thờ ngẫu tượng (13,10 – 15,17). Trong phần nói về thờ phượng thiên nhiên, tác giả phê phán “những kẻ ngu si” vì họ thờ phượng những sự vật trong thiên nhiên như lửa và gió, tinh tú và bầu trời, sông nước hay mặt trời mặt trăng... mà không khám phá ra chính Đấng đã làm nên vạn sự, “Nếu chúng có đủ khả năng hiểu biết để có thể nghiên cứu các sự vật trên đời, thì sao lại không sớm nhận ra Đấng chủ tể của những sự vật đó”(13,9). Những phê phán này nhắc ta nhớ lại điều thánh Phaolô đã nói trong Rm 1,18-25, và giáo huấn của Hội Thánh về việc lý trí con người có thể nhận ra Đấng Tạo hoá qua những kỳ công Người thực hiện.

         Ngoài việc thờ phượng thiên nhiên, còn có thứ thờ phượng tệ hại hơn nhiều, đó là thờ phượng những sản phẩm do chính tay con người làm ra (13,11 – 14,11; 15,7-13). Ông thợ mộc hay anh thợ gốm tạc nặn những tượng thần. Rõ ràng là sản phẩm do tay con người làm ra. Tác giả còn phê phán cách cay độc rằng tượng thần đó được làm từ một mẩu gỗ chẳng còn dùng vào được việc gì vì đầy máu đầy mắt (13,13)! Thế nhưng sản phẩm đó lại được con người thờ lạy và khấn xin những điều mà ngẫu tượng đó hoàn toàn không thể đáp ứng, “Với vật không hồn, anh xin sự sống; với vật không kinh nghiệm, anh xin sự giúp đỡ; với vật không đi được nửa bước, anh xin thượng lộ bình an”(13,18). Thật là ngu xuẩn và điên rồ.

Cùng với những lời phê phán việc thờ ngẫu tượng, tác giả đưa ra những suy tư và phân tích sâu sắc về nguồn gốc và hậu quả của việc thờ ngẫu tượng (14,12 – 15,6). Tác giả nhắc đến hai nguồn gốc dẫn đến chỗ thờ ngẫu tượng: người cha mất con nên nặn hình tượng con rồi tôn kính như thần thánh và bắt mọi người phải làm theo (14,12-15); tạc hình tượng những nhà cai trị ở xa rồi cổ võ việc thờ kính ông ta (14,17-20). Hậu quả là một hiểu biết hoàn toàn sai lạc về Thiên Chúa (14,22), và một khi không hiểu biết và tôn thờ Thiên Chúa đích thực, con người để cho mình sa vào sự lôi cuốn của dục vọng với đủ thứ tội ác (14,23-26).

Những suy tư này vẫn còn nguyên giá trị cho cuộc sống con người hôm nay. Trong một thời đại phát triển khoa học kỹ thuật cao như ngày nay, con người không còn thần thánh hoá những sự vật trong thiên nhiên (dù vẫn có một số hình thức mê tín đị đoan). Thế nhưng nhiều người ngày nay lại có khuynh hướng thần thánh hoá những con người bằng xương bằng thịt, ví dụ một nhà lãnh đạo nào đó hoặc một siêu sao điện ảnh! Bên cạnh đó người ta tôn thờ quyền lực và tiền bạc, vốn chỉ là sản phẩm do tay con người làm ra, mà bỏ quên Thiên Chúa Tạo Hoá. Rồi người ta kiếm tìm những nghi lễ huyền bí, những cuộc lễ man rợ (14,23) đến độ thờ cả Satan. Nghĩ cho cùng, tất cả cũng đều phát xuất từ chỗ con người không nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa đích thực, rơi vào sự trống rỗng trầm trọng về mặt tinh thần, và cố gắng tìm những thứ bên ngoài để lấp đầy.

Cùng với tác giả sách Khôn Ngoan, người Kitô hữu tuyên xưng rằng, “Lạy Thiên Chúa chúng con, Ngài tốt lành, chân thật và kiên nhẫn, lấy lòng thương xót mà cai quản muôn loài.... Nhận biết Chúa tường tận là đạt được công chính hoàn hảo, nhìn nhận quyền năng Chúa là đạt được nguồn ơn bất tử”(15,1-3).

 

CUỐN SÁCH 28

SÁCH HUẤN CA

 

I. TỔNG QUÁT

  1. Tác giả

         Phần Lời Tựa nhắc đến tên tác giả là Giêsu, nhưng tên đầy đủ là: “Giêsu, con ông Xi-ra, cháu ông E-la-da”(50,27). Dù biết tên tác giả, ta cũng không rõ lắm về con người của ông, chỉ có thể suy luận từ chính tác phẩm: Ông là người sống đời gia đình, dành thời gian cho việc nghiên cứu và viết lách, có tiếng tăm trong xã hôi. Xem ra ông phê phán giai cấp thượng lưu trong xã hội và tuy không phải là tư tế, ông quan tâm nhiều đến phụng tự.

 2. Ngày và nơi biên soạn

         Các học giả cho rằng tác giả đã biên soạn Sách này vào khoảng năm 180 trước Công nguyên. Về nơi chốn, có người cho là Giêrusalem bởi vì đó là trung tâm văn hóa, tôn giáo cũng như giáo dục. Tuy nhiên có người cho là Alexandria cũng là trung tâm văn hóa và tôn giáo Do thái.

3. Giáo huấn

         Vì Sách Huấn ca khá dài và phức tạp nên cần thấy những chủ điểm của tác giả. Đối với tác giả Thiên Chúa là tất cả, là Thiên Chúa duy nhất, Đấng tạo dựng mọi sự và đưa mọi sự vào trật tự. Thiên Chúa là nguồn mạch thiện hảo, Ngài hành động cách công bằng nhưng cũng tha thứ tội lỗi. Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử và ký kết giao ước đặc biệt với Ít-ra-en. Theo ông, sự sống vẫn tiếp diễn cách nào đó sau khi chết, nhưng phán xét sẽ xảy ra ngay khi con người chết chứ không đợi đến sau khi chết.

         Theo ông, chu toàn luật Môsê chính là sự khôn ngoan lớn nhất. Ông quan tâm đặc biết đến luật phụng tự đến nỗi có thể nói linh đạo của ông là linh đạo mang tính phụng vụ. Khôn ngoan không chỉ là kiến thức mà còn cuộc sống, sống theo Lề Luật. Người nào sống công chính theo Lề Luật sẽ được thưởng, còn kẻ nào lỗi sẽ trừng phạt.

         Một trong những điều gây khó chịu cho nhiều người là giáo huấn của tác giả về phụ nữ (x.9,1-9). Tuy nhiên cần đặt mình vào bối cảnh lịch và văn hóa của thời đại đó để hiểu được ý hướng của tác giả. Sách Huấn Ca gồm có 51 chương:

Chương

Chương

1. TUYỂN TẬP CÁC CHÂM NGÔN - Nguồn gốc khôn ngoan - Lòng kính sợ Thiên Chúa - Khôn ngoan và ngay thẳng

26. Việc buôn bán

2. Kính sợ Đức Chúa trong thử thách gian truân

27. Lời nói - Sự công chính - Giả hình

3. Nghĩa vụ đối với cha mẹ - Khiêm tốn - Kiêu ngạo

28. Thù hận - Cãi cọ - Cái lưỡi

4. Khôn ngoan là nhà giáo dục - E lệ và cả nể

29. Cho vay mượn - Bố thí - Ăn nhờ ở đậu

5. Giàu sang và tự đắc - Cương quyết và tự chủ

30. Giáo dục - Sức khoẻ - Niềm vui

6. Tình bạn - Học tập khôn ngoan

31. Của cải - Tiệc tùng - Rượu

7. Một số lời khuyên - Con cái - Cha mẹ - Các tư tế - Những kẻ nghèo và người đau khổ

32. Tiệc tùng - Về nhà ngay, chớ có la cà - Kính sợ Thiên Chúa

8. Thận trọng thì suy đi nghĩ lại - Truyền thống - Cẩn thận

33. Hoàn cảnh chênh lệch - Sống tự lập

9. Đàn bà con gái - Đối xử với người ta

34. Mộng mơ - Một ngày đàng, một sàng khôn - Các hy lễ

10. Việc cai trị - Những người đáng trọng  - Đức khiêm nhường và lòng chân thật

35. Lề Luật và hy lễ - Thiên Chúa công minh

11. Đừng xem mặt bắt hình dong - Cân nhắc và đắn đo - Coi chừng người gian ác

36. Cầu cho Ít-ra-en được giải thoát và phục hưng

12. Làm ơn làm phúc

37. Bạn bè giả dối - Cố vấn

13. Với đồng trang đồng lứa

38. Nghề thuốc và bệnh tật - Tang chế - Công việc tay chân

14. Hạnh phúc thật

39. Kinh sư

15. Tự do của con người

40. Kiếp người khốn khổ - Một số ngạn ngữ

16. Kẻ gian ác bị nguyền rủa

41. Chết - Số phận phường gian ác

17. Thiên Chúa là thẩm phán - Kêu gọi sám hối

42. VINH QUANG CỦA THIÊN CHÚA – Trong thiên nhiên

18. Thiên Chúa cao cả - Con người chẳng là gì - Suy nghĩ và tiên liệu - Tự chủ

43. Mặt trời - Mặt trăng - Cầu vồng

19. Chống thói ba hoa - Kiểm chứng điều nghe nói - Khôn ngoan thật, khôn ngoan giả

44. Trong lịch sử: Ca ngợi các bậc tổ tiên - Ông Kha-nốc - Ông Nô-ê

20. Nên nói hay làm thinh - Những điều nghịch lý - Người như vậy thật đáng ghét - Tránh ăn nói vụng về - Gian dối - Về sự khôn ngoan

45. Ông Mô-sê - Ông A-ha-ron

21. Các thứ tội - Người khôn kẻ dại

46. Ông Giô-suê - Ông Ca-lếp - Các thủ lãnh - Ông Sa-mu-en

22. Kẻ lười biếng - Những đứa con hư - Khôn ngoan và ngu dại - Tình bạn - Cảnh giác

47. Ngôn sứ Na-than - Vua Đa-vít - Vua Sa-lô-môn - Vua Rơ-kháp-am

23. Những lời nói khiếm nhã - Người đàn bà ngoại tình

48. Ngôn sứ Ê-li-a - Ngôn sứ Ê-li-sa - Vua Khít-ki-gia - Ngôn sứ I-sai-a

24. Diễn từ của Đức Khôn Ngoan - Đức Khôn Ngoan và Lề Luật

49. Vua Giô-si-gia - Các vua và các ngôn sứ cuối cùng - Ông Dơ-rúp-ba-ven và ông Giê-su-a - Ông Nơ-khe-mi-a - Ông Kha-nốc - Các tổ phụ đầu tiên

25. Châm ngôn - Người già - Những điều hạnh phúc - Đàn bà

50. Thượng tế Si-môn - Lời cầu chúc - Chống lại ba dân tộc - Kết luận

 

51. Thánh thi tạ ơn - Thánh thi: Tìm đức khôn ngoan

II. CA TỤNG SỰ KHÔN NGOAN (1,1-29)

   1. Nguồn gốc và đặc tính của khôn ngoan (1,1-8)

         Tác giả đặt những câu hỏi tự nhiên (câu 2,3) để chỉ cho thấy khôn ngoan bắt nguồn từ Thiên Chúa: được ẩn dấu nơi Chúa (c.5), được Chúa tạo nên (c.7)

  2. Khôn ngoan là kính sợ Chúa (1,9-18)

         Kính sợ không phải là sợ hãi của kẻ nô lệ nhưng là tôn kính, sùng mộ, khâm phục trước sợ hiện diện của Thiên Chúa. Kính sợ vừa là khởi đầu vừa là tuyệt đỉnh và viên mãn của sự khôn ngoan. Vì thế, kính sợ Thiên Chúa đem lại niềm vui cho tâm hồn và sự an khang trường thọ. Tác giả dùng cây cối để diễn tả: “Gốc rễ khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, cành là của khôn ngoan là cuộc đời trường thọ” (1,20).

3. Những dấu hiệu của khôn ngoan (1,19-29)

         Khôn ngoan là người kiên nhẫn và tự chủ: kiên nhẫn chờ đợi thời điểm của Chúa, tự chủ vì giận dữ chỉ dẫn đến đỗ vỡ. Người khôn ngoan còn là người ngay thẳng, sống theo Lề Luật: “Nếu con mộ mến khôn ngoan thì hãy tuân giữ các điều răn”(c.26). Cũng vì thế, khôn ngoan không chấp nhận sự tráo trở và giả hình (câu 28,29).

III. NHỮNG LỜI KHUYẾN DỤ CỤ THỂ (10,6-11,28)

- 10,6-18: cội nguồn của kiêu ngạo là xa lìa Thiên Chúa, chỉ biết đến bản thân, khinh thường trật tự Thiên Chúa đã thiết lập, do đó là thứ tôn thờ ngẫu tượng tệ hại nhất.

- 10,19-26: giá trị của con người không hệ tại ở vị trí xã hội nhưng bắt nuồn từ sự kính sợ Thiên Chúa.

- 10:27-11,1: Giai cấp thượng lưu thường khinh khi kẻ nghèo hèn như tác giả khẳng định: “Người hèn mọn mà khôn ngoan có thể ngẩng đầu”.

- 11,2-6: tác giả mượn hình ảnh con ong để khuyên nhủ học trò đừng nên đánh giá con người chỉ dựa vào vẻ bên ngoài.

- 11,7-9: giữ mức trung dung là lời khuyên quen thuộc của người xưa, không bất cập cũng không thái quá, phải cân nhắc và đắn đo trước mỗi hành động.

- 11,10-13: vì Thiên Chúa là nguồn mọi thành công cho nên tín thác vào một mình Thiên Chúa.

- 11,14-19: sự thất bại của những người giàu có và kiêu căng là ở chỗ họ quên rằng chính Thiên Chúa là Đấng điều hành mọi sự.

- 11,20-28: hãy ở đúng vị trí mà Chúa đã trao cho và chu toàn công việc bổn phận của mình: “Trong ngày mệnh chung, trả cho con người theo lối họ đã sống, đối với Đức Chúa là chuyện thật dễ dàng”.

VI. THIÊN CHÚA TỎ MÌNH QUA THIÊN NHIÊN VÀ TRONG LỊCH SỬ (42,15 – 50,29)

  1. Ca tụng Chúa

   a) Ca tụng Chúa trong thiên nhiên (42,15 – 43,35)

Tác giả nói đến nguồn gốc những công trình của Thiên Chúa: “Do lời Đức Chúa mà có những công trình của Người”(42,15), đồng thời con người không thể kể hết mọi kỳ công của Chúa (42,17). Ông liệt kê những kỳ công của Chúa: bầu trời và mặt trời (43,1-5), các hiện tượng trên trời (43,6-12), thời tiết (43,13-23), biển cả (43,24-26). Câu kết “Người là tất cả”(43,27) không có ý diễn tả niềm tin phiếm thần nhưng muốn nói lên tâm tình của tác giả: chiêm ngưỡng kỳ công của Chúa dẫn ta đến tâm tình chúc tụng, ngợi khen “Làm sao đủ sức để tôn vinh Người? Vì chính Người là Đấng Cao cả, vượt trên mọi công trình Người thực hiện”(42,28).

   b) Ca tụng Chúa trong lịch sử (44,1 – 50,29)

Trong phần này, tác giả chúc tụng Chúa vì những việc vĩ đại Chúa đã làm trong lịch sử Ít-ra-en bằng cách kể ra những nhân vật và thời đại cụ thể. Ở đây ta không có một bản tóm lược lịch sử theo nghĩa các biến cố đan kết chặt chẽ với nhau. Tác giả có thể bỏ qua một số chi tiết và đôi khi sắp xếp lại. Cấu trúc của phần này:

Dẫn nhập (44,1-15).

Các tổ phụ (44,16-23).

Môsê, A-ha-ron, Phin-khát (45,1-26).

Giô-suê, Ca-lếp, Các thẩm phán, Sa-mu-en (46,1-20).

Na-than, Đavít, Sa-lô-môn (47,1-24).

E-li-a và E-li-sê (47,25 – 48,16).

Khít-ki-gia và I-sai-a (48,17-23).

Giô-si-gia và các tiên tri (49,1-10).

Các vị anh hùng sau thời lưu đày (49,11-13).

Các vị anh hùng trước lụt Hồng thủy (49,14-16).

Si-môn (50,1-24).

Kết thúc (50,27-29).

    2. Nhận biết Thiên Chúa qua thiên nhiên và trong lịch sử

Thánh Phaolô khẳng định, “Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa thì thật là hiển nhiên trước mắt họ… Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người”(Rm 1,19-20). Thánh Augustino cũng viết những suy tư thật sâu sắc, “Hãy hỏi vẻ đẹp của trái đất, của biển khơi, của khí trời và bầu trời… hãy hỏi tất cả những thực tại ấy. Tất cả sẽ trả lời bạn: ‘Hãy xem đó, chúng tôi quả là đẹp.’ Vẻ đẹp của chúng là một lời tuyên xưng. Ai đã làm ra những cảnh đẹp thiên biến vạn hoá đó nếu không phải là Đấng Toàn mỹ không bao giờ đổi thay” (Thánh Augustino, Bài giảng 241,2).

Có bao giờ bạn dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa khi chiêm ngắm thiên nhiên? Có bao giờ bạn giúp con cái mình cầu nguyện giữa lòng thiên nhiên? Có bao giờ bạn cầu nguyện bằng cách nhìn lại chính lịch sử đời mình?

V. GIÁO DỤC CON CÁI (30,1-13)

    1. Một quan điểm về giáo dục

Muốn giáo dục con cái nên người, phải biết áp dụng kỷ luật: “Thương con thì cho roi cho vọt, sau này sẽ vui sướng vì con”(30,1) và “Khi con còn bé nhỏ, cứ thẳng tay trừng phạt; kẻo nó ra bất trị, chẳng vâng lời nữa đâu”(30,12). Ngược lại, quá nuông chiều sẽ làm cho con cái ra hư hỏng, làm hỏng cuộc đời nó và làm khổ cha mẹ (30,7-11). Giáo dục con cái thành công đem lại niềm vui cho cha mẹ trong cuộc đời tại thế và cả cuộc sống mai sau: “Người cha có chết thì cũng như chưa chết, vì đã để lại đứa con giống như mình”(30,4). Ở đây chưa phải là niềm tin vào sự sống lại, chỉ là sự tồn tại nơi hậu duệ của mình.

   2. Vai trò của kỷ luật trong việc giáo dục con cái

Kỷ luật là đòi hỏi cần thiết trong mọi việc tập luyện: thể thao, sắc đẹp, tri thức. Đối với đời sống thiêng liêng cũng thế, cần có kỷ luật trong việc tập luyện các nhân đức, hình thành những thói quen tốt. Điều nghịch lý ngày nay là người ta nhìn nhận tầm quan trọng và tuân thủ kỹ càng những kỷ luật trong việc tập luyện thân xác và tri thức, nhưng lại cho những kỷ luật trong đời sống đạo đức là cổ hủ và không hợp thời.

Muốn giáo dục con cái nên người, cũng cần áp dụng kỷ luật. Nhiều bậc cha mẹ nhân danh tình yêu để nuông chiều con cái quá mức, không biết rằng làm như thế chỉ mang lại đau khổ cho con cái và cho chính mình. Tình yêu chân thật là nỗ lực đem lại cho con cái những điều tốt đẹp và vững bền nhất. Tình yêu đó thúc đẩy các bậc cha mẹ phải lo cho con cái được một nền giáo dục toàn diện. Chính ở đây, ta thấy được sự cần thiết của kỷ luật. Đồng thời, phải nhìn và áp dụng kỷ luật từ góc độ của tình yêu chân thật, khi đó ta mới có thể giúp con cái thấy giá trị tích cực của kỷ luật trong đời sống của chúng.

 

CUỐN SÁCH 29

SÁCH I-SAI-A ĐỆ NHẤT (Is)

 

Bối cảnh Sách I-sai-a: Từ năm 740 trở đi, Át-sua trỗi dậy ở phương bắc và khởi đầu công cuộc chinh phục. Tất cả các dân vùng Trung Đông cố gắng kháng cự, được Ai-cập là thế lực hùng mạnh khác khích lệ. Trong cuộc tranh chấp này, vương quốc Ít-ra-en, vương quốc phía bắc sẽ bị diệt vong. Thủ đô là Sa-ma-ri sẽ thất thủ và cư dân bị lưu đày năm 720. Năm 736 Ít-ra-en và các nước A-ram láng giêng cố gắng buộc vương quốc Giuđa liên minh với họ để chống lại Át-sua. Thế là A-khát, vua Giêrusalem kêu cứu quân đội Át-sua, mặc dù có lời cảnh cáo của ông I-sai-a. Quân Át-sua sẽ tàn phá Ít-ra-en và A-ram, nhưng chúng sẽ không cướp phá Giuđa. Vào nhưng năm 761-791, Xan-khê-ríp, vua Át-sua đến bắt Giuđa phải khuất phục. Được ông I-sai-a khích lệ, vua Khít-ki-gia kháng cự lại địch thù, và chúng ta mục kích cuộc giải phóng Giêrusalem lẫy lừng kỳ diệu.  Sách ông I-sai-a và các môn đệ ông để lại là tác phẩm quan trọng nhất trong tất cả các sách Ngôn Sứ, được Đức Giêsu và các Tông Đồ của Người thường trích dẫn. Sách I-sai-a được chia ra làm ba phần:

- I-sai-a đệ nhất (chương 1-39): Các lời sấm của I-sai-a

- I-sai-a đệ nhị (chương 40-55): Thu nhập các lời sấm của các ngôn sứ khác, được viết 150 năm sau

- I-sai-a đệ tam (chương 56-66). I-sai-a đệ nhị và đệ tam được viết vào cuối thế kỷ VI trước Chúa Giáng sinh, nghĩa là sau thời ngôn sứ I-sai-a đến hai trăm năm (Sách I-sai-a, Dẫn nhập Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ).

SÁCH I-SAI-A ĐỆ NHẤT

Chương

Chương

1. SẤM NGÔ - Nhan đề - Hạch tội quân giả hình - Than vãn về Giê-ru-sa-lem - Hạch bọn thờ cây thánh vườn thiêng

21. Ba-by-lon (Ba-ben) sụp đổ - Lời sấm về Ê-đôm

2. Hoà bình vĩnh cửu - Oai phong của ĐỨC CHÚA

22. Chống những trò vui nhộn tại Giê-ru-sa-lem - Chống Sép-na

3. Cảnh hỗn loạn tại Giê-ru-sa-lem - Phụ nữ Giê-ru-sa-lem - Nỗi khốn khổ của Giê-ru-sa-lem

23. Chống lại Tia

4. Chồi non của ĐỨC CHÚA -

24. KHẢI HUYỀN - ĐỨC CHÚA phán xét - Bài ca về thành bị phá

5. Bài ca vườn nho - Các lời nguyền rủa - Cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA - Kêu gọi kẻ xâm lăng

25. Thánh thi tạ ơn - Tiệc cánh chung

6. SÁCH ĐỨC EM-MA-NU-EN - ĐỨC CHÚA kêu gọi ông I-sai-a

26. Thánh thi tạ ơn - Thánh vịnh

7. Ngôn sứ I-sai-a can thiệp lần đầu tiên - Báo trước cuộc xâm lăng

27. Vườn nho của ĐỨC CHÚA - Gia ân và trừng phạt - Người Ít-ra-en trở về

8. Ông I-sai-a sinh một con trai - Suối Si-lô-ác và sông Êu-phơ-rát - Sứ mạng ông I-sai-a - Đi trong đêm tối

28. THI CA VỀ ÍT-RA-EN VÀ GIU-ĐA - Chống Sa-ma-ri - Chống cố vấn sai lầm - Dụ ngôn

9. Ơn giải thoát - Các thử thách của vương quốc miền Bắc

29. Nói về Giê-ru-sa-lem - Lời sấm

10. Hạch tội Át-sua - Tin tưởng vào Thiên Chúa - Cuộc xâm lăng

30. Chống đoàn sứ giả được phái qua Ai-cập - Lời sấm khác chống lại phái đoàn - Di chúc - Thiên Chúa sẽ thứ tha - Chống Át-sua

11. Vị minh quân dòng dõi vua Đa-vít - Những người bị phân tán trở về

31. Chống liên minh với Ai-cập

12. Thánh vịnh

32. Vua công chính - Chống đàn bà Giê-ru-sa-lem - Đổ tràn thần khí - Thành quả của đức công minh

13. SẤM NGÔN VỀ CÁC DÂN NGOẠI - Về Ba-by-lon (Ba-ben)

33. Ơn cứu độ người người mong đợi - Trở về Giê-ru-sa-lem

14. Chấm dứt thời lưu đày - Cái chết của vua Ba-by-lon - Hạch tội Át-sua - Hạch tội người Phi-li-tinh

34. Xử tội Ê-đôm -

15. Hạch tội Mô-áp

35. Giê-ru-sa-lem toàn thắng

16. Lời thỉnh cầu của người Mô-áp - Mô-áp than vãn

36. Cuộc xâm lăng của vua Xan-khê-ríp

17. Hạch tội Đa-mát và Ít-ra-en

37. Cầu cứu ngôn sứ I-sai-a - Viên chánh chước tửu trở về - Ông I-sai-a can thiệp - Lời sấm liên quan tới Át-sua

18. Hạch tội dân Cút

38. Vua Khít-ki-gia lâm bệnh và được khỏi - Bài ca của vua Khít-ki-gia

19. Hạch tội Ai-cập - Ai-cập hối cải

39. Phái đoàn Ba-by-lon (Ba-ben)

20. Hạ thành Át-đốt

 

I. Tổng quát (chương 1-7)

1, 1-31 : Dẫn nhập: Hạch tội dân bội bạc và giả hình (1,2-8).

Lời sấm về sự thờ phượng đích thực (1,10- 16). Kêu gọi hoán cải (1, 18-20). Đe doạ hình phạt (1,21-31).

2, 2-5: Tương lai của núi Xi-on

2, 6-22: Ngày của Đức Chúa

3, 1-26: Cảnh hỗn loạn tại Giêrusalem và hình phạt cho các phụ nữ.

4, 2-6: Số sót (chồi non của Đức Chúa)

5, 1-7: Bài ca vườn nho

5, 8-30: Tố giác những lạm dụng xã hội và những người lãnh đạo.

6, 1-13: Ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a

7, 1-25: Lời tiên tri về Em-ma-nu-en

1. Ơn gọi của triên tri I-sai-a

  a. I-sai-a “thấy” Chúa (6,1)

Đây là khẳng định đơn giản nhưng hết sức mạnh mẽ vì trong Thánh Kinh, con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa mà có thể sống sót nổi (x.Xh 33,20). Khẳng định này làm nổi bật uy quyền của lời tiên tri, vì lời đó không dựa vào sự khôn ngoan của người đời nhưng trực tiếp đến từ Thiên Chúa (x.1Cr 2,1-5).

  b. Đấng Thánh của Ít-ra-en

I-sai-a trình bày Thiên Chúa là Đấng cực thánh (6,3) và con người cần đặt trọn niềm tin vào Ngài: “Nếu các ngươi không vững tin, các ngươi sẽ không đứng vững”(7,9). Đối diện với Thiên Chúa chí thánh, con người cảm nhận sâu sắc thân phận tội lỗi và ô uế của mình (6,4) (đối chiếu Lc 5, 1-10). Vì thế, cần được Thiên Chúa thanh tẩy (6,5).

  c. Sự đáp ứng của I-sai-a

Trước tiếng gọi của Thiên Chúa “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” I-sai-a đáp trả rất nhiệt tình: “Lạy Chúa, này con đây, xin Chúa sai con”(6,8). Thiên Chúa cũng kêu gọi và trao phó sứ mạng cho bạn, bạn đã đáp trả thế nào trước tiếng gọi của Chúa?

2. Lời tiên tri về Em-ma-nu-en (7, 10-17)

  a. Lời tiên tri (7, 13-17)

Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. Từ almah trong tiếng Hípri có nghĩa là thiếu nữ đến tuổi kết hôn, không nhất thiết phải là trinh nữ. Tuy nhiên bản dịch Hi Lạp đã dùng từ parthenos nghĩa là trinh nữ. Thánh sử Mátthêu đã sử dụng từ parthenos này (1,22-23). Đây là nền tảng cho cách giải thích của Kitô giáo về bản văn này như lời tiên tri về việc Đức Maria thụ thai và sinh hạ Chúa Giêsu Kitô.

  b. Ý nghĩa

Trong bối cảnh lịch sử thời vua A-khát, lời tiên tri này là một dấu chỉ hi vọng giữa hoàn cảnh đầy thất vọng, dấu chỉ sự sống giữa những đe doạ và chết chóc. Trong truyền thống Kitô giáo, lời tiên tri này hướng nhân loại đến Chúa Kitô, Đấng đến để xây dựng thế giới mới và nhân loại mới.

3. Bài ca vườn nho (5, 1-7)

  a. Vườn nho

Vườn nho là một trong những hình ảnh và chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh (x. Mt 21,33-42; Mc 12,1-10; Lc 20,9-18). Hình ảnh này hàm chứa nhiều ý nghĩa: (1) nghĩa tự nhiên về mặt canh nông; (2) bản tình ca hát cho người bạn đời, vì thế, hình ảnh “nho dại” ám chỉ sự bất trung trong đời sống hôn nhân; (3) vườn nho còn là biểu tượng cho sự giàu có, nhưng theo mạch văn, sự giàu có không nhất thiết dẫn đến một xã hội công bằng và huynh đệ.

  b. Hình ảnh vườn nho và đời sống đức tin của người Kitô hữu

Một trong những dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu là dụ ngôn về những người thợ làm vườn nho và là những kẻ sát nhân (Mc 12,1-10). Vườn nho ở đây là Nước Trời, là cộng đoàn Dân Chúa, và cũng có thể hiểu là cuộc đời mỗi chúng ta. Chính Thiên Chúa mới là chủ vườn nho, còn mỗi người trong chúng ta chỉ là thợ làm vườn nho, và phải dâng những hoa lợi vườn nho cho Chúa. Nhưng thay vào đó, có thể ta chỉ thu tích hoa lợi hoàn toàn cho bản thân và những tính toán ích kỷ của mình, khước từ quyền làm chủ của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Vậy bạn là ai trong dụ ngôn này? Vườn nho đời bạn đem lại những hoa trái nào? Bạn sử dụng những tài năng và ân huệ Thiên Chúa ban cách nào?

II. I-sai-a chương 8-12 – Tổng quát

8,1-15: Những lời tiên tri về Át-sua

8,16-20: Sứ mạng của I-sai-a

9,1-6: Vị vua mới và ơn giải thoát

9,7 -10,4: Các thử thách của vương quốc miền Bắc

10,5-34: Vai trò của Át-sua

11,1-9: Vị vua lý tưởng

11,10-16: Tái thống nhất Ít-ra-en

12,1-6: Bài ca tạ ơn

1. Lời tiên tri về vị Quân Vương (8,23 – 9,6)

  a. Lời tiên tri trong bối cảnh lịch sử

Đây là lời tiên tri mang tính “mêsia” (cứu thế) vì mô tả vị vua lý tưởng trong tương lai sẽ thiết lập triều đại mới, triều đại hòa bình, công minh và chính trực. Có thể là lời tiên tri về vua Khít-ki-gia, người kế vị A-khát, sẽ lên ngôi năm 725 hay 715 trước Công nguyên. Tuy nhiên, vị vua này lại được mang những tước hiệu đặc biệt, nhất là “Thần linh dũng mãnh” (Tv 2,7) còn cho rằng vị vua này là Người Con được Thiên Chúa sinh ra, Tv 45,7 còn gọi vị vua này là Elohim “Thiên Chúa”. Vì thế, theo lời tiên tri, vị vua này không chỉ là một con người.

  b. Lời tiên tri và phụng vụ Kitô giáo

         Hội Thánh Công giáo chọn đọc lời tiên tri này trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh (bài đọc I: Is 9,1-6; bài Tin Mừng: Lc 2,1-14). Đối chiếu hai bản văn Thánh Kinh trên, ta sẽ thấy cách giải thích của Hội Thánh về lời tiên tri. Đây là lời tiên tri về việc giáng sinh Chúa Giêsu Kitô, Đấng muôn dân mong đợi, Đấng đến thiết lập “vương quốc vững bền, trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời”(Is 9,6). Điều cần ghi nhận là thế giới lý tưởng đó không tùy thuộc vào sức mạnh quân sự nhưng tùy thuộc vào một trẻ thơ không có quyền lực gì cả, nghĩa là một thế giới được xây dựng trên sự công chính và tình thương. 

2. Triều đại của Đáng Mêsia

  a. Lời tiên tri về vị vua lý tưởng (11, 1-9)

Câu 1 cho biết vị vua này xuất thân từ nhà Đavít: “Từ gốc tổ Gie-sê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non”. Câu 2-5 mô tả những đặc điểm của vị vua này: Thần Linh Thiên Chúa sẽ ngự xuống trên gài và ngài sẽ thực hiện tất cả công việc của vị vua công chính. Câu 6-9 mô tả thế giới sẽ được biến đổi dưới triều đại của vị vua này. Thế giới được mô tả bằng những hình ảnh lý tưởng như vườn địa đàng: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng”. Tiên tri I-sai-a mô tả một thế giới lý tưởng, và thế giới đó sẽ trở thành hiện thực khi “sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển”. Nghĩa là phải khước từ những tham vọng bất chính và thiết tha với sự công chính của Thiên Chúa. Thế giới này vẫn còn ở phía trước và không ngừng vẫy gọi chúng ta đi tới. 

  b. Lời tiên tri và phụng vụ Kitô giáo

Hội Thánh Công giáo chọn đọc lời tiên tri này trong Chúa nhật II Mùa Vọng (bài đọc I: Is 11,1-10; bài Tin Mừng: Mt 3,1-12). Liên kết hai bản văn Thánh Kinh này sẽ giúp ta hiểu cách giải thích của Hội Thánh về lời tiên tri của I-sai-a: đây là lời tiên tri về Đấng Mêsia, Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần, sẽ thiết lập Nước Trời. Nước Trời chính là chủ đề lớn bao trùm mọi lời rao giảng của Chúa Giêsu. Nước Trời phải là lý tưởng của mọi Kitô hữu và ta cần cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay từ hôm nay.

3. Thiên Chúa là chủ lịch sử (10,5-43)

  a. Thiên Chúa là Chủ lịch sử

Trong tầm nhìn của I-sai-a, Át-sua là ngọn roi Thiên Chúa dùng để xử phạt dân Ngài (10,5). Tuy nhiên chính Át-sua cũng sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt vì nó đã không phụng sự Đức Chúa mà chỉ biết tiêu diệt: “Ta sẽ trừng phạt hậu quả lòng tự đại của vua Át-sua và con mắt kiêu căng ngạo nghễ của nó”(6-16). Như thế, nếu nhìn lịch sử trên bề mặt, người ta thấy những biến cố này dẫn đến những biến cố khác, nhưng từ tầm nhìn của đức tin, người tín hữu khám phá sự hiện diện của chính Thiên Chúa là Đấng dẫn dắt lịch sử đi đến cùng đích tối hậu của nó.

 b. Sống niềm tin vào Thiên Chúa

Mọi biến cố lịch sử và đời người, chính Chúa là đấng hướng dẫn lịch sử đi tới cùng đích tốt đẹp nhất. Cách nhìn này của đức tin thúc đẩy ta luôn sống tâm tình tin tưởng và phó thác, cả trong những hoàn cảnh nghiệt ngã và khó khăn nhất.

III. Chương 13,1-23,8. Tổng quát : Hạch tội các dân (13,1 – 23,8)

Trong truyền thống, các tiên tri nhiều lần loan báo thảm hoạ đổ xuống các dân tộc. Tuy nhiên lời loan báo này lại mang giá trị tích cực cho những tâm hồn biết lắng nghe. Những lời loan báo này xem ra không có liên hệ gì với chúng ta ngày nay nhưng cũng có thể rút ra một số bài học cho đời sống đức tin.

13,1-22: Ba-by-lon bị tàn phá

14,1-32: Cái chết của vua Ba-by-lon. Hạch tội Át-sua. Hạch tội người Philitinh.

15,1-9: Hạch tội Mô-áp

16,1-14: Dân Mô-áp thỉnh cầu và than vãn

17,1-14: Hạch tội Đa-mát và I-sai-a

18,1-7: Hạch tội dân Cút

19,1-25: Hạch tội Ai Cập và tương lai của Ai Cập

20,1-6: Ngôn sứ ở trần

      21,1-16: Ba-by-lon sụp đổ. Hạch tội người Ả Rập.

     22,1-25: Sự sụp đổ của Giêrusalem. Tranh cãi tại tòa.

1. Sự sụp đổ của Ba-by-lon (14,1-22)

  a. Ý nghĩa

Bài ca của I-sai-a về sự sụp đổ của Ba-by-lon là bài ca nổi tiếng vì đã so sánh vua Ba-by-lon với “Lucifer, con của bình minh”(14,12). Hình ảnh này được rút từ huyền thoại Ca-na-an về các thần Helel và Shahar (Sao Mai và Sao hôm) bị sa xuống từ trời sau cuộc nổi loạn. Trong Kitô giáo, ta nhớ đến sự sa ngã của Lucifer và các thiên thần hầu cận Lucifer (x. Lc 10,18).

Nội dung chính của bài ca này là những kẻ kiêu căng muốn trèo lên thật cao rồi sẽ bị hạ xuống thật thấp. Adam và Eva cũng được liên tưởng đến ở đây, “Ta sẽ vượt ngàn mây, sẽ nên như Đấng Tối cao”(x. 14,14). Hai ông bà đòi nên như Thiên Chúa nhưng cuối cùng bị đuổi khỏi vườn Ê-đen.

   b. Trong tương quan với Tân Ước

Âm vang bài ca này thể hiện rõ nét trong sách Khải Huyền (chương 17-18). Tác giả dùng những hình ảnh biểu tượng để diễn tả sự trừng phạt dành cho đế quốc Rôma vì đã bắt bớ và bách hại các chứng nhân của Chúa Giêsu. Cho đời sống thiêng liêng, bài ca này cũng nhắc nhớ ta về lời Chúa Giêsu, “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc 18,14). Nếu bài ca của I-sai-a lên án lối đi của kẻ kiêu căng thì thư Philipphê 2,5-11 lại trình bày con đường ngược lại: Chúa Giêsu hủy mình ra không, vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh.

2. Tiên tri ở trần (20,1-6)

  a. Sư kiện

Trong ba năm, I-sai-a ở trần và đi chân không (20,3) để nên điềm báo sự sụp đổ của Ai Cập: dân phải đi tù và bị đi đày. Đây là lời cảnh báo cho dân Giuđa và miền duyên hải vì quá cậy dựa vào sự trợ giúp của Ai Cập: “Đâu rồi niềm hy vọng của chúng ta, nơi chúng ta đến ẩn náu để được giúp đỡ hầu thoát khỏi tay vua Át-sua?”(20,6).

  b. Rao giảng Lời Chúa bằng hành động

Các tiên tri không chỉ rao giảng bằng lời nói nhưng còn bằng những hành động biểu tượng, vd. Hsê với cuộc hôn nhân kỳ lạ, Ê-dê-ki-en cũng có nhiều hành động lạ lùng (x.chương 4). Hành động cụ thể có khả năng lôi kéo sự chú ý của người ta và mời gọi họ suy nghĩ.

Kitô hữu cũng phải rao giảng Lời Chúa không chỉ bằng lời nói mà còn bằng cả đời sống. Theo nghĩa thiêng liêng, hình ảnh ở trần và đi chân không có thể giúp ta ý thức đến (1) sự từ bỏ, khó nghèo và khiêm tốn, và (2) sự nương tựa vào một mình Chúa. Đây cũng là những chỉ thị của Chúa Giêsu cho các môn đệ trên đường truyền giáo: “Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy”(x. Mt 10,5-10).

IV. I-sai-a chương 24-39 -  Tổng quát

  24,1 – 27,13: Khải huyền của I-sai-a: mặt đất tan hoang – ngày chung thẩm – tiệc cánh chung – thánh thi tạ ơn – Ít-ra-en được phục hồi.

  28,1 – 33,24: Những tính toán chính trị và Ơn Cứu độ: Sa-ma-ri thất thủ – Số sót – Các ngôn sứ giả – Dụ ngôn về Ơn Cứu độ – Lời sấm về Giêrusalem – Lời tiên tri về Ơn Cứu độ – Lời sấm về Át-sua – Xi-on được giải thoát – Vị vua công chính và ơn giải thoát.

   34,1 – 35,10: Những lời sấm sau lưu đày: lời sấm chống Ê-đôm – Giêrusalem toàn thắng.

   36,1 – 39,8: Những câu chuyện từ thời vua Khít-ki-gia: cuộc xâm lăng của Xan-khê-ríp– Cầu cứu ngôn sứ I-sai-a – Thánh thi tạ ơn – Phái đoàn Ba-by-lon.

1. Cuộc chung thẩm (24,21-23)

  a. Ngày của Chúa

   “Ngày của Chúa” là chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh. Tuy nhiên ở đây có một điểm đặc biệt: Đức Chúa sẽ trừng trị cả đạo binh thiên quốc (các vì sao được coi như các thiên thần, các thần ngoại giáo (Đnl 4,19; Gr 8,2). Chi tiết này làm nổi bật chiều kích vũ trụ của ngày chung thẩm. Câu 21 cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa “đạo binh thiên quốc” và “vua chúa trần gian”: “Trên trời, Đức Chúa sẽ trừng trị đạo binh thiên quốc; dưới đất, Người trừng trị vua chúa trần gian”. Các vua chúa trần gian có vị bảo trợ cho họ trên trời, nhờ đó họ có sức mạnh, đây là ý tưởng quen thuộc thời xưa. Đỉnh cao trong “Ngày của Chúa” là Đức Chúa sẽ hiển trị trên núi Xi-on và vinh quang của Ngài tỏ rạng trước muôn dân (24,23).

  b. Người Kitô hữu và ngày chung thẩm

         Khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Ngài sẽ đưa ra phán quyết chung thẩm dành cho người công chính cũng như kẻ bất lương, “Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này, như chính họ cũng hy vọng, là người lành và kẻ dữ sẽ sống lại”(Cv 24,15), rồi được hạnh phúc vĩnh hằng hay bị kết án muôn đời. Ngày chung thẩm xảy ra lúc nào, chỉ một mình Thiên Chúa biết. Sau cuộc chung thẩm, vũ trụ được giải thoát khỏi cảnh hư nát và được chia sẻ vinh quang với Chúa Kitô, bắt đầu Trời Mới Đất Mới (2Pr 3,13). Vương quốc Thiên Chúa sẽ được hoàn thành và Thiên Chúa nắm toàn quyền trên muôn loài (1Cr 15,28). Niềm tin đó phải hướng dẫn đời sống của ta ngay từ bây giờ, “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách, và sống bình an”(2Pr 3,14).

2. Tiệc cánh chung (25,6-8)

  a. Ý nghĩa

         Bữa tiệc là chủ đề quen thuộc trong Thánh Kinh cũng như trong nhiều truyền thuyết của các dân tộc. Ở đây, bữa tiệc là tiệc mừng sau khi chiến thắng. Tuy nhiên I-sai-a trình bày một số nét đặc biệt: đây là tiệc mừng cho mọi dân tộc, “Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc” – Thiên Chúa sẽ tiêu diệt sự chết đến muôn đời, “Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân” – Thiên Chúa sẽ cất bỏ mọi nỗi đe doạ trên nhân loại, “Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người”.

Gắn với lời loan báo về tiệc cánh chung là thánh thi tạ ơn (26,1-19). Thiên Chúa sẽ trả thù cho người nghèo nhưng sống công chính. Hơn nữa, “các vong nhân sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên; những kẻ nằm trong bụi đất, hãy trỗi dậy, hãy reo mừng”(26,19). Một vài học giả cho rằng câu này là lời khẳng định sớm nhất trong Thánh Kinh về niềm tin vào sự sống lại. Tuy nhiên nhiều nhà chú giải lại cho rằng câu này có ý nói đến sự phục sinh một dân tộc chứ không phải sự phục sinh của những người đã chết. Dù sao, ý tưởng này cũng dọn đường cho niềm tin vào sự phục sinh kẻ chết.

  b. Trong Tân Ước

Trong Kitô giáo, “miền đất không còn nước mắt” được hiểu là thiên đàng, Nước Trời: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất”(Kh 21,4). Trong sách Khải Huyền 19,6-10, Khải hoàn ca trên thiên quốc được diễn tả bằng hình ảnh tiệc cưới: “Nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng ... Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên”. Hình ảnh tiệc cưới cũng là hình ảnh quen thuộc trong giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời, “Nước Trời giống như chuyện một vị vua mở tiệc cưới cho con mình...”(x. Mt 22,2-14; Lc 14,16-24).

 

I-SAI-A ĐỆ NHỊ ( Is 40-55 = 16 chương)

Chương

Chương

40. SÁCH AN ỦI DÂN ÍT-RA-EN - Loan báo ngày giải thoát - Thiên Chúa cao cả

48. ĐỨC CHÚA đã tiên báo tất cả - ĐỨC CHÚA đã chọn vua Ky-rô - Thời lưu đày chấm dứt

41. Vua Ky-rô, khí cụ của ĐỨC CHÚA - Tượng thần là hư vô

49. Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ hai - Vui ngày trở về

42. Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ nhất - Bài ca chiến thắng - Ít-ra-en mù quáng

50. Trừng phạt Ít-ra-en - Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ ba

43. ĐỨC CHÚA phù trợ và giải thoát Ít-ra-en - Chống lại Ba-by-lon (Ba-ben) - Những điềm thiêng dấu lạ trong cuộc xuất hành mới

51. Ít-ra-en được tuyển chọn và giáng phúc - Đức công chính của Thiên Chúa ngự trị - ĐỨC CHÚA thức dậy - ĐỨC CHÚA an ủi dân Người

44. Thiên Chúa giáng phúc cho Ít-ra-en - Chỉ có một Thiên Chúa - Tượng thần là hư vô - Trung thành với ĐỨC CHÚA

52. Giê-ru-sa-lem được giải thoát - Tiên báo ơn cứu độ - Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ tư

45. Vua Ky-rô, khí cụ của Thiên Chúa - Cầu nguyện - Quyền tối thượng của ĐỨC CHÚA

53. Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ tư (tiếp)

46. Ba-by-lon (Ba-ben) thất thủ

54. Giê-ru-sa-lem được phục hồi - Giê-ru-sa-lem mới

47. Ai ca khóc Ba-by-lon (Ba-ben)

55. Lời mời gọi cuối cùng - Kết luận

 

1. Chương 40-48

Câu hỏi đặt ra là tại sao đã đọc sách I-sai-a từ trước, bây giờ lại quay lại? Bắt đầu từ I-sai-a 40,1 chúng ta được đưa vào bối cảnh mới là thời điểm chấm dứt cuộc lưu đày Ba-by-lon (539 trước Công nguyên), và những lời sấm được trình bày trong những chương sau này mang một cung giọng khác với các chương 1-39. Vì thế những chương sau này được gọi là I-sai-a II hay Sách an ủi. Các chương sau này có thể được chia thành hai phần chính: phần thứ nhất (40-48) chủ yếu nói đến cuộc giải thoát khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lon, phần thứ hai (49-55) nói về việc khôi phục Xi-on. Một số chủ đề lớn sẽ được đề cập tới ở đây.

 a. Loan báo ngày giải thoát (40,1-11)

Chủ đề chính ở đây là sự giải thoát Ít-ra-en khỏi cảnh lưu đày. Trong sách Ét-ra chương 1, biến cố giải thoát này được gán cho Kyrô vua Ba Tư vì ông đã ra chiếu chỉ cho phép dân hồi hương. Nhưng ở đây tiên tri I-sai-a làm nổi bật nguyên do sâu xa của ơn giải thoát là chính Thiên Chúa, Đấng tuyên bố rằng “Thời phục dịch của Giêrusalem đã mãn, tội của Thành đã đền xong”(câu 1). Vì thế, cuộc giải thoát này làm nổi bật quyền năng và vinh quang Đức Chúa. Ai cũng nghĩ Ba-by-lon hùng mạnh lắm nhưng thực ra cũng không hơn gì hoa cỏ ngoài đồng, chỉ có lời Thiên Chúa đời đời bền vững, “Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua... nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời bền vững”(câu 7-8).

Trong Tân ước, thánh Mátthêu và Gioan trích dẫn Is 40,3 “có tiếng hô trong sa mạc” để áp dụng cho thánh Gioan Tẩy giả (Mt 3,3 và Ga 1,23). Cách trích dẫn này giúp ta hiểu vai trò của Gioan Tẩy giả là loan báo và chuẩn bị cho hành động cứu độ mà Thiên Chúa sẽ thực hiện cho nhân loại nơi Chúa Giêsu Kitô.

  b. Cuộc xuất hành mới (43,14-44,5)

Is 43,15-21 là lời sấm về việc dân Ít-ra-en sẽ được giải thoát khỏi cảnh lưu đày bên Ba-by-lon, và lời sấm này được xây dựng dựa trên biến cố Xuất Hành: “Đây là Lời Đức Chúa, Đấng đã vạch một con đường giữa đại dương, Một lối đi giữa sóng nước oai hùng, Đấng đã cho xuất trận. Nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng: Tất cả đã nằm xuống và không còn trỗi dậy, Đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn”(43,16- 17).

Xuất hành là biến cố trung tâm của lịch sử Ít-ra-en, cũng là tâm điểm niềm tin của Ít-ra-en. Qua cuộc Xuất hành, Thiên Chúa tạo dựng dân Ít-ra-en. Nhưng trong lời sấm của tiên tri I-sai-a, dân Ít-ra-en được nhắc nhớ: “đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước” vì “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy sao?”(43,17). Như thế, Xuất hành không chỉ là biến cố của quá khứ mà là biến cố của hôm nay. Xuất hành trở thành mẫu mực cho hành động của Thiên Chúa trong lịch sử và trong từng giây phút hiện tại. Điều quan trọng không phải là những gì Thiên Chúa đã làm thời Môsê mà là những gì Thiên Chúa làm hôm nay. Vì vậy I-sai-a khuyến khích ta đọc lại câu chuyện Xuất Hành để áp dụng cho chính hoàn cảnh hiện tại.

  c. Cuộc xuất hành và đời Kitô hữu

Phụng Vụ Chúa nhật V Mùa Chay (năm C) chọn lời sấm trên đây của tiên tri Isaia làm bài đọc I và trình thuật về người nữ ngoại tình (Ga 8,1-11) làm bài Tin Mừng. Việc kết hợp hai bài đọc cho ta một cái nhìn mới về câu chuyện Tin Mừng. Thiên Chúa là Đấng luôn mở cho con người cánh cửa đi về phía tương lai. Ngài đã mở cánh cửa hy vọng cho dân lưu đày, và Ngài cũng mở cánh cửa hy vọng cho người nữ ngoại tình, “Tôi không lên án chị đâu! Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11). Niềm tin vào Thiên Chúa của hy vọng, Thiên Chúa của tương lai không cho phép ta tuyệt vọng trong bất cứ hoàn cảnh nào, không cho phép ta khoá chặt mình trong những mặc cảm tội lỗi, nhưng luôn mời gọi ta đứng dậy và đi về phía đằng trước. Hơn ai hết, thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu sắc chân lý này khi ngài viết, “Tôi chỉ chú ý đến một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích để chiếm được phần thuởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu”(Pl 3,13-14). Đồng thời, trong mối quan hệ với người khác, ta cần học với Chúa cách ứng xử này, là không bao giờ khóa chặt anh em mình trong những định kiến về họ hoặc những lỗi lầm của họ, nhưng phải mở cho họ một cánh cửa đi về phía tương lai. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người biết đối xử với nhau như thế.

Cuộc xuất hành mới mà tiên tri I-sai-a loan báo cho dân lưu đày còn giúp người Kitô hữu ý thức về cuộc xuất hành nội tâm của chính mình. Dân Ít-ra-en đã được giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập nhưng rồi họ lại tiếp tục rơi vào tình trạng nô lệ khác khi họ rời bỏ Thiên Chúa của giao ước để chạy theo các thần ngoại lai. Vì thế họ cần một cuộc xuất hành mới, ban tặng tự do mới, tự do đích thực. Mỗi Kitô hữu cũng có kinh nghiệm tương tự trong đời sống. Đã được trở nên tạo vật mới trong bí tích Thánh Tẩy nhưng ta lại tiếp tục làm nô lệ cho những đam mê và dục vọng xấu. Vì thế ta cần phải tham dự vào cuộc xuất hành mới được hoàn thành trong Chúa Giêsu chịu đóng đinh, cuộc xuất hành ban tặng cho ta sự tự do nội tâm đích thực. Mùa Chay là thời gian đặc biệt hằng năm để ta ý thức và sống lời mời gọi này.

2. Chương 48-55

  a. Người tôi tớ đau khổ (Is 52,13 – 53,12)

Đây là bài ca thứ tư về Người Tôi tớ đau khổ trong sách I-sai-a. Vậy Người Tôi tớ này là ai? Phải chăng là tiên tri Giê-rê-mi-a vì tiên tri Giê-rê-mi-a được mô tả như con chiên bị đem đến lò sát sinh (Gr 12,19), và người tôi tớ đau khổ cũng vậy (Is 53,7). Kinh nghiệm của Giê-rê-mi-a cho thấy một tiên tri phải chấp nhận đau khổ mới có thể chu toàn sứ mạng. Phải chăng Người Tôi tớ là dân Ít-ra-en? Người tôi tớ đau khổ bị giết chết (Is 53,8-9) nhưng rồi sẽ được trường tồn và được thấy hậu duệ của mình. Ít-ra-en cũng thế, coi như đã chết trong cảnh lưu đày nhưng sẽ trỗi dậy như trong thị kiến của Ê-dê-ki-en về cánh đồng xương khô cũng như trong Is. 26.

Truyền thống Kitô giáo vẫn đọc bài ca về Người Tôi Tớ Đau Khổ như lời tiên tri về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Chính vì thế, cùng với trình thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, bài ca này được chọn làm bài đọc I trong Phụng Vụ Thứ Sáu Tuần Thánh. Những chi tiết trong bài ca về Người Tôi Tớ được tái diễn nơi Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn của Người một cách cụ thể. Hãy đọc kỹ bài ca này và chiêm ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá để khám phá mầu nhiệm cứu độ. Chúa Kitô chịu đau khổ vì chúng ta và thay cho ta, nhờ đó ta được chữa lành: “Chính Người đã mang lấy bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng Người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, bị nhục nhã ê chề” (53,4). “Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho ta được chữa lành” (53,5).

Bài ca về Người Tôi tớ đau khổ còn trình bày một cách nhìn mới về đau khổ. Truyền thống lâu dài trong Thánh Kinh vẫn coi đau khổ là hình phạt tội lỗi. Thiên Chúa thưởng phạt nhãn tiền tùy theo đời sống tốt lành hay xấu xa của mỗi người. Quan niệm này vẫn là quan niệm quen thuộc vào thời Chúa Giêsu, được thể hiện qua thái độ của những người Pharisêu, kể cả các môn đệ của Chúa (x. Ga 9,2). Nhưng trong bài ca về Người Tôi Tớ, Người Tôi Tớ phải chịu đau khổ không do tội lỗi của mình mà do Ngài gánh chịu đau khổ của chúng ta (Is 53,4). Như thế, đau khổ có giá trị cứu độ: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính, và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”(Is 53,11).

         Cách nhìn này cũng soi sáng cho linh đạo Kitô giáo về đau khổ. Người Kitô hữu được mời gọi kết hợp với Chúa Kitô trong đau khổ: “Điều quan trọng là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người”(Pl 3,10). Đồng thời, đón nhận đau khổ là cách thế để ta cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa: “Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh”(Cl 1,24).

  b. Chay tịnh (58,1-14)

Sau khi Giêrusalem bị thất thủ năm 586 trước Công nguyên, dân Ít-ra-en có thói quen giữ bốn ngày chay vào các tháng tư, năm, bảy và mười. (x. Dcr 8,18). Tiên tri I-sai-a cho rằng việc giữ chay này không có giá trị nội tâm nào. Ngài không chống đối nghi thức giữ chay nhưng cho rằng chay tịnh đích thực phải liên kết với công bằng xã hội. Câu 6-7 đưa ra những nét chính yếu của tôn giáo đích thực: giải thoát người bị áp bức, nuôi dưỡng kẻ đói nghèo, cho người vô gia cư nương nhờ... Những điều được nói đến ở đây làm ta liên tưởng đến dụ ngôn Ngày Phán Xét Chung (Mt 25,31-46).

Giáo huấn của tiên tri Isaia cũng giúp người Kitô hữu nhìn lại việc giữ chay, vốn là đòi hỏi được nhấn mạnh trong mùa Chay. Chay tịnh đích thực phải bắt nguồn từ trong tâm hồn như Chúa Giêsu dạy, “Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi bí ẩn”(Mt 6,17). Hơn thế nữa, trong ánh sáng của mầu nhiệm thập giá, ta hiểu rằng chay tịnh là sự tập luyện sống mầu nhiệm hủy mình ra không của Chúa Giêsu (x. Pl 2,5-11) để tình yêu được triển nở trong ta. Chính vì thế, trong mùa Chay, việc giữ chay thường được gắn liền với việc cầu nguyện và làm việc bác ái. Hiểu như thế, chay tịnh không chỉ là một nghi thức phải giữ hay một lề luật phải chu toàn nhưng là phương thế huấn luyện đời sống Kitô hữu, không chỉ giới hạn trong mùa Chay nhưng cần trải dài trong suốt hành trình ơn gọi làm người và làm môn đệ Chúa Giêsu.

 

I-SAI-A ĐỆ TAM ( Is 56-66 = 10 chương)

 

1. Tổng quát

Chương 40-55 được viết tại Ba-by-lon khi dân Do thái sắp được hồi hương, còn các chương 56-66 được viết sau đó, phản ánh những vấn đề của cộng đồng Do thái thời hậu lưu đày. Vào thời kỳ này, cộng đồng Do thái bao gồm những người từ nơi lưu đày trở về, lại có những người không bị lưu đày và vẫn ở lại quê hương, và cả những người ở lại Ba-by-lon chứ không trở về quê nhà. Tình hình xã hội bất ổn và phức tạp, đời sống khó khăn… tất cả đều ảnh hưởng đến đời sống đức tin của dân, nhiều người không còn trung thành với niềm tin truyền thống của cha ông, và việc thờ cúng ngẫu tượng có cơ hội phát triển mạnh. Có lẽ tác giả của những chương này là các môn đệ của I-sai-a đệ nhị. Các môn đệ này tạo thành một nhóm đặc biệt trong cộng đoàn thời hậu lưu đày, và họ cho rằng mình có trách nhiệm thực hiện sứ mạng của Người Tôi tớ được nhấn mạnh nhiều trong I-sai-a đệ nhị.

Chương

Chương

56. Lời hứa dành cho người ngoại bang - Các thủ lãnh bất xứng

61. Ơn gọi của ngôn sứ - Tạ ơn

57. Chống lại việc thờ ngẫu tượng

62. Vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem - Kết thúc

58. Cách ăn chay đẹp lòng Thiên Chúa

63. Xét xử các dân tộc

59. Thánh vịnh sám hối

64. Xét xử các dân tộc (tiếp)

60. Vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem

65. Cuộc xét xử tương lai

 

66. Sấm ngôn về Đền Thờ - Diễn từ cánh chung

2. Tin mừng cho người nghèo (61,1-11)

Chương 61 được coi là chương trọng tâm trong I-sai-a đệ tam. Những câu mở đầu rất giống những bài ca về Người Tôi tớ trong I-sai-a chương 42 và 49: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi…” Nhà tiên tri xem mình là người thi hành sứ mạng của Người Tôi tớ. Các tù nhân ở đây là những người bị lưu đày bên Ba-by-lon. Năm hồng ân là năm sabát, theo truyền thống là năm tha nợ và giải thoát nô lệ (x. Đnl 15, so sánh với Lv 25). Việc xức dầu ở đây có lẽ mang tính hình tượng, vì thông thường các tiên tri không được xức dầu, dù 1V 19,16 kể rằng Ê-li-a đã xức dầu cho Ê-li-sê.

Trong văn mạch của I-sai-a đệ tam, bản văn này làm nổi bật mối quan tâm đối với người nghèo, mối quan tâm đã được nhấn mạnh trong chương 58 và 59. Tuy nhiên tầm quan trọng của bản văn này vượt qua khung cảnh lịch sử, và được coi như bản tóm tắt về sứ mạng của mọi môn đệ trong mọi thời đại. Trong Phụng vụ Lễ Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh, cùng với bản văn này, Hội Thánh công bố Tin Mừng Luca 4,17-19, kể lại việc Chúa Giêsu vào hội đường Nadarét, đọc bản văn này trước cộng đoàn và công bố, “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe”.

Mỗi người Kitô hữu cũng có thể đọc và suy niệm bản văn này từ hai góc độ: góc độ của người nghèo đón nhận Tin Mừng, và góc độ của sứ giả loan báo Tin Mừng. Từ góc độ của người nghèo, chỉ khi nào ta đủ khiêm tốn để nhận ra tình trạng nghèo nàn của mình trong đời sống tâm linh, bị giam cầm trong ngục tù tội lỗi, và tâm hồn tan nát vì khổ đau… lúc ấy ta mới khám phá Lời Chúa thực sự là Tin Mừng cho chính mình. Từ góc độ sứ giả loan báo Tin Mừng, bản văn này giúp ta ý thức lại sứ mạng của người Kitô hữu, sứ mạng tiên tri, sứ mạng công bố ơn tha thứ và ơn hoà giải của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta gặp gỡ.

3. Tố cáo hàng ngũ lãnh đạo (56,9 – 57,21)

Các nhà chú giải không hoàn toàn nhất trí về nguồn gốc và ý nghĩa của bản văn này. Một số học giả cho rằng bản văn này đã có từ trước lưu đày vì giống những lời sấm trước lưu đày chống lại việc thờ ngẫu tượng. Nhưng những học giả khác lại cho rằng bản văn nhắm đến hàng ngũ lãnh đạo thời sau lưu đày.  Rõ ràng bản văn lên án những người lãnh đạo lúc đó bằng những từ hết sức mạnh mẽ như “đui mù,” “chó câm,” “chó đói”: “Những người canh gác Ít-ra-en đui mù hết, chẳng hiểu biết gì; cả bọn chúng là lũ chó câm, không biết sủa… lũ chó đói, ăn chẳng biết no… Thế mà chúng lại là mục tử, mục tử chẳng biết phân biệt gì”. Những từ ngữ trên mang tính cực đoan nhằm diễn tả tình trạng tồi tệ lúc đó. Những hình ảnh mà bản văn sử dụng để nói về các nhà lãnh đạo như “người canh gác” (Ed 3,17; 33,1-9), “mục tử” (Ed 34), giúp người đọc đối chiếu trách nhiệm của người lãnh đạo tôn giáo và thực trạng đang diễn ra.

Bản văn này không chỉ là lời tố cáo hàng ngũ lãnh đạo đương thời nhưng còn là lời cảnh giác đối với tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo trong Giáo Hội. Nhà lãnh đạo phải là người canh gác cho dân để phát hiện những mối nguy hiểm đang rình rập và gây nguy hại cho đời sống tinh thần của dân. Nhà lãnh đạo phải là người dám nói lên tiếng nói của sự thật và lên án những gian dối; nếu không, họ sẽ bị kết án là “chó câm”! Nhà lãnh đạo phải là người biết quên mình để phục vụ hạnh phúc của dân chứ không thể lợi dụng dân mà thoả mãn bản thân; bằng không họ chỉ là “chó đói.”

 

CUỐN SÁCH 30

SÁCH GIÊ-RÊ-MI-A (Gr)

 

I. Tổng quát về sách Giê-rê-mi-a

Năm 604 trước Công nguyên, Giê-rê-mi-a đọc cho Ba-rúc là thư ký của ông viết lại những gì ông đã rao giảng trong 23 năm qua (x. chương 36 và 25,1-14). Khi nhà vua đốt đi cuộn sách của Giê-rê-mi-a (36,21-23), Giê-rê-mi-a lại giao cho Ba-rúc viết một cuộn khác (36,32). Các học giả tin rằng phần lớn cuộn sách thứ hai này đã được giữ lại trong các chương 1-20 và chương 25 như ta có ngày nay. Các câu 1-14 trong chương 25 có vẻ như là phần kết của cuộn sách đã viết năm 604. Phần còn lại của sách Giê-rê-mi-a (chương 26-52) gồm những chất liệu mang tính tự thuật về Giê-rê-mi-a (26-44), một tuyển tập những lời sấm chống các dân ngoại (45-51) và chương cuối cùng 52.

Một trong những khó khăn khi đọc sách Giê-rê-mi-a là cuốn sách không được viết theo thứ tự thời gian. Ví dụ, chương 21 nhắc đến cuộc vây hãm Giêrusalem năm 588-587, nhưng đến chương 25, người đọc lại bị lôi về năm 604. Và điều này xảy ra thường xuyên. Phải lý giải thế nào về tình trạng này? Theo các học giả Thánh Kinh, có nhiều tuyển tập về lời giảng của Giê-rê-mi-a, những câu chuyện về cuộc đời vị tiên tri cũng như những bài tường thuật lịch sử về những ngày cuối cùng của vương quốc Giuđa. Khi biên soạn những tài liệu này, thay vì sắp xếp các tư liệu theo thứ tự thời gian, vốn là công việc hết sức khó khăn, người biên soạn cứ xếp tư liệu này nối tiếp tư liệu khác, do đó tạo cảm giác không rõ ràng về thứ tự thời gian. Sách Giê-rê-mi-a gồm có 52 chương:

Chương

Chương

1. Mở đầu - Chúa gọi ông Giê-rê-mi-a

27. Ý nghĩa tượng trưng của cái ách Sứ điệp gửi các vua phương Đông

2. Các lời giảng cổ nhất về việc Ít-ra-en phản bội

28. Tranh cãi với ngôn sứ Kha-nan-gia

3. Trở về với Chúa - Kêu gọi miền Bắc trở về - Dân của Đấng Mê-si-a ở Xi-on

29. Thư gửi người lưu đày - Lời sấm lên án ông Sơ-ma-gia-hu

4. Dân của Đấng Mê-si-a ở Xi-on (tiếp)

30. SÁCH AN ỦI - Lời hứa phục hồi Ít-ra-en

5. Lý do đưa đến cuộc xâm lăng - Cách Thiên Chúa sửa trị

31. Giao ước mới - Giê-ru-sa-lem huy hoàng sau khi được tái thiết

6. Lại nói về cuộc xâm lăng

32. Mua một thửa ruộng để bảo đảm một tương lai hạnh phúc

7. Nền phụng tự đích thực

33. Thêm một lời hứa phục hồi - Định chế cho tương lai

8. Giu-đa là cây nho bị đe doạ - Ngôn sứ than vãn vì nạn đói

34. Chung cuộc của vua Xít-ki-gia-hu - Giải phóng nô lệ

9. Đời sống luân lý ở Giu-đa suy sụp - Khôn ngoan thật - Cắt bì, một bảo đảm giả tạo

35. Gương con cháu Rê-kháp

10. Ngẫu tượng và Thiên Chúa thật

36. Cuốn sách năm 605 - 604

11. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a và những lời giao ước

37. Nhận định tổng quát về triều Xít-ki-gia-hu

12. Hạnh phúc của kẻ gian ác - ĐỨC CHÚA than phiền về cơ nghiệp bị xâm chiếm - Xét xử và cứu độ các dân tộc lân bang

38. Ông Giê-rê-mi-a ở trong hầm nước được ông E-vét Me-léc can thiệp - Cuộc hội kiến cuối cùng giữa ông Giê-rê-mi-a với vua Xít-ki-gia-hu

13. Đai lưng tốt đã trở thành vô dụng - Các vò rượu va chạm vào nhau - Viễn ảnh lưu đày - Cảnh cáo Giê-ru-sa-lem không chịu sám hối - Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

39. Số phận của ngôn sứ Giê-rê-mi-a lúc Giê-ru-sa-lem thất thủ - Sấm ngôn về E-vét Me-léc

14. Đại hạn - Cả ngôn sứ cùng là tư tế

40. Số phận của ngôn sứ Giê-rê-mi-a - Tổng trấn Gơ-đan-gia bị ám sát

15. Tai hoạ chiến tranh

41. Tổng trấn Gơ-đan-gia bị ám sát (tiếp)

16. Cuộc đời ngôn sứ như dấu chỉ - Dân Ít-ra-en bị phân tán trở về - Các nước trở lại

42. Trốn sang Ai-cập

17. Lỗi lầm của Giu-đa trong việc phụng tự - Tin tưởng vào Đền Thờ và ĐỨC CHÚA - Tuân giữ ngày sa-bát

43. Trốn sang Ai-cập (tiếp)

18. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a ở nhà người thợ gốm - Ít-ra-en lãng quên ĐỨC CHÚA - Ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị mưu hại

44. Sứ mạng cuối cùng của ông Giê-rê-mi-a. Người Giu-đa ở Ai-cập và Thiên Nữ Hoàng

19. Cái bình vỡ. Tranh cãi với ông Pát-khua.

45. Lời an ủi ông Ba-rúc

20. Tâm sự của ngôn sứ Giê-rê-mi-a

46. Những lời sấm lên án Ai-cập

21. Câu trả lời cho phái đoàn của vua Xít-ki-gia-hu

47. Lời sấm lên án người Phi-li-tinh

22. Những lời sấm lên án các vua. Lên án vua Sa-lum - Lên án vua Giơ-hô-gia-kim

48. Các lời sấm lên án Mô-áp

23. Vị vua tương lai - Tập sách nhỏ lên án các ngôn sứ giả

49. Lời sấm lên án Am-mon - Lời sấm lên án Ê-lam

24. Hai thúng vả

50. Lời sấm lên án Ba-by-lon - Tội kiêu căng - ĐỨC CHÚA, Đấng cứu chuộc Ít-ra-en

25.  Ba-by-lon, tai ương Đức Chúa gửi đến - Thị kiến cái chén

51. ĐỨC CHÚA lên án Ba-by-lon - Tới hồi kết thúc - Thiên Chúa báo phục - ĐỨC CHÚA hỏi thăm các ngẫu tượng

26. Ông Giê-rê-mi-a bị bắt và bị xử

52. Phụ trương - Thảm hoạ của Giê-rê-mi-a. Ủng hộ vua Giơ-hô-gia-khin

Có thể phân chia sách Giê-rê-mi-a như sau:

Phần I: Ơn gọi của Giê-rê-mi-a (1,1-19).

Phần II: Lời rao giảng của Giê-rê-mi-a từ năm 626 đến 604 (2,1 – 20,18).

Phần III: Những lời tiên tri chống lại các vua và các tiên tri giả (21,1 – 25,38).

Phần IV: Những tư liệu mang tính tự thuật và giao ước mới (26,1 – 33,26).

Phần V: Bất trung và sự tàn phá (34,1 – 39,18).

Phần VI: Bất trung đến cùng (40,1 – 45,5).

Phần VII: Những lời sấm chống lại các dân và kết luận (46,1 – 52,34).

II. Chương 1-12

 1. Ơn gọi của Giê-rê-mi-a (1,1-19)

  a. Bài tường thuật về ơn gọi (1,4-10)

Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi… Ta đặt ngươi làm tiên tri cho chư dân”: Giê-rê-mi-a sử dụng ngôn ngữ tượng hình để nhấn mạnh sứ mạng Thiên Chúa trao cho ông không những trong lịch sử Ít-ra-en mà cả trong lịch sử các dân tộc. “Lạy Đức Chúa là Chúa thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói”: lời này nhắc ta nhớ đến Môsê tìm cách thoái thác những khó khăn của sứ vụ tiên tri (x. Xh 4,10-13). Giê-rê-mi-a biết rằng các tiên tri phải sống cuộc đời đơn độc, phải chấp nhận bị người ta chế giễu và kể cả bách hại; vì thế ông tìm cách tránh né. “Đừng nói ngươi còn trẻ...Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”: Sự nâng đỡ duy nhất mà Giê-rê-mi-a nhận được là lời hứa của Chúa “Ta ở với ngươi”. Đây cũng là lời hứa Chúa dành cho những người Chúa sai đi thi hành sứ mạng Người trao phó (x. Xh 4,12; Gs 1,5; Tl 6,16; 1Sm 3,19; 16,13). Chúa giơ tay chạm vào miệng Giê-rê-mi-a (câu 9): câu này muốn khẳng định rằng những lời Giê-rê-mi-a rao giảng không phải là lời của loài người mà là Lời của Thiên Chúa (so sánh với Is 6,6-7; Ed 3,1-4.10-11). Câu 10 cho thấy sứ mạng của Giê-rê-mi-a không chỉ dành cho dân Ít-ra-en nhưng còn cho các dân khác, và lời rao giảng của ông có cả hai mặt tiêu cực và tích cực, “Hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ để lật, để huỷ để phá, để xây để trồng”. Một đàng, ông loan báo sự chấm dứt giao ước cũ và triều đại hiện hữu của Đavít, nhưng đàng khác ông loan báo giao ước mới và Đavít mới (x. chương 30-33).

Trình thuật ơn gọi này soi sáng cho bạn điều gì cho ơn gọi của mình (ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi gia đình, ơn gọi tu trì)?

  b. Hai thị kiến (1,11-16)

Thị kiến về “cây canh thức”: những cây này nở hoa vào đầu tháng hai. Điều được nhấn mạnh ở đây là chính Chúa đang canh thức để làm cho Lời của Người được hoàn thành. Thị kiến “cái nồi đang sôi... và mặt nồi từ phía Bắc nghiêng xuống” ám chỉ hướng mà quân xâm lăng Ba-by-lon sẽ tấn công Giêrusalem. Bài tường thuật về hai thị kiến được xếp vào phần nói về ơn gọi của Giê-rê-mi-a vì những thị kiến này báo trước việc thực hiện những lời tiên tri của Giê-rê-mi-a về Giêrusalem thất thủ.

  c. Thiên Chúa khích lệ Giê-rê-mi-a (1,17-19)

Những câu này kết thúc trình thuật về ơn gọi của Giê-rê-mi-a. Thiên Chúa nhấn mạnh với vị tiên tri: ông không ở một mình khi đối diện với quân thù (câu 17), chính Chúa sẽ làm cho ông mạnh sức (câu 18) và cuối cùng ông sẽ chiến thắng vì Chúa ở với ông (câu 19). Giê-rê-mi-a rất cần sự khích lệ của Chúa, nhất là trong những lúc chán nản và thất vọng như ta sẽ thấy sau này. Bạn có dám tin vào quyền năng che chở của Chúa trên cuộc đời mình không?

III. Chương 13-23

   1. Tổng quát

Các chương từ 11,1 - 20,18 tiếp tục trình bày những lời tiên tri Giê-rê-mi-a tố cáo và lên án Giuđa. Tuy nhiên những lời tố cáo và lên án này được trình bày bằng nhiều hình thức khác nhằm lôi kéo sự chú ý của Dân Chúa hơn. Cách cụ thể, lời tố cáo và lên án của Giê-rê-mi-a được trình bày qua những bài giảng (các chương 11, 16, 17, 19, 20), một số dụ ngôn (các chương (13, 18, 19), và năm lời tự thú rất nổi tiếng của vị tiên tri.

 2. Những lời tự thú

Tiên tri Giêrêmia có năm lời tự thú (11,18 – 12,6; 15,10-21; 17,12-18; 18,18-23; 20,7-18). Đây là những tâm tình sâu kín vị tiên tri bày tỏ với Chúa về ơn gọi, về sứ mạng, về những đau khổ phải gánh chịu cũng như những giằng co nội tâm của mình. Những đoạn văn này có chiều sâu nội tâm và giá trị giáo huấn đặc biệt. Hãy thử tập trung vào lời tự thú thứ năm (20,7-18). Hầu như tuyệt vọng, vị tiên tri than trách Chúa rằng chính Chúa đã “quyến rũ” ông chấp nhận một sứ mạng vốn chỉ đem đến toàn là tai hoạ và đau khổ, “suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con”. Vì thế, vị tiên tri chán nản đến độ nguyền rủa chính ngày sinh của mình, “tại sao tôi đã không chết ngay trong lòng mẹ, để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi?”... và toan tính rũ bỏ sứ mạng, “Có lần con tự nhủ: tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa”. Thế nhưng chính lúc ấy ông lại cảm thấy Lời Chúa như ngọn lửa thiêu đốt tận xương tủy khiến ông không chịu nổi, “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim”. Dẫu biết rằng sứ mạng tiên tri mang đến quá nhiều đau khổ, Giê-rê-mi-a tin rằng Chúa ở với ông và kẻ thù của ông sẽ không thể chiến thắng. Và với niềm tín thác vào Chúa, ông kêu cầu Chúa trả thù thay cho mình.

Bạn hãy đọc lại những lời tự thú của Giê-rê-mi-a và tâm niệm rằng con đường theo Chúa và làm chứng cho Chúa không phải là con đường dễ dãi. Ai nghĩ rằng đó là con đường dễ dãi, người ấy cần nhìn lại xem mình đang đi trên nẻo đường Phúc âm hay một con đường nào khác! Tuy nhiên, dù khó khăn và đau khổ, ta không cô đơn trên con đường này vì có Chúa đồng hành, và có rất nhiều anh chị em cũng phải kinh qua những khổ đau và thử thách đó như Giê-rê-mi-a và họ đang đồng hành với ta.

3. Các dụ ngôn

Giống như Chúa Giêsu, tiên tri Giê-rê-mi-a hay sử dụng các dụ ngôn khi rao giảng. Hầu hết các dụ ngôn là những câu chuyện được sáng tác, vd. Người Samari nhân hậu, Người con hoang đàng, Người giàu có và Ladarô. Một vài dụ ngôn được thể hiện bằng hành động, vd. Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Khác với tỷ ngôn mang tính so sánh từng chi tiết, mỗi dụ ngôn có một trọng điểm và ta cần khám phá ý nghĩa đó.

- Đai lưng tốt đã trở thành vô dụng (13,1-11): Lưu ý các từ “huỷ diệt” (13,9) và “thắt chặt” (13,11).

- Người thợ gốm (18,1-12: Lưu ý câu “Ta lại không thể làm được như người thợ gốm này hay sao?” (18,6).

- Cái bình vỡ (19,1 – 20,6): Lưu ý hành động Giê-rê-mi-a đập vỡ bình và những lời kèm theo.

4. Giê-rê-mi-a và Chúa Giêsu

Trong lịch sử Ít-ra-en, không có vị tiên tri nào giống Chúa Giêsu cho bằng Giê-rê-mi-a:

- Giảng dạy bằng dụ ngôn,

- Bị chính dân mình ruồng bỏ

- Khóc cho dân

- Bị tù tội, đánh đập và giết chết.

- Thảm kịch của Giêrusalem thời Chúa Giêsu cũng tương tự thảm kịch Giêrusalem thời tiên tri Giê-rê-mi-a.

- Cả Chúa Giêsu và tiên tri Giê-rê-mi-a đã tiên báo sự sụp đổ của Giêrusalem và đền thờ, và cả hai lời tiên tri đều đã ứng nghiệm.

Vì tiên tri Giê-rê-mi-a giống Chúa Giêsu như thế nên nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu đã tự hỏi không biết ông này có phải là Giê-rê-mi-a trở về từ cõi chết không (x. Mt 16,14).

IV. Chương 24-39

1. Tiên tri Giê-rê-mi-a và giáo ước mới (30,1 – 33,26)

Gr 31,1-40 cho thấy Giê-rê-mi-a chịu ảnh hưởng của tiên tri Hô-sê về mặt thần học cũng như về ngôn ngữ và văn phong. Cả hai đều sử dụng ngôn ngữ hình tượng để nhấn mạnh đến tình yêu Thiên Chúa dành cho Ít-ra-en, đồng thời loan báo giao ước mới và vĩnh cửu hoặc cuộc hôn nhân mới và vĩnh cửu (Gr 31,31-34 và Hs 2,18-25).

- Câu 1-6 : loan báo dân sẽ được thoát cảnh lưu đày, nhấn mạnh tình yêu của Chúa: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở

- Câu 7-14 : niềm vui của những người bị lưu đày nay được trở về: “Reo vui lên mừng Gia-cóp, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân

- Câu 15-20 : kêu gọi dân đừng than khóc nữa (qua nhân vật Ra-khen). Thánh Mátthêu cũng dùng hình ảnh này (Mt 2,18). Dân sẽ được thoát cảnh lưu đày, sẽ hối cải, và được Thiên Chúa thứ tha.

2. Giao ước mới (31,31-34)

Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập... Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta...” Đây là lời tiên tri nổi tiếng, làm nền cho giáo huấn thần học của Tân Ước về Giao Ước Mới được thực hiện trong Chúa Giêsu Kitô: “Anh em là bức thư của Đức Kitô được giao cho chúng tôi viết, không phải viết bằng mực đen nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người... Khả năng của chúng tôi là do ơn Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ viết nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống”(2Cr 3,3-6). Cái “Mới” ở đây là hoa trái của giao ước và phương thế mang lại hoa trái đó: chính Chúa và chỉ một mình Chúa đặt vào tâm hồn con người năng lực đáp trả tình yêu của Ngài. Chúng ta gọi là ân sủng. Ân sủng đó được ban cho ta cùng với ơn tha thứ tội lỗi, khi ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu là Đấng đã chết vì yêu thương ta.

3. Tiên tri thật và tiên tri giả (27,1 – 29,32)

Chương 27 trình bày bối cảnh cuộc xung đột giữa tiên tri Giê-rê-mi-a và Kha-nan-gia. Năm 593 trước Công nguyên, vua Xít-ki-gia-hu của Giuđa âm mưu chống lại Na-bu-cô-nô-xo bằng cách mời đại diện các nước Ê-đôm, Mô-áp, Am-mon, Tia và Si-đôn đến Giêrusalem. Dùng một cái ách làm tượng trưng (dụ ngôn bằng hành động), Giê-rê-mi-a loan báo cho vua cũng như các vị đại sứ rằng họ sẽ không thành công nhưng sẽ phải chịu cái ách thống trị của Ba-by-lon.

Trong bối cảnh trên, chương 28 trình bày cuộc đối đầu giữa Giê-rê-mi-a (tiên tri thật của Chúa) và Khan-nan-gia (tiên tri giả). Khan-nan-gia loan báo thành công (28,1-4). Giê-rê-mi-a tố cáo Khan-nan-gia nói sai (28,5-9). Khan-nan-gia tháo cái gông ra khỏi cổ của Giê-rê-mi-a mà ném xuống đất và lập lại lời loan báo về sự thành công (28,10-11). Cuối cùng Giê-rê-mi-a nói tiên tri về cái chết của Khan-nan-gai trong vòng một năm vì “Đức Chúa chẳng hề sai ông, thế mà ông lại làm cho dân này tin vào điều dối trá”.

Chương 29 tiếp tục trình bày cuộc chiến đấu của Giê-rê-mi-a chống lại các tiên tri giả. Trong cảnh lưu đày Ba-by-lon, các tiên tri giả quả quyết với dân rằng họ sẽ sớm được hồi hương nhưng Giê-rê-mi-a phi bác lời tiên tri đó bằng cách gửi cho dân một lá thư. Ngài khuyên dân chấp nhận định cư ở đó (câu 4-6), cầu nguyện cho sự thịnh vượng của Ba-by-lon (câu 7), đừng để các tiên tri giả lường gạt (câu 8-9). Sau đó (câu 10-14) Giê-rê-mi-a đoan quyết với dân rằng sau 70 năm, Chúa sẽ đảo ngược số phận của họ và đem họ về quê hương xứ sở của họ.

4. Làm thế nào để phân biệt tiên tri thật và tiên tri giả?

Hãy đọc Gr 28,7-9 và 29,8-9 và tìm ra một vài dấu hiệu nhận diện tiên tri giả. “Các tiên tri có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và ôn dịch; còn tiên tri nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời tiên tri ấy ứng nghiệm, ông ta mới được nhìn nhận là tiên tri Đức Chúa sai đến thực sự”(28,8-9). “Các ngươi chớ để cho mình bị lầm lạc vì các tiên tri đang ở giữa các ngươi cũng như vì các tay bói toán; đừng tin theo mộng mị các ngươi mơ thấy, bởi vì chúng chỉ nhân danh Ta mà tuyên sấm điều dối trá cho các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng đi”(29,8-9).

V. Chương 40-52

  1. Phần kết sách Giê-rê-mi-a (52,1-34)

   a. Giêrusalem sụp đổ (52,1-16)

Cuộc vây hãm bắt đầu vào tháng giêng năm 588 trước Công nguyên và kết thúc vào tháng 7 năm 587. Binh lính bỏ chạy, bị bắt, vua Xít-ki-gia-hu bị đâm mù mắt... những điều này đã được nói đến ở chương 39,5-7. Một tháng sau, Nơ-vu-dác-a-đan, quan chỉ huy thị vệ của vua Ba-by-lon, đến để giám sát việc phá hủy thành phố và đưa dân đi đày.

  b. Lưu đày (52,24-30)

Đem dân thua trận đi lưu đày là cách thế hiệu quả nhất để ngăn chặn những cuộc nổi loạn có thể bùng phát. Át-sua đã từng làm như thế (x. 2V 17). Lưu đày không có nghĩa là đưa toàn bộ dân chúng sở tại đi, nhưng chỉ đưa những người có thế lực và ảnh hưởng đi vì sự hiện diện của họ có thể khơi dậy các cuộc phản kháng và chống đối. Câu 28-30 đưa ra những con số dân lưu đày thuộc 3 nhóm: năm 597, 587, và năm 582.

  c. Vua Giơ-hô-gia-khin được tha (52,31-34)

Năm 598, Ông vua trẻ này lên nối nghiệp cha mới được 3 tháng thì bị đày sang Ba-by-lon làm con tin. Ông được trả về năm 561. Nhiều người Do thái đang bị lưu đày cũng như đã được về quê hương nhìn vị vua này là vị vua chính thức (chứ không phải vua Xít-ki-gia-hu). Vì thế việc ông ra khỏi tù được coi là dấu chỉ hy vọng cho tương lai. Cách đối xử đặc biệt mà vua Ba-by-lon dành cho vị vua này cũng nhằm nói lên ý nghĩa này: nhắc nhớ cho dân Ít-ra-en lời tiên tri của Giê-rê-mi-a rằng thời lưu đày sẽ chấm dứt và họ sẽ được trở về miền đất quê hương.

2. Tầm ảnh hưởng của tiên tri Giê-rê-mi-a

Giống như Môsê và Chúa Giêsu, Giê-rê-mi-a sống vào thời điểm bước ngoặt của lịch sử, và đóng vai trò cầu nối giữa giai đoạn cũ và giai đoạn mới. Trong thị kiến mở đầu, sứ vụ tiên tri của ngài được mô tả là “để nhổ, để lật, để hủy, để phá, để xây, để trồng” (1,10). Trong thực tế, Ngài đã làm đúng từng chữ như thế. Ngài đã thấy đế quốc Át-sua biến mất khỏi vũ đài lịch sử, và Ba-by-lon bước lên thay thế. Ngài đã loan báo sự sụp đổ của vương quốc Giuđa và giao ước Xi-nai, đồng thời tiên báo việc thiết lập Giao Ước Mới. Ngài đã tuyên bố rằng các vua dòng dõi Đavít bị ruồng bỏ, đồng thời loan báo một Đavít mới. Có thể nói về Giê-rê-mi-a rằng không có ai đóng góp nhiều cho dân tộc mình bằng Ngài nhưng lại là người bị đối xử tệ hại nhất. Tuy nhiên điều quan trọng không phải là những đau khổ Ngài phải chịu, mà là sự phục sinh của một dân tộc. Sự phục sinh này là một trong những kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa lại làm việc qua con người, và Giê-rê-mi-a là người đóng góp tích cực nhất.

Khi Ngài bắt đầu xuất hiện vào năm 626 trước Công nguyên, khó có người Ít-ra-en nào có thể hình dung Giêrusalem sẽ bị vây hãm và Đền thờ bị phá huỷ. Ai cũng nghĩ rằng Thiên Chúa đã tuyển chọn các vua dòng dõi Đavít và đã gắn bó với Giêrusalem, nên Giêrusalem bất khả xâm phạm. Việc họ đánh bại Sennacherib thời I-sai-a lại càng làm cho họ vững tin hơn. Đây là lý do giải thích tại sao họ chống lại Ba-by-lon và đến phút cuối, vẫn hy vọng Chúa sẽ can thiệp và hạ gục vua Ba-by-lon.

Giê-rê-mi-a đã cố gắng chống lại quan điểm tôn giáo sai lầm này. Ngài nhắc cho dân chúng nhớ rằng Thiên Chúa có thể hủy diệt Giêrusalem và ruồng bỏ hàng vua chúa thuộc dòng dõi Đavít. Điều Ngài nhấn mạnh là việc Giêrusalem thất thủ không phải là do đế quốc Ba-by-lon nhưng là công việc của Chúa, và Chúa dùng Ba-by-lon như khí cụ. Thế là ngài bị chế giễu, khinh khi, nguyền rủa. Các tiên tri giả chiến thắng! Thế nhưng khi Ngày của Đức Chúa đến, khi Giêrusalem bị tàn phá, khi vua chúa bị lưu đày... người ta nhớ lại lời của Giê-rê-mi-a. Và lời rao giảng của ngài, những dụ ngôn (bằng lời và hành động) của Ngài được nhìn trong ánh sáng mới. Dân Chúa học được bài học đó đã là đáng quý nhưng phải trả giá quá đắt. Điều đáng mừng là lời tiên tri của Giê-rê-mi-a không dừng ở đó. Bên cạnh thúng vả xấu, còn có thúng vả tốt (24,1-10); bên cạnh lời loan báo hủy diệt, còn có lời hứa hy vọng: “Khi mãn 70 năm, Ta sẽ viếng thăm để trừng phạt Ba-by-lon và dân ấy vì tội lỗi của chúng...”(25,12) và “Người ta sẽ còn tậu nhà cửa, ruộng nương, vườn tược trong xứ này”(32,15). Và những lời loan báo về giao ước mới (31,31-34; 32,40) cũng như lời hứa về một Đavít mới (33,14-26).

Trong cảnh tang thương, người ta nhớ lại lời tiên tri Giê-rê-mi-a và hiểu ra rằng tương lai của dân tộc tùy thuộc vào việc người ta trung thành hay bất trung với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa. Trong ánh sáng đức tin, người ta hiểu được ý nghĩa những biến cố xảy ra. Và đức tin ấy tiếp tục được thắp lên giữa tăm tối của thời lưu đày, trở thành gạch nối giữa một Ít-ra-en đau khổ của lưu đày và một Ít-ra-en được hồi sinh từ nấm mồ lưu đày để bước vào một trang mới của lịch sử Dân Chúa. Giê-rê-mi-a là người đã đóng góp phần tích cực nhất cho lịch sử đó.

 

CUỐN SÁCH 31

SÁCH AI-CA (Ac)

 

1. Bối cảnh lịch sử và tôn giáo

  a. Lưu đày

Trong những năm sau khi Giêrusalem bị tàn phá (587 trước Công nguyên), một số người Do thái bị lưu đày sang Ba-by-lon, số khác chạy trốn sang Ai Cập, số khác nữa vẫn ở lại quê nhà. Vào năm 539, vua Ba Tư là Ky-rô đánh bại Ba-by-lon và thiết lập đế quốc Ba Tư. Một trong những sắc chỉ đầu tiên của ông là cho phép các dân lưu đày được trở về quê hương của họ.

  b. Người Do thái sau lưu đày

Nhiều người đã trở về quê hương nhưng số đông hơn vẫn ở lại trên đất lưu đày (nay đã thành quen thuộc với họ). Những người ở lại tạo thành cộng đoàn tản mác (diaspora), đông nhất là ở vùng Mesopotamia và Ai Cập. Dĩ nhiên có nhiều người đã đánh mất niềm tin truyền thống của cha ông nhưng số đông hơn vẫn trung thành với tôn giáo truyền thống. Trong những năm kế tiếp đó, cộng đoàn Do thái tản mác này đã phát triển mạnh cả về mặt vật chất lẫn đời sống tôn giáo. May mắn cho tương lai tôn giáo của Ít-ra-en là nhiều người lưu đày lại xuất thân từ những gia đình trí thức và có ảnh hường (các tư tế, ký lục và ngôn sứ) nên dân lưu đày vẫn tiếp tục được hướng dẫn nhờ thành phần ưu tú này. Sống trong cảnh lưu đày, họ phải xa đền thờ, do đó đời sống tôn giáo tập trung vào các hội đường và những văn bản được linh hứng. Họ tụ họp trong các hội đường, đọc và nghiên cứu Lề Luật và các tiên tri, rồi cũng trong giai đoạn này xuất hiện các sách như Ai-Ca, Tô-bi-a, Ét-te, Giu-đi-tha, Khôn ngoan, và Ba-rúc.

2. Ai-Ca

 a. Tác giả và thời gian biên soạn

Sách được gọi là “Than vãn của Giê-rê-mi-a” khi tiên tri nhìn thấy sự sụp đổ của Giêrusalem năm 587 trước Công nguyên. Ngài nhìn thấy làn khói bốc lên từ thành phố, nghe thấy tiếng kêu than của phụ nữ, nhìn thấy xác người nằm ngổn ngang trong cảnh hoang tàn. Tuy nhiên không chắc vị tiên tri là tác giả của tất cả các lời than trong Sách. Có thể hai bài thơ đầu là của thị chứng nhân, còn những bài khác được biên soạn trong nhiều năm sau này. Điều chắc chắn là sách Ai-Ca như ta có hiện nay đã được hoàn thành khoảng năm 538 trước Công nguyên. Để tưởng niệm biến cố Giêrusalem bị tàn phá (587 trước Công nguyên và 70 sau CN), người Do thái đọc Sách này trong các hội đường. Sách Ai-ca gồm có 5 chương:

Chương

Chương

1. BÀI THỨ NHẤT

3. BÀI THỨ BA

2. BÀI THỨ HAI

4. BÀI THỨ TƯ

 

5. BÀI THỨ NĂM

  b. Nội dung

Sách Ai-Ca gồm 5 bài ca:

(1) Giêrusalem bị bỏ rơi và thất sủng (1,1-22).

(2) Cơn giận của Chúa chống lại Xi-on (2,1-22).

(3) Những đau khổ của vị tiên tri và dân Chúa (3,1-66).

(4) Nỗi tang thương của thành bị chiếm đóng (4,1-22).

(5) Lời than thở và khẩn cầu của vị tiên tri (5,1-22).

Nội dung chính: vừa suy nghĩ về ý nghĩa và giá trị của đau khổ vừa nói lên niềm hy vọng và cậy trông vào Thiên Chúa.

 

CUỐN SÁCH 32

SÁCH BA-RÚC (Br)

 

1. Tác giả

Ba-rúc là thư ký của Giê-rê-mi-a (Gr 36). Có lẽ ông đã đi theo tiên tri Giê-rê-mi-a trong cảnh lưu đày, và ông rất quen với những thư Giê-rê-mi-a gửi cho dân lưu đày (chương 29 – 33). Thời xưa, có những tác giả vô danh viết sách nhưng lại đề tên tác giả là những vị nổi tiếng của thời trước. Chính vì thế có nhiều Thánh vịnh được gán cho vua Đavít và những sách Khôn ngoan được gán cho vua Sa-lô-môn. Tương tự như thế, có thể có Sách được gán cho Ba-rúc là người thư ký nổi tiếng của Giê-rê-mi-a. Sách Ba-rúc gồm có 6 chương:

Chương

Chương

1. Ông Ba-rúc và cộng đồng Do-thái ở Ba-by-lon – Lời nguyện của những người lưu đày

4. Giêrusalem than thở và hy vọng

2. Lời cầu khẩn

5. Giêrusalem than thở và hy vọng (tiếp)

3. Ơn khôn ngoan dành cho Ít-ra-en

6. Thư của ông Giê-rê-mi-a

2. Một cái nhìn tổng quát về sách Ba-rúc

 Nhập đề (1,1-14)

 Lời kinh sám hối (1,15 – 3,8).

 Bài thơ ca tụng sự khôn ngoan (3,9 – 4,4).

 Giêrusalem than van và hy vọng (4,5 – 5,9).

 Thư của Giê-rê-mi-a (6,1-72).

 

CUỐN SÁCH 33

SÁCH Ê-DÊ-KI-EN (Ed)

 

I. Tổng quát

         Có thể ông Ê-dê-ki-en là một tư tế bị phát lưu sang Can-đê sau cuộc công hãn Giêrusalem lần thứ nhất vào năm 598 TCN. Chính đây là một nơi ông được Thiên Chúa gọi như lời ông đích thân kể lại (ch.1 và ch.2) (Dẫn nhập Sách Ê-dê-ki-en, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Ê-dê-ki-en gồm có 48 chương:

Chương

Chương

1. Thị kiến về xa giá của ĐỨC CHÚA

25. Hạch tội dân Am-mon - Hạch tội Ê-đôm - Hạch tội Phi-li-tinh

2. Thị kiến về cuốn sách

26. Hạch tội Tia - Bài ai ca khóc thành Tia

3. TRƯỚC KHI GIÊ-RU-SA-LEM BỊ VÂY HÃM  - Ngôn sứ Ê-dê-ki-en được dành riêng để phục vụ Lời Chúa

27. Bài ai ca thứ hai khóc thành Tia sụp đổ

4. Báo trước cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem

28. Hạch tội vua Tia - Vua Tia bị lật nhào - Hạch tội Xi-đôn

5. Báo trước cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem (tiếp)

29. Hạch tội Ai-cập

6. Hạch tội núi đồi của Ít-ra-en - Tội lỗi của Ít-ra-en

30. Ngày ĐỨC CHÚA trừng phạt Ai-cập

7. Sắp đến giờ tận số

31. Cây hương bá

8. Thị kiến về tội lỗi của Giê-ru-sa-lem

32. Con cá sấu - Vua Pha-ra-ô xuống âm phủ

9. Hình phạt

33. Ngôn sứ, người canh gác - Sa đoạ và hối cải - Giê-ru-sa-lem thất thủ - Xứ sở bị tàn phá - Hiệu quả của lời giảng

10. Vinh quang ĐỨC CHÚA rời bỏ Đền Thờ

34. Các mục tử Ít-ra-en

11. Tội lỗi của Giê-ru-sa-lem - Giao ước mới cho những kẻ lưu đày - Vinh quang ĐỨC CHÚA rời bỏ Giê-ru-sa-lem

35. Hạch tội các núi Ê-đôm

12. Giả bộ làm người di cư

36. Các lời sấm về núi non Ít-ra-en

13. Hạch tội các ngôn sứ giả - Các nữ ngôn sứ giả

37. Những bộ xương khô

14. Hạch tội thờ ngẫu tượng - Trách nhiệm cá nhân

38. Hạch tội Gốc, vua của Ma-gốc

15. Dụ ngôn cây nho

39. Lời kết

16. Câu chuyện tượng trưng về lịch sử Ít-ra-en

40. "LUẬT" CỦA NGÔN SỨ Ê-DÊ-KI-EN - Đền Thờ tương lai - Tường bên ngoài - Cổng đông - Sân ngoài - Cổng bắc - Sân trong. Cổng nam.

- Phần phụ của các cổng - Đền Thờ. Tiền đình.

17. Ngụ ngôn chim phượng hoàng

41. Cung thánh - Toà nhà phía đông…

18. Trách nhiệm cá nhân

42. Các phòng của Đền Thờ - Kích thước của sân

19. Bài ca khóc các ông hoàng Ít-ra-en

43. ĐỨC CHÚA trở lại Đền Thờ - Thánh hiến bàn thờ

20. Chuyện bất trung của Ít-ra-en

44. Quy tắc để được vào Đền Thờ - Các thầy Lê-vi - Các tư tế

21. Thanh gươm của ĐỨC CHÚA - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng - Trừng phạt dân Am-mon

45. Phân chia xứ sở. Phần của ĐỨC CHÚA. - Phần của ông hoàng - Các lễ phẩm dùng vào việc phụng tự - Lễ Vượt Qua

22. Tội ác của Giê-ru-sa-lem

46. Các quy tắc khác

23. Câu chuyện tượng trưng cho Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri

47. Con suối từ Đền Thờ chảy ra - Ranh giới của xứ

24. Báo trước cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem - Ngôn sứ gặp thử thách

48. Phân chia xứ sở - Các cổng thành Giê-ru-sa-lem

 1. Nội dung: Sách Ê-dê-ki-en gồm 5 phần chính:

- Chương 1-3 : Ơn gọi của Ê-dê-ki-en

- Chương 4-24 : Những lời tiên tri về vận mệnh Giêrusalem

- Chương 25-32 : Những lời tiên tri chống lại các nước khác

- Chương 33-39 : Niềm hy vọng hồi sinh sau khi Giêrusalem thất thủ

- Chương 40-48 : Thị kiến về Đền thờ mới và sự phục hồi đời sống chính trị cũng như tôn giáo của Ít-ra-en.

  2. Văn loại

Sách Ê-dê-ki-en được xếp vào thể văn tiên tri. Cũng như các tiên tri khác, Ê-dê-ki-en là phát ngôn viên của Chúa. Khi cộng đoàn phải đối diện với những khủng hoảng tôn giáo và chính trị. Ê-dê-ki-en nhân danh Chúa đưa ra những lời lên án hoặc khích lệ họ. Đối tượng mà Ê-dê-ki-en nhắm tới là cộng đoàn Do thái ở Giuđa và Ba-by-lon vào thế kỷ VI trước Công nguyên. Ê-dê-ki-en nói tiên tri bằng nhiều hình thức: thị kiến, những hành động biểu tượng, những ngụ ngôn, diễn từ.

II. Chương 1-12. Ơn gọi của Ê-dê-ki-en (1,1 – 3,27)

 1. Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi của con người

Bài tường thuật về ơn gọi của Ê-dê-ki-en khá giống với những bài tường thuật về ơn gọi của I-sai-a và Giê-rê-mi-a. Tác giả làm nổi bật sự tương phản giữa vinh quang Thiên Chúa và sự thấp hèn của con người, giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi con người: “Đó là một cái gì trông tựa vinh quang của Đức Chúa. Vừa thấy thế, tôi liền sấp mặt xuống”(1,28). Cảm nghiệm này giúp cho các tiên tri – và mỗi Kitô hữu – ra đi công bố Lời Chúa với lòng khiêm tốn, đồng thời giữ vững niềm tin tưởng cậy trông: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en... Đừng sợ chúng, cũng đừng sợ những lời chúng nói... Người cứ nói với chúng những lời của Ta”(2, 3-6).

  2. Ăn cuộn sách (2,1 – 3,15)

Đức Chúa phán với Ê-dê-ki-en: “Hãy ăn cuộn sách này rồi đi nói với nhà Israel”(3,1). Ê-dê-ki-en đã ăn và cảm nhận cuộn sách thật ngọt ngào (3,3). Lời Chúa là mật ngọt cho tâm hồn. Có nhiều thứ mật ngọt. Có những loại mật ngọt dẫn đến hư vong, chỉ có Lời Chúa mới mang lại hương vị hạnh phúc, bình an và niềm vui sâu xa, bền vững. Tiên tri đích thực không rao giảng lời lẽ và sự khôn ngoan của riêng mình nhưng là Lời của Chúa (x.1Cr 2,4). Muốn thế, bản thân tiên tri phải được thấm nhuần Lời Chúa, phải “ăn và nuốt” lấy Lời Chúa.

  3. Nhiệm vụ người canh gác (3,17-21)

Đức Chúa giao cho Ê-dê-ki-en nhiệm vụ “canh gác nhà Israel.” Tiên tri thi hành nhiệm vụ này bằng cách nghe Lời Chúa rồi thay mặt Chúa loan báo cho dân. Phải loan báo cách trung thành, dù là những lời người ta không muốn nghe; nếu không, bản thân tiên tri sẽ bị trừng phạt: “nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng ‘Chắc chắn ngươi sẽ phải chết,’ và nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác đó biết… thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó”(3,18).

Được chia sẻ chức năng tiên tri của Chúa Kitô, bạn đã thi hành nhiệm vụ canh gác này với ai? Bằng cách nào?

4. Những hành động biểu tượng

 a. Bốn hành động biểu tượng trong Ed 3,16 – 5,17

- Vẽ trên gạch hình ảnh Giêrusalem bị vây hãm.

- Nằm nghiêng bên trái rồi bên phải trong một số ngày để loan báo số năm dân Ít-ra-en và Giuđa bị lưu đày.

- Phần lương thực.

- Cắt tóc cạo râu và phân chia râu tóc.

  b. Ý nghĩa

Những hành động biểu tượng không nhằm mục đích thỏa mãn tính tò mò của người xem nhưng nhằm loan báo Lời Chúa bằng những hành động cụ thể. Các bí tích và cử hành phụng vụ cũng là những hành động diễn tả và chuyển thông ân sủng của Thiên Chúa nhưng nhiều khi ta không quan tâm vì đã quá quen. Đức Bênêđitô XVI nhấn mạnh: “Giáo lý nhiệm huấn cũng phải quan tâm đến việc trình bày ý nghĩa của các dấu chỉ chứa đựng trong các nghi lễ. Điều này đặc biệt quan trọng cho thời đại kỹ thuật cao như thời đại của chúng ta, một thời đại có nguy cơ đánh mất khả năng nhận biết các dấu chỉ và biểu tượng”(Tông huấn Bí Tích Tình Yêu, số 64). Trong thời đại thế tục hoá ngày nay, cuộc sống chân chính của Kitô hữu cũng có thể là những hành động biểu tượng loan báo Tin Mừng.

III. Chương 13-24

  1. Tổng quát

Chương 13 được chia thành hai phần đối xứng nhau: lên án các tiên tri nam (câu 2-16) và các nữ tiên tri (câu 17-23). Một số học giả cho rằng trong Thánh Kinh Cựu Ước, danh hiệu tiên tri chỉ được dành cho một số ít phụ nữ (Mi-ri-am trong Xh 15,21; Đơ-vô-ra trong Tl 4,4; vợ của I-sai-a trong Is 8,3). Vì thế các nữ tiên tri ở đây thực ra là những phù thủy vì họ sử dụng pháp thuật (x.1Sm 28,7 tt). Nhưng những học giả khác lại cho thấy sự giống nhau giữa các tiên tri giả này, dù là nam hay nữ, cho nên có thể gọi tất cả họ là phù thủy hoặc tiên tri.

  2. Nhận diện các tiên tri giả

Tiên tri giả là những người chỉ nói theo ý riêng của mình (13,2. 17). Tiên tri giả là những người công bố những thị kiến hão huyền và lời sấm dối trá mà lại dám mạo nhận là lời sấm của Chúa: “Ta sẽ ra tay trừng phạt hạng tiên tri thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm dối trá”(13, 6-9. 23). Tiên tri giả là những người nói tiên tri để tìm tư lợi cho mình, đồng thời phỉnh gạt dân chúng: “Các ngươi đã xúc phạm đến Ta ... chỉ vì những nắm lúa mạch, những mẩu bánh, đến nỗi các ngươi giết chết những người đáng lẽ không phải chết, và cho sống những người không đáng sống”(13,19).

 3. Cảnh giác trước các tiên tri giả

Thánh Phaolô nhắn nhủ môn đệ của Ngài, cũng là nhắn nhủ các Kitô hữu ở mọi thời đại, “Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ làm cho họ vui tai. Họ sẽ ngoảnh đi không nghe lời chân lý nhưng hướng về những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, hãy làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh”(2Tm 4,3-5). 

4. Trách nhiệm cá nhân (14,12-23, 18,1-32)

 a. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình

Tiên tri Ê-dê-ki-en tuyên bố rằng ngay cả những nhân vật nổi tiếng đạo đức trong quá khứ như No-ê, Đa-ni-ên và Gióp cũng không thể ngăn nổi cơn giận của Chúa đối với dân tội lỗi. Sự công chính cứu thoát cá nhân người công chính chứ không thể cứu người khác: “Chúng cũng chẳng cứu nổi con trai con gái mình, chỉ mình chúng được cứu thoát vì đã sống công minh chính trực”(14,20). Không thể chỉ cậy dựa vào những việc lành trong quá khứ để an tâm trong lối sống tội lỗi hiện tại: “Nếu kẻ công chính từ bỏ lẽ công chính của mình mà theo đòi kẻ gian ác làm mọi điều ghê tởm, nó làm thế mà được sống sao?”(18,24). Phải sống công chính ngay trong hiện tại, phải trở về với Chúa mỗi ngày: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi tội lỗi nó đã phạm mà tuân giữ lề luật của Ta...chắc chắn nó sẽ sống chứ không phải chết”(18,21).

 b. Sống tinh thần trách nhiệm trước mặt Chúa

Thiên Chúa không vui thích vì con người phải chết (18,23.32), đồng thời không ai có thể trách cứ Thiên Chúa về án xử công minh của Người (14,23). Không thể dựa vào câu ngạn ngữ “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” để đổ lỗi cho người khác và trốn tránh trách nhiệm của mình (18,2-4). Điều quan trọng là chu toàn trách nhiệm của mình và sống ngay thẳng trước mặt Chúa: “Hãy trở lại và hãy sống”(18,32).

5. Người vợ bất trung (16,1-63)

 a. Ngôn ngữ ẩn dụ và lịch sử Ít-ra-en

Ê-dê-ki-en được coi là một trong những bậc thầy về việc sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ, nghĩa là kể chuyện rồi áp dụng vào hoàn cảnh hiện tại. Tài năng đó được thể hiện cụ thể trong chương 16 và các chương khác (15,17,19,23,31,34).

- Câu 1-14 mô tả Giêrusalem như một đứa trẻ mồ côi, được sinh ra từ dân A-mô-ri và Khết, nhưng lại bị ném ra bên ngoài, không ai chăm sóc. Chính Chúa đã chăm sóc đứa trẻ đó thành một thiếu nữ xinh đẹp. Rồi Chúa quay lại và lập giao ước với Giêrusalem. Giêrusalem trở thành thiếu nữ nổi tiếng vì nhan sắc, vì phẩm giá cao quý và những ân huệ tuyệt vời.

- Câu 15-34 lại mô tả Giêruslaem trở thành sa đoạ vì chính nhan sắc mỹ miều của nó: hoang dâm với mọi khách qua đường, đàng điếm trên các tế đàn, biến con cái mình thành của lễ dâng các ngẫu tượng, hoang dâm với Ai Cập, Át-sua, Ba-by-lo-ni-a đến nỗi “người đàng điếm không phải là kẻ chạy theo ngươi mà là chính ngươi. Người trả tiền là ngươi chứ không phải chúng”(16,34).

- Câu 35-43 loan báo án phạt mà Giêrusalem phải chịu: bị lột trần và xử phạt như đối với những kẻ sát nhân và ngoại tình (câu 37-38, x. Dnl 22,22; Lv 20,10). Giêrusalem sẽ bị xử phạt trước mặt các phụ nữ khác (các dân khác). Rồi cơn giận của Chúa sẽ nguôi ngoai (câu 42).

- Câu 44-58 so sánh Giêrusalem với các chị em là Sa-ma-ri-a và Xơ-đôm. Giêrusalem là phụ nữ tội lỗi nhất và bị trừng phạt nặng nề.

- Phần kết (câu 59-63) lại mở ra một viễn tượng lạ lùng: Thiên Chúa khôi phục mọi sự cho Giêrusalem, nhắc nhớ giao ước cũ, và tuyên bố sẽ thiết lập giao ước vĩnh cửu

 b. Nhìn lại giao ước yêu thương với Thiên Chúa

Giao ước này được thiết lập từ tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa, tình thương vượt trên mọi yếu hèn, phản trắc và sa ngã của ta. Hãy sống Đạo như một giao ước tình yêu và không ngừng làm mới lại giao ước đó mỗi ngày.

IV. Chương 25-36

  1. Tiên tri, người canh gác (33,1-9; 3,17-21)

Tiên tri có nhiệm vụ trung chuyển Lời Chúa cho dân, bảo vệ dân, canh giữ dân, lôi kéo kẻ gian ác khỏi đường tội lỗi và khích lệ người công chính trên đường công chính. Thiên Chúa đòi hỏi tiên tri phải loan báo cho kẻ gian ác biết án xử của Thiên Chúa; nếu không, không những kẻ gian ác bị trừng phạt nhưng chính tiên tri cũng bị trừng phạt: “Nếu người canh gác thấy gươm đến mà không thổi kèn, khiến dân không được báo, và gươm đến làm cho người nào phải thiệt mạng, thì kẻ ấy chết vì tội lỗi của mình, nhưng máu người ấy, Ta sẽ đòi người canh phải trả”(33,6). Nhiệm vụ của người canh gác đòi hỏi phải tỉnh thức và cảnh giác để có thể nhận ra những âm mưu và nguy hiểm đang đe doạ dân trong thành. Về mặt thiêng liêng, hình ảnh này gợi về sứ điệp Tin Mừng: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”(Lc 21,36), tỉnh thức trước những cám dỗ tinh vi của quỷ dữ, tỉnh thức trước tiếng gọi thầm kín của Chúa, tỉnh thức cho mình và cho những người Chúa đã trao phó cho ta. Tỉnh thức giữa lúc mọi người đang ngủ là điều không dễ, nhất là khi phải tỉnh thức thường xuyên. Vì thế cần cầu nguyện. Nguồn sức mạnh của tỉnh thức là tình yêu, như người mẹ tỉnh thức trước tiếng khóc của đứa con. Tình yêu đó là đức Ái mục tử mà cha mẹ phải có đối với con cái, linh mục phải có đối với cộng đoàn đã được trao phó cho mình.

2. Dụ ngôn về các mục tử (34,1-16)

Các mục tử trong quá khứ đã không chu toàn nhiệm vụ đối với đoàn chiên, nhất là những con chiên bệnh tật, bị thương tích, lạc đường... (câu 2-6) Vì thế Thiên Chúa sẽ trừng phạt các mục tử và giải thoát đoàn chiên: “Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa”(34,10).

Chính Chúa sẽ đảm nhận trách nhiệm mục tử: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc đoàn chiên của Ta và thân hành kiểm điểm”(34,11). Chúa sẽ là mục tử tốt lành, chăm sóc đoàn chiên, quy tụ chiên tản mác, kiếm tìm chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát.

Người Kitô hữu đọc đoạn văn này không thể không nhớ đến Ga 10,1-18, ở đó Chúa Giêsu khẳng định, “Tôi chính là Mục tử nhân lành”. Đặc điểm của vị mục tử nhân lành là Ngài biết chiên và hy sinh cho đoàn chiên: “Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi, như Chúa Cha biết Tôi và Tôi biết Chúa Cha, và Tôi hi sinh mạng sống cho đoàn chiên”(Ga 10,15). Đây cũng là điều mọi Kitô hữu phải quan tâm suy nghĩ vì đã được chia sẻ chức năng mục tử của Chúa Kitô qua bí tích Thánh Tẩy.

3. Tách biệt đoàn chiên (34,17-31)

Ở đây, chủ đề được chuyển từ việc lên án các mục tử không chăm sóc đoàn chiên sang những con chiên lạm dụng quyền lợi của mình. Những con chiên khỏe mạnh, béo tốt nhưng chỉ biết nghĩ đến mình và gây thiệt hại cho những con chiên gầy gò đau yếu. Chúng sẽ bị xét xử: “Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên”(34,22). Những lời này giúp các Kitô hữu ý thức về đời sống trong cộng đoàn Giáo Hội, không chỉ là mối tương quan giữa giáo dân và chủ chăn, nhưng còn là mối tương quan giữa giáo dân với nhau. Làm sao để xây dựng một tương quan huynh đệ, liên đới, chia sẻ và đồng cảm với nhau; đó là một trong những đòi hỏi mục vụ hàng đầu phải quan tâm tới.

Các câu 23-24 chuyển sang một chủ đề mới là loan báo vị mục tử mới, một hoàng tử Mêsia. Đavít sẽ là mục tử/hoàng tử được hứa ban và Đức Chúa là Thiên Chúa của chúng: “Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó sẽ chăn dắt chúng, đó là Đavít, tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng, chính nó sẽ là mục tử của chúng... Đavít, tôi tớ của Ta, sẽ là ông hoàng ở giữa chúng”(34,23).

Sang đến câu 25-27, không còn hình ảnh mục tử nữa; thay vào đó Ê-dê-ki-en nói đến giao ước bình an giữa Thiên Chúa và dân Người: “Ta sẽ thiết lập với chúng một giao ước bình an”(34,25). Chính Chúa sẽ đem bình an và thịnh vượng đến cho Dân Người. Vị hoàng tử bình an và mục tử lý tưởng mà Ê-dê-ki-en loan báo chính là Chúa Giêsu, Thiên Chúa xuống thế làm người, và ở giữa loài người. Ngài đến để đem bình an cho nhân loại, thiết lập giao ước mới và vĩnh cửu bằng máu Ngài đổ ra trên thập giá.

V. Chương 37-48

 1. Thị kiến về những bộ xương khô (37,1-14)

 Thị kiến này là một trong những trình thuật được biết đến nhiều nhất trong sách Ê-dê-ki-en. Trình thuật gồm hai phần: thị kiến (câu 1-10) và giải thích (câu 11-14). Cơ hội để vị tiên tri công bố thị kiến này là lúc dân lưu đày đã mất hết hy vọng vào tương lai. Họ đã từng nghĩ rằng Giêrusalem là bất khả xâm phạm nhưng thực tế chứng minh đó chỉ là niềm hy vọng hão huyền, và bây giờ chỉ còn lại niềm tuyệt vọng: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời”(câu 11).

Trong bối cảnh tuyệt vọng đó, tiên tri công bố thị kiến tràn ngập hy vọng. Trong một thung lũng tràn ngập những bộ xương khô, nghĩa là những dấu chứng của chết chóc và tuyệt vọng, Lời Chúa tra vấn vị tiên tri, “Liệu các xương khô này có hồi sinh được không?” Vị tiên tri trả lời hết sức dè dặt, “Chỉ một mình Người mới biết được!” Thế rồi Chúa sai vị tiên tri tuyên sấm trên những bộ xương khô để một linh khí mới cùng với da thịt, các đường gân sẽ làm cho nó hồi sinh (câu 4-6). Lần thứ hai, Chúa lại sai tiên tri gọi linh khí từ bốn phương đến, và linh khí đã làm cho cả cánh đồng xương khô thành một đạo quân hùng mạnh (câu 9-10).

Trong phần giải thích tiếp theo, Thiên Chúa tuyên bố rằng những con người tuyệt vọng sẽ được hồi sinh và có đời sống mới tại Ít-ra-en. Tuy nhiên hình ảnh được vận dụng ở đây lại là hình ảnh những huyệt mộ được mở ra (câu 12) chứ không phải là cả cánh đồng xương khô. Đồng thời câu 13 và 14 không chỉ nhấn mạnh đến miền đất mà dân sẽ được định cư nhưng còn nhấn mạnh đến việc hiểu biết Chúa, “các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa”. Thị kiến này không nhằm trình bày niềm tin vào sự phục sinh cá nhân cho bằng sự hồi sinh của một dân tộc về mặt xã hội.

Thánh Phaolô dạy, “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng” (Dt 11,1). Như thế, đức tin gắn liền với hy vọng, và sống đức tin là sống trong hy vọng. Niềm hy vọng Kitô giáo có những nét đặc thù. Đó là niềm hy vọng cậy dựa vào một mình Chúa là Thiên Chúa của sự sống và là Cha yêu thương, chứ không dựa vào sức mạnh người đời. Đó là niềm hy vọng vượt qua cả biên cương sự chết chứ không chỉ dừng lại ở những thành công trần thế. Chính niềm hy vọng đó ban sức mạnh cho ta trong mọi nghịch cảnh. Tôi phải tự hỏi mình: tôi hy vọng điều gì? Tôi hy vọng vào ai?

2. Dòng nước từ Đền Thờ (47,1-12)

Phần cuối trong sách Ê-dê-ki-en (40,1 – 48,35) gồm có một phác thảo kiến trúc về Đền thờ (40,1 – 42,20), mô tả việc thờ phượng trong Đền thờ (43,1 – 44,3), những lề luật về Đền thờ (44,4 – 47,12) và những ranh giới phân chia đất đai (47,13-48,35). Ở đây chỉ tập trung vào thị kiến về dòng nước chảy ra từ Đền thờ.

Tiên tri Ê-dê-ki-en và người hướng dẫn trở lại phía cửa Đền thờ và thấy có nước vọt ra từ ngưỡng cửa và chảy về phía đông. Càng đi xa về phía đông, tiên tri thấy dòng nước càng dâng cao. Người hướng dẫn lấy thước đo bốn lần và mỗi lần nước lại dâng cao hơn, cuối cùng thành dòng thác (câu 3-5). Ê-dê-ki-en thấy nhiều cây cối hai bên bờ, và được giải thích rằng dòng nước ban sự sống phát xuất từ ngai Thiên Chúa sẽ làm cho nước mặn chát của Biển Chết thành nước trong lành, làm cho cây cỏ tốt tươi trổ sinh hoa trái, và lá không bao giờ tàn tạ. Hình ảnh này phát xuất từ huyền thoại cổ xưa về thành phố trên đồi, từ đó phát sinh những dòng sông trên trái đất (x.St 2,10-14). Hình ảnh này cũng được vận dụng trong văn chương khải huyền (x.Kh 22).

Thị kiến của tiên tri Ê-dê-ki-en loan báo việc thờ phượng sẽ được hồi sinh trong Đền thờ được tái thiết. Tuy nhiên người Kitô hữu lại khám phá nơi thị kiến này những tầng ý nghĩa khác. Trong trình thuật về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, thánh Gioan ghi nhận rằng, “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra”(19,34). Chúa Giêsu chính là Đền thờ sống động (x.Ga 2,21), và dòng nước cùng máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người chính là nguồn nước ban sự sống, được thông ban qua các bí tích, cho tất cả những ai tin vào Người. Chính vì thế trong Đêm Vọng Phục Sinh, chủ tế cử hành nghi thức làm phép nước để rửa tội cho các dự tòng và rẩy trên dân chúng, khi đó cộng đoàn cùng hát lên, “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên: Alleluia, Alleluia”.

Trong cuộc sống ngày nay, có quá nhiều “biển chết,” những vùng biển nhìn thật hấp dẫn và đẹp mắt nhưng chỉ toàn cung cấp thứ nước mặn chát và chết chóc. Chỉ có nguồn nước mà Chúa Giêsu ban cho mới đem đến sự sống dồi dào như Người đã hứa: “Ai khát, hãy đến với Tôi, ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống. Như Thánh kinh đã nói: từ lòng Người sẽ tuôn chảy dòng nước hằng sống”(Ga 7,38). Liệu chúng ta có dám tin vào lời mời gọi của Chúa Giêsu không? Nếu tin, ta đã đáp lại lời mời gọi đó như thế nào?

 

CUỐN SÁCH 34

ĐA-NI-EN (Đn)

 

I.                 TỔNG QUÁT

Sách Đa-ni-en hẳn là đã được một trong các bậc thầy thông thạo Lề Luật viết ra, khi xảy ra các cuộc bách hại thời con cháu nhà Ma-ca-bê, để khuyến khích dân chúng lấy tinh thần mà được đầu với nghịch cảnh. Có lẽ chính ông cũng thuộc số những hướng dẫn đức tin được Thiên Chúa ân thưởng đặc biệt (Đn 11,32 và 13,3). Trong lúc con cháu nhà Ma-ca-bê chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân xâm lược  thì các bậc thầy này vốn thận trọng đối với chính trị và vũ khí, chỉ chuyên lo nêu gương về lòng trung thành với Giao ước của Thiên Chúa và Lề Luật của Người (Dẫn nhập Sách Đa-ni-en, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Đa-ni-en gốm có 14 chương:

Chương

Chương

1. CÁC TRÌNH THUẬT – Trẻ em Do Thái tại triều đình vua Na-bu-cô-đô-nô-xo

8. THỊ KIẾN CỦA ÔNG ĐA-NI-EN: CỪU ĐỰC VÀ DÊ ĐỰC - Thiên sứ Gáp-ri-en giải thích thị kiến

2. Nhà vua hỏi các thầy pháp sư - Ông Đa-ni-en can thiệp

9. Lời kinh của ông Đa-ni-en - Thiên sứ Gáp-ri-en cắt nghĩa lời tiên tri

3. Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo dựng tượng vàng - Người Do-thái bị tố cáo và kết án -

10. THỊ KIẾN LỚN - Thị kiến về người mặc áo vải gai - Thiên sứ hiện ra - Lời báo trước

4. Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo kể lại giấc chiêm bao

11. Ngày tận số của kẻ bách hại

5. Bữa tiệc của Vua Bên-sát-xa

12. Sống lại và thưởng phạt - Lời sấm được niêm phong

6. ÔNG ĐA-NI-EN TRONG HẦM SƯ TỬ - Lòng ganh tị của các thống đốc - Ông Đa-ni-en cầu nguyện - Ông Đa-ni-en bị quăng vào hầm sư tử - Lời tuyên xưng đức tin của vua Đa-ri-ô

13. BÀ SU-SAN-NA VÀ PHÁN QUYẾT CỦA ÔNG ĐA-NI-EN

7. CÁC THỊ KIẾN - Thị kiến về các con thú - Giải thích thị kiến

14. THẦN BEN VÀ CON RẮN - Ông Đa-ni-en và các tư tế của thần Ben - Ông Đa-ni-en giết con rắn - Ông Đa-ni-en trong hầm sư tử

 1. Nội dung chương 1-6

Phần đầu của sách Đa-ni-en là một tuyển tập sáu câu chuyện ngắn về Đa-ni-en và các bạn của ngài. Theo các câu chuyện này, từ khi còn trẻ, Đa-ni-en đã bị đem đi lưu đày bên Ba-by-lon năm 606 trước Công nguyên (1,1), ở đó cậu sống đạo đức và được Chúa ban cho khả năng giải thích các giấc mộng và thị kiến. Những câu chuyện được trình bày thuộc hai loại: những truyện kể về lòng trung thành (chương 1,3,6) và những truyện kể về sự khôn ngoan (chương 2,4,5). Những truyện này làm nổi bật giáo huấn: nhờ vâng phục lề luật, người tín hữu sẽ chiến thắng địch thù và làm chứng cho quyền năng Thiên Chúa.

   a. Những truyện kể về lòng trung thành

   a.1. Thử thách về thực phẩm (1,1-21)

Truyện kể đầu tiên này giới thiệu Đa-ni-en và các bạn của ngài cũng như việc huấn luyện họ trong triều đình vua Na-bu-cô-đô-nô-xô, đồng thời nói đến những thử thách và cám dỗ nhằm đồng hoá họ với văn hoá ngoại giáo, cụ thể là dùng những thực phẩm mà Lề luật Do thái cho là ô uế.

   a.2. Lò lửa (3,1-97)

Truyện này đề cao dung nhan Thiên Chúa đích thực, Đấng mà Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô thờ phượng. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, kể cả cái chết, còn hơn là phải thờ phượng thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa của Ít-ra-en.

   a.3. Hầm sư tử (6,2-29)

Truyện kể về sự ghen tị của các quan chức trong triều đình đối với Đa-ni-en. Họ tìm cách tố cáo ngài với vua Đa-ri-ô. Họ đã thành công khi Đa-ni-en bị ném vào hầm sư tử, nhưng thành công đó đã trở thành án phạt cho họ khi Đa-ni-en được Chúa gìn giữ và cứu thoát.

 2. Những truyện kể về sự khôn ngoan của Đa-ni-en

  a) Đa-ni-en giải mộng cho nhà vua (2,1-49)

Thiên Chúa mạc khải cho Đa-ni-en những mầu nhiệm mà các pháp sư của nhà vua không biết được, nhờ đó nhà vua nhìn nhận sự siêu việt của Thiên Chúa mà Đa-ni-en tôn thờ.

   b) Thị kiến về một thân cây vĩ đại (3,98-4,34)

Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo có giấc chiêm bao về một cây vĩ đại, ngọn cây chạm tới trời (4,7-14) nhưng không ai giải thích thị kiến này được. Chỉ một mình Đa-ni-en có thể giải thích, và cuối cùng những lời giải thích của ngài đã thành hiện thực.

  c) Những dòng chữ trên tường (5,1 – 6,1)

Truyện kể về sự phạm thánh của vua Bên-sát-xa khi ông lấy những chén vàng và bạc đã lấy từ Đền thờ Giêrusalem về để uống rượu vui chơi. Ngay lập tức, những dòng chữ xuất hiện trên tường... và Đa-ni-en đã giải thích ý nghĩa của những dòng chữ đó, loan báo hình phạt dành cho nhà vua.

II. NHỮNG BÀI HỌC CHO ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN

  1. Thiên Chúa là nguồn sức mạnh và sự khôn ngoan

 

Dù không dùng những thực phẩm cao lương mỹ vị, dù bị ném vào lò lửa hay hang sư tử, Đa-ni-en và các bạn của ngài vẫn sống vì Thiên Chúa bảo vệ, chở che họ. Thánh Phaolô nói thật hùng hồn: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?... Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?...Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta”(Rm 8,31-37).

Nhờ ơn soi sáng của Chúa, Đa-ni-en còn lĩnh hội được sự khôn ngoan vượt trên mọi người, có thể giải thích được những điều bí nhiệm và đọc được ý nghĩa của lịch sử. Chúa Giêsu đoan quyết với các môn đệ: “Chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thù của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được”(Lc 21,15).

Người tin Chúa đón nhận được sức mạnh và sự khôn ngoan này nhờ cầu nguyện. Nhờ cầu nguyện, Đa-ni-en đón nhận được ơn soi sáng của Chúa (x. 2,14-24). Ngay giữa lò lửa, các bạn của Đa-ni-en cất lời ngợi khen Chúa (3,24-90).

 2. Trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh

Sách Đa-ni-en được viết trong bối cảnh Dân Chúa đang chịu áp lực nặng nề của văn hoá ngoại giáo, và những câu truyện trong sách khuyến khích mọi người trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh, cụ thể là trung thành với Lề Luật. Cho dù trong thời điểm hiện tại, có thể thấy những lề luật đó không còn phù hợp, nhưng điều quan trọng là sự thể hiện lòng trung thành. Trong bối cảnh thời đại ngày nay, người Kitô hữu cũng cần trung thành với Lời Chúa. Đó là cách thể hiện cụ thể đức tin và lòng trung thành của ta với Chúa.

    PHẦN II. NHỮNG THỊ KIẾN CỦA DANIEL (chương 7-12)

Trong những chương này, sách Đa-ni-en trình bày những thị kiến mang tính khải huyền. Khải huyền là một thể văn phát triển mạnh từ năm 200 – 100 trước Công nguyên (x. Is 24-27; Ed 38-39; Dn 7-12). Những tác phẩm khải huyền mạc khải những điều mà trí khôn bình thường của con người không hiểu được. Những mạc khải này được trình bày qua trung gian của các thiên sứ, thị kiến và biểu tượng. Trong sách Đa-ni-en, những chương 7-12 khuyến khích những người đang phải chịu bách hại dưới thời Antiochus IV hãy vững tâm vì thời đau khổ đã sắp hết. Những chương này trình bày 4 thị kiến.

 1. Thị kiến về bốn con thú (7,1-28)

Cảnh thứ nhất (7,2-8): gió bốn phương trời khuấy động biển cả và bốn con thú từ biển xuất hiện với những hình dạng đáng sợ (x.Kn 7,11), đặc biệt con thú mười sừng: sừng nhỏ xuất hiện, có mắt người và miệng nói những lời ngạo mạn.

Cảnh thứ hai (7,9-12): cảnh xử án trên trời, với Đấng Lão thành ngự trên ngai lửa và hàng ngàn tôi tớ hầu hạ. Khi các cuốn sách được mở ra, bốn con thú bị đem ra xử, và con thú thứ tư bị phân thây, làm mồi cho lửa. Những con thú còn lại bị tước quyền thống trị nhưng còn được sống một thời hạn. Tiếp đó, Đa-ni-en thấy một vị giống như Con Người, ngự trên đám mây mà đến. Vị này được Đấng Lão thành trao cho quyền thống trị, vinh quang và vương vị.

Sau khi chứng kiến, Đa-ni-en được giải thích. Bốn con thú tượng trưng cho bốn vương quốc (Ba-by-lon, Mê-đi-an, Ba Tư, Hi Lạp) mà Dân thánh của Chúa sẽ chiến thắng. Mười sừng của con thú thứ tư tượng trưng cho vương quốc Hi Lạp bị chia cắt, và cái sừng nhỏ phạm thượng tượng trưng cho Antiochus IV Epiphanes là người đã bách hại dân Do thái ở Giêrusalem (x.1 Mcb 1,20-63). Thiên thần bảo đảm với Đa-ni-en rằng mặc dù cái sừng nhỏ này chống lại Dân Chúa nhưng quyền lực của nó chỉ tạm thời (câu 24-26). Con Người ở đây là hình ảnh của Dân Chúa sẽ được trao quyền thống trị trong tương lai.

  2. Thị kiến về cừu đực và dê đực (8,1-27)

Thị kiến kể lại cuộc chiến giữa con cừu hai sừng (Mê-đi-an và Ba Tư) và con dê đực (Alexander đại đế). Tuy dùng những hình ảnh khác, nhưng thị kiến này cũng nói đến diễn tiến lịch sử như trong chương 7. Con dê đực hạ gục con cừu hai sừng cách dễ dàng, ám chỉ việc Alexander đại đế đánh hạ Ba Tư trong các cuộc chiến từ năm 334-331 trước Công nguyên. Tuy nhiên khi nó đang sung sức thì cái sừng lớn bị gãy, ám chỉ cái chết yểu mệnh của Alexander năm 323, và bốn sừng khác mọc lên, có ý nói về vương quốc của Alexander bị chia thành bốn: Macedonia, Tiểu Á, Syria-Babylonia, và Ai Cập. Từ một trong các sừng lại xuất hiện cái sừng nhỏ, ám chỉ Antiochus IV Epiphanes, là ông vua dám xúc phạm đến Đền thánh.

Được thiên sứ Gáp-ri-enriel giải thích, Đa-ni-en hiểu rằng cơn giận của Thiên Chúa sắp nổ ra và Antiochus sẽ bị lật đổ. Câu “cho đến hai ngàn ba trăm chiều và sáng” được hiểu là 1150 ngày, tức là 3 năm và 70 ngày. Thời gian này tương ứng với thời gian từ khi Đền thánh bị xúc phạm năm 167 đến khi được thánh hiến lại năm 164 (x.1 Mcb 4,52-59 và 10,3).

   3. Thị kiến thứ ba: Gáp-ri-en và 70 tuần (9,1-27)

Thị kiến thứ ba là mạc khải trực tiếp cho Đa-ni-en qua trung gian thiên sứ Gáp-ri-en. Chương này được chia thành hai phần: lời cầu của Đa-ni-en (9,3-19) và Thiên Chúa trả lời (9,20-27).

Lời cầu nguyện của Đa-ni-en phát xuất từ việc suy niệm lời của tiên tri Giê-rê-m-ia (x. Gier 25,11-12; 29,10): 70 năm phải trôi qua trước khi Giêrusalem mãn thời kỳ điêu tàn.

Sau đó, Gáp-ri-en được Chúa sai đến để giải thích cho Đa-ni-en về lời tiên tri của Giê-rê-mi-a. 70 năm ở đây là 70 tuần năm, nghĩa là 490 năm. 70 tuần năm này được chia thành ba thời kỳ: (1) bảy tuần (49 năm) cho đến khi vị lãnh đạo được xức dầu xuất hiện (nghĩa là từ năm 587 trước Công nguyên (lưu đày lần II) đến năm 538 (Kyrô xuất hiện). (2) 62 tuần (434 năm) đến khi một vị xức dầu bị thủ tiêu: từ khi chấm dứt lưu đày năm 538 đến khi khi thượng tế Onias III bị ám sát năm 170. Như thế phải tính là 368 năm chứ không phải 434 năm. Tuy nhiên các nhà chú giải cho rằng sai sót này có thể hiểu được tác giả sách Daniel không nắm rõ thời kỳ cai trị của Ba Tư. (3) một tuần (7 năm) từ 170 – 163 trước Công nguyên: thời bách hại của Antiochus IV Epiphanes trong vòng nửa tuần, sau đó bị tiêu diệt.

  4. Thị kiến về các cuộc chiến tranh Hi Lạp (10,1 – 12,13)

    Thị kiến thứ tư này được chia làm ba phần:

- Dẫn nhập dài mô tả sự xuất hiện của sứ giả và cuộc trò chuyện với Đa-ni-en (10).

- Cho biết về những cuộc chiến giữa nhà Ptolemies tại Ai Cập và nhà Seleucides tại Syria, và kết thúc là cái chết của Antiochus (11-12,4).

- Phần kết (12,5-13).

 

CUỐN SÁCH 35

SÁCH HÔ-SÊ (Hs)

         Hô-sê đi vào lịch sử như vị ngôn sứ bị vợ lừa dối, nhưng vẫn hằng yêu thương nàng dù nàng bất trung. Các ngôn sứ mạc khải tình yêu Thiên Chúa đối với loài người rất thật và rất cá vị đến nỗi có thể dùng ngôn ngữ yêu đương của loài người để diễn tả. Ngôn sứ được Thiên Chúa kêu mời  cảm nghiệm điều chính người đã trải nghiệm. Ông Hô-sê cũng vác một thánh giá  như Thiên Chúa, là luôn yêu thương và tha thứ cho một người đàn bà bất nhất và bất trung. Chính ông là người sẽ kêu lên sự phẫn nộ của Thiên Chúa trước các tội lỗi của Ít-ra-en. Ông Hô-sê bắt đầu rao giảng vào quãng năm 746, nghĩa là vào cuối triều đại thịnh đạt của vua Gia-róp-am II trong vương quốc Ít-ra-en, vương quốc phía bắc. Liền sau đó bắt đầu thời suy sụp trong 20 năm, khiến Sa-ma-ri bị xâm chiếm và dân chúng phải lưu đày (721) (Dẫn nhập Sách Hô-sê, Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước, Nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Hô-sê gồm có 14 chương:

Chương

Chương

1. HÔN NHÂN CỦA ÔNG HÔ-SÊ: MỘT BIỂU TƯỢNG - Ông Hô-sê kết hôn và sinh con

8. Báo động

2. Viễn ảnh tương lai

9. Sầu khổ chốn lưu đày - Ngôn sứ bị khủng bố vì loan báo cuộc trừng phạt – Trừng phạt tội ác tại Ghin-gan

3. Ông Hô-sê nhận lại người vợ thất tín và sửa trị bà. Ý nghĩa của biểu tượng

10. Ngẫu tượng Ít-ra-en thờ sẽ bị phá huỷ

4. ÍT-RA-EN PHẠM TỘI VÀ BỊ TRỪNG PHẠT - Tình trạng đồi bại chung - Lên án hàng tư tế - Cảnh cáo Giu-đa và Ít-ra-en

11. ĐỨC CHÚA báo oán cho tình yêu bị khước từ

5. Tư tế và vua chúa quan quyền đưa dân tới suy vong - Cảnh huynh đệ tương tàn - Giao ước với ngoại bang chỉ là hư ảo

12. Ít-ra-en lụn bại về tôn giáo và chính trị

6. Trở về với ĐỨC CHÚA, nhưng không thật lòng

13. Trừng phạt tội thờ ngẫu tượng - Trừng phạt tội vô ơn bạc nghĩa - Vương quyền chấm dứt

7. Trở về với ĐỨC CHÚA, nhưng không thật lòng (tiếp)

14. ÍT-RA-EN HỐI CẢI VÀ ĐƯỢC CHÚA THƯƠNG - Ít-ra-en thành tâm trở về với ĐỨC CHÚA

I. Chương 1-7

1. Tổng quát

- 1,1: Dẫn nhập: Tên gọi Hô-sê nghĩa là “hành động cứu độ” hay “Đấng Cứu độ”. Sách Hô-sê mở đầu với lời “Lời Đức Chúa phán với ông Hô-sê” (khác với A-mốt: Lời của A-mốt). Như thế nhấn mạnh tính linh hứng của lời rao giảng.

- 1,2 – 3,5 : Giavê, Phu quân của Ít-ra-en: Ba chương đầu tập trung vào cuộc hôn nhân của Hô-sê, những bất trung của bà vợ Gô-me, nghi ngờ về con cái, và áp dụng hoàn cảnh này cho giao ước của Ít-ra-en với Giavê.

- 4,1 – 5,7: Tội ác của các nhà lãnh đạo: Tất cả những tội ác chống lại Thiên Chúa và tha nhân đều được gọi là ngoại tình; như thế làm nổi bật mối tình thắm thiết của Giavê với Dân Ngài.

- 5,8 – 8,14: Ám sát, bất ổn, mất mát: Các chương này bàn đến những vụ ám sát các vua và hoàng tộc, những chính sách ủng hộ hay chống Át-sua, những hứa hẹn to lớn nhưng thực chất nghèo nàn...

2. Kinh nghiệm hôn nhân và lời rao giảng

   a. Tiên tri Hô-sê có kinh nghiệm rất đau buồn về hôn nhân (1,2-8)

Người vợ của Hô-sê có nguồn gốc không tốt đẹp, lại là một người vợ bất trung: “hãy đi cưới một người đàn bà làm điếm để sinh những đứa con đàng điếm”(1,2). Cũng vì thế, nhà tiên tri đặt cho con cái mình những cái tên lạ thường: “không-được-thương”, “không-phải-dân-Ta”. Hơn thế nữa, người vợ của ông lại còn ngoại tình. Thế nhưng vâng lời Chúa, ông đã tha thứ cho vợ và đón nhận vợ trở về: “Một lần nữa, ngươi cứ đi yêu người đàn bà đang có tình nhân và đang ngoại tình”(3,1-5).

   b. Rao giảng Lời Chúa từ chính kinh nghiệm bản thân

Kinh nghiệm về hôn nhân đã giúp tiên tri Hô-sê cảm nghiệm tình yêu nóng bỏng của Thiên Chúa với Dân Người: tình yêu tha thứ, tình yêu kiên nhẫn, tình yêu đổi mới. Người Kitô hữu cũng được mời gọi để cảm nghiệm Thiên Chúa qua chính kinh nghiệm trong đời sống gia đình của mình, trong tương quan vợ chồng, tương quan cha mẹ và con cái. Tiên tri Hô-sê không chỉ rao giảng bằng lời nói nhưng còn bằng hành động và chính cuộc sống của mình. Khi ông đi cưới một người đàn bà làm điếm là để nói với dân rằng “cả xứ đều bỏ Đức Chúa mà đi làm điếm”(1,2). Và khi ông đi cưới một người đàn bà đang ngoại tình, cũng là để nói với dân về “Đức Chúa yêu thương con cái Israel, trong khi chúng lại quay lưng đi theo các thần khác”(3,1). Cũng thế, người Kitô hữu được mời gọi loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng chính cuộc sống cụ thể của mình. Vậy cuộc sống hằng ngày của tôi có trở thành lời loan báo Tin Mừng không, hay lại là phản chứng?

   c. Hôn nhân và giao ước giữa Thiên Chúa với con người

Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Dân Ngài. Theo cách diễn tả của Môsê, giao ước này mang tính lề luật. Với Hô-sê, giao ước này trở thành giao ước hôn nhân với nền tảng là tình yêu và sự tín nhiệm lẫn nhau. Ở đây, hôn nhân mang ý nghĩa và giá trị đặc biệt vì diễn tả chính tình yêu của Thiên Chúa với loài người, mở đường cho cách nhìn của thánh Phaolô: “Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ nên một xương thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh”(Ep 5,31-32).

3. Bước vào mối quan hệ cá vị với Thiên Chúa

   a. Tiên tri Hô-sê nói về Thiên Chúa

Khi nói về Thiên Chúa, Hô-sê không chỉ nói về Thiên Chúa cách chung chung. Ít nhất là 45 lần, Ngài sử dụng từ YAHWEH là Danh Thiên Chúa được tỏ cho Môsê (Xh 3,11-15), nghĩa là Thiên Chúa là Đấng hằng ở với Dân. Khi Hô-sê dùng từ Elohim hay El để nói về Chúa thì luôn luôn là “Chúa của anh em” hay “Chúa của tôi”:

- Nó sẽ thưa “Thiên Chúa của con”(2,25).

- Con cái Ít-ra-en sẽ trở lại tìm kiếm Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng (3,5)

Cách diễn tả này nói lên mối quan hệ mật thiết và sống động giữa Thiên Chúa và Dân của Người. Đồng thời cách diễn tả này giúp ta ý thức hơn về đời sống đức tin.

    b. Tin là bước vào mối quan hệ cá vị với Thiên Chúa

Tin không chỉ là nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa hoặc chấp nhận những định tín về Ngài. Nhưng tin là bước vào mối quan hệ cá vị, thân tình, riêng tư với Thiên Chúa như vợ chồng, cha mẹ và con cái, bạn với bạn... Cầu nguyện là cách thế tốt nhất để diễn tả, đồng thời giúp ta sống mối quan hệ này.

II. Chương 9-14

1. Tổng quát

- 9,1 – 13,8: Những niềm hy vọng giả tạo. Thay vì lắng nghe Lời Chúa qua miệng các ngôn sứ như A-mốt và Hô-sê, vua cũng toan tính chính trị, cuối cùng dẫn đến kết thúc bi thảm.

- 13,9 – 14,1: Vương quyền chấm dứt và vương quốc sụp đổ.

- 14,2-9: Hoán cải, chữa lành và sự sống mới.

2. Đâu là sức mạnh của Dân Chúa?

  a. Bối cảnh lịch sử: các triều đại

- Jeroboam II (786-746): tự do và thịnh vượng.

- Zechariah (746-745): thoả hiệp nhưng không hiệu quả (bị ám sát).

- Shallum (745): chống đế quốc Át-sua (bị ám sát).

- Menahem (745-737): phò đế quốc Át-sua.

- Pekahiah (737-736): phò đế quốc Át-sua (bị ám sát).

- Pekah (736-732): chống Át-sua (bị ám sát).

- Hoshea (732-724): phò đế quốc, sau đó lại chống (bị bắt và xử tử).

  b. Sức mạnh đích thực của dân Chúa ở đâu?

Các triều đại thay đổi chính sách liên tục, lúc thì nghiêng về Ai Cập, lúc lại chạy theo Át-sua, để mong tìm bình an và thịnh vượng “Ép-ra-im vô tâm vô trí tựa bồ câu khờ dại. Chúng cầu cứu Ai Cập, chạy đến với Át-sua”(7, 8-12; 8,11-14). Nhưng kết quả chỉ là điêu tàn và đổ vỡ: “Ít-ra-en đã quên Đấng tác tạo ra nó và lo xây đền đài; còn Giuđa thì xây thêm những thành kiên cố. Nhưng Ta sẽ phóng lửa xuống những thành này, và lửa sẽ ngốn hết các dinh thự”(8,14). Dân Chúa cần tìm sức mạnh đích thực ở nơi Chúa, cần trung thành với giao ước tình yêu đã ký kết với Chúa: “Chúng con sẽ không cầu cứu Át-sua, sẽ không cậy nhờ vào chiến mã, cũng chẳng gọi là thần những sản phẩm do tay chúng con làm ra, vì chỉ ở nơi Ngài, kẻ mồ côi mới gặp được lòng thương xót”(14, 2-9).

  c. Bài học cho Dân Chúa mọi thời

Đừng tìm kiếm sự thành công và phát triển dựa vào những thế lực trần gian như tiền bạc, tính toán chính trị, quyền lực. Lịch sử Giáo Hội làm chứng rằng những thành công và phát triển đó, nếu có, chỉ là những thành công bên ngoài và chóng qua. Chúa Giêsu chịu đóng đinh thập giá và các Thánh tử vì đạo là lời nhắc nhớ thường xuyên về sự thành công sâu xa, đích thực của Nước Trời. Quả thật, “Đường lối Đức Chúa rất mực thẳng ngay. Trên con đường này, người công chính sẽ hiên ngang tiến bước, còn kẻ gian ác sẽ phải té nhào”(14,10).

3. Tình yêu tha thứ (11,1-9)

  a. Thiên Chúa là tình yêu

Tiên tri Hô-sê vận dụng nhiều hình ảnh để diễn tả mối tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người: hình ảnh vợ chồng (2,4-9), hình ảnh cha con (11,1-4), hình ảnh bạn tình (2,16). Tất cả để làm nổi bật tình yêu Thiên Chúa. Và đặc điểm của tình yêu đó là sự tha thứ: “Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ”(11,9).

  b. Lời mời gọi cho người Kitô hữu

Tin vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa không có nghĩa là an tâm ở lại mãi trong tội lỗi vì không sợ Thiên Chúa trừng phạt. Niềm tin đích thực vào tình yêu này thúc đẩy ta hoán cải không ngừng. Đồng thời một khi cảm nghiệm được tình yêu tha thứ của Chúa, cảm nghiệm đó dẫn ta vào một lối sống mới trong tương quan với tha nhân, lối sống quảng đại và tha thứ (x.Mt 18,21-35).

4. Sa mạc

  a. Sa mạc trong ngôn ngữ của Hô-sê

- “Ta sẽ biến nó thành sa mạc hoang vu, cho nó trở nên đất khô khan cằn cỗi, và làm cho nó chết khát” 2,5b).

- “Này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình”(2,16).

   b. Sa mạc trong đời sống đức tin

Sa mạc là nơi chết chóc vì không có nước là yếu tố căn bản của sự sống, vì cái nắng gay gắt đe doạ sự sống. Không những đe doạ sự sống tự nhiên, sa mạc còn đe doạ sự sống siêu nhiên vì là nơi chốn của cám dỗ. Chính Chúa Giêsu đã bị cám dỗ trong sa mạc. Thế nhưng sa mạc cũng là miền đất ân sủng. Sa mạc là cõi thinh lặng và cô tịch, vắng mọi ồn ào và tiếng động bên ngoài. Chính trong cõi cô tịch và thinh lặng đó, ta được mời gọi trở về với chiều sâu cuộc sống: sống với Chúa, sống nhờ Chúa, sống cho Chúa. Vì thế, hãy tự tạo nên những khoảnh khắc sa mạc trong đời sống hằng ngày.

 

CUỐN SÁCH 36

SÁCH GIÔ-EN (Ge)

 

1. Bối cảnh

Không thể xác định rõ tác phẩm này đã được viết vào năm nào. Tuy nhiên phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng sách đã được viết vào khoảng năm 400 trước Công nguyên, sau khi dân Ít-ra-en hồi hương trở về Giêrusalem. Sách Giô-en gốm có 4 chương:

Chương

Chương

1. NẠN CHÂU CHẤU - TOÀN DÂN SÁM HỐI VÀ CẦU KHẨN - Than vãn vì đất nước hoang tàn

3. THỜI MỚI VÀ NGÀY CỦA ĐỨC CHÚA - BAN THẦN KHÍ

2. Báo động về Ngày của ĐỨC CHÚA - Thị kiến về Ngày của ĐỨC CHÚA - Kêu gọi sám hối - ĐỨC CHÚA TRẢ LỜI - Thị kiến về thời phồn vinh

4.  CÁC DÂN TỘC BỊ XÉT XỬ - Những chủ đề chung - Triệu tập các dân tộc - Ngày của ĐỨC CHÚA - THỜI KỲ CỰC THỊNH CỦA ÍT-RA-EN PHỤC HƯNG

2. Giáo huấn

Sách Giô-en được mở đầu bằng câu chuyện về nạn châu chấu tấn công và con người hoàn toàn bó tay (1,1-4). Câu chuyện này khiến ta liên tưởng đến những khó khăn và thử thách gặp phải trong cuộc đời. Đương nhiên, những khó khăn đó gây đau khổ cho con người, nhưng đồng thời cũng có mặt tích cực của nó vì giúp ta ý thức thân phận giới hạn của mình, và biết tìm kiếm sự trợ giúp từ nơi Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu: “Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm bất bình và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa”(2,13).

Tiên tri Giô-en cũng nhấn mạnh đến quyền năng Thánh Thần. Trong ngày lễ Hiện Xuống, dưới tác động của Thánh Thần, các tông đồ đã rao giảng Lời Chúa bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Khi có người cho rằng các tông đồ say rượu, thánh Phêrô đã lấy lời của tiên tri Giô-en để nói với họ rằng các ngài không say vì mới là giờ thứ ba trong ngày (9 giờ sáng), nhưng đúng hơn, đây là điều tiên tri Giôen đã nói: “Ta sẽ đổ Thánh Thần của Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành tiên tri, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng”. Quyền năng của Thánh Thần đã được thể hiện tỏ tường nơi các tông đồ, và quyền năng ấy sẽ tiếp tục tỏ hiện trong đời sống Kitô hữu nếu ta mở rộng cánh cửa tâm hồn đón nhận Ngài.

 

 

CUỐN SÁCH 37

SÁCH A-MỐT (Am)

 

         Cuối thế kỷ VIII trước Chúa Kitô, vương quốc Ít-ra-en có vẻ rất phồn thịnh. Người có ít tài sản đã bán sạch và của cải nằm trong tay số ít người giàu có, trong khi càng ngày càng có thêm nhiều người nghèo. Đột nhiên từ Xi-on, Đức Chúa gầm lên và từ Giêrusalem, Người lên tiếng qua miệng của A-mốt, một người chăn cừu ở Tơ-cô-a, một làng quê nhỏ bé cách Be-lem khoảng 9km về phía nam, trong xứ Giuđa (Dẫn nhập Sách A-mốt, Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước, Nhóm Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách A-mốt gồm có 9 chương:

Chương

Chương

1. ÁN PHẠT CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG VÀ ÁN PHẠT CHÍNH ÍT-RA-EN - Đa-mát - Ga-da và Phi-li-tinh - Tia và Phê-ni-xi - Ê-đôm

6. Cuộc sống an toàn giả tạo của những người cầm quyền - Hình phạt kinh hồn

2.  Mô-áp - Giu-đa - Ít-ra-en

7. CÁC THỊ KIẾN - Thị kiến thứ nhất: châu chấu - Thị kiến thứ hai: hạn hán - Thị kiến thứ ba: dây dọi - Xung đột với A-mát-gia. Ông A-mốt bị trục xuất khỏi Bết Ên.

3. CẢNH CÁO VÀ ĐE DOẠ ÍT-RA-EN - Tuyển chọn và trừng phạt

8. Thị kiến thứ tư: giỏ trái cây mùa hạ

4. Tố cáo các mệnh phụ vùng Sa-ma-ri - Ít-ra-en vẫn ảo tưởng, không chịu sám hối nên bị trừng phạt

9. Thị kiến thứ năm: Đền Thờ bị sụp đổ - Vinh tụng ca - Mọi người tội lỗi sẽ phải chết - VIỄN TƯỢNG PHỤC HƯNG VÀ PHỒN THỊNH THỜI THIÊN SAI

 

5. Than khóc Ít-ra-en - Không hoán cải thì không thể được cứu độ - Vinh tụng ca - Đe doạ - Khuyến cáo

 

 

1. Ơn gọi tiên tri (7, 10-17)

   a. Tiên tri, ơn gọi chứ không phai nghề nghiệp

Bối cảnh xã hội: đất nước bị phân chia thành hai miền: vương quốc miền Nam (Giuđa) và vương quốc miền Bắc (Ít-ra-en). Trong vương quốc Ít-ra-en, vua xây Đền Thờ ở Bết-ên để ngăn cản dân, không cho họ xuống Đền Thờ Giêrusalem vốn thuộc vương quốc Giuđa. A-ma-gia mệnh danh là một tiên tri nhưng ông thi hành sứ vụ tiên tri như một nghề và thường nói những lời bênh vực nhà vua để làm vui lòng nhà vua. Ngược lại, câu trả lời của A-mốt cho thấy, làm tiên tri không phải là một nghề ông chọn nhưng là tiếng gọi của Chúa, tiếng gọi không thể cưỡng lại: “Tôi không phải là tiên tri, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm tiên tri. Tôi chỉ là người nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa Trời đã bắt lấy tôi … và truyền cho tôi: ‘Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân ta’”. Khi đó lời mà tiên tri công bố không còn là lời của loài người nhưng là Lời của Thiên Chúa.

b. Sống chức năng tiên tri của người Kitô hữu

Mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm làm tiên tri vì được chia sẻ làm chức năng tiên tri của Chúa Kitô khi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Vậy lời nói của ta nhắm đến điều gì? Làm vui lòng người đời hay trung thành với Lời Chúa? Cách cụ thể, trong đời sống gia đình, trong việc giáo dục con cái, trong những mối quan hệ xã hội, lời nói của ta được sử dụng ra sao?

2. Thiên Chúa đứng về phía người nghèo (2, 6-16; 8, 4-8)

a. Thiên Chúa của kẻ nghèo

Đọc Thánh Kinh, một trong những điều quan trọng là phải tự hỏi: Chúa là ai? Chúa mặc khải Ngài là ai trong đoạn Thánh Kinh mà tôi đọc? Đồng thời phải ý thức rằng Thiên Chúa tự tỏ mình ra (mặc khải) không chỉ qua lời nói mà còn qua những hành động, những kỳ công mà Người thực hiện trong lịch sử. Ở đây, A-mốt dựa vào hành động quan trọng nhất là việc Chúa giải thoát dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai Cập: “Chính Ta đã đem các ngươi lên khỏi đất Ai Cập, dẫn các ngươi đi trong sa mạc bốn mươi năm trường, để các các ngươi chiếm hữu đất của người E-mô-ri”(2,10). Ngài lấy đó là điểm quy chiếu để khám phán dung nhan Thiên Chúa là Đấng đứng về phái người nghèo, người bị áp bức. từ đó, Ngài lên án tình trạng bóc lột, bất công, gian dối trong xã hội bàng những lời lẽ rất mạnh: “vì tội của Ít-ra-en đã lên tới cực độ, Ta sẽ không rút lại bản án” (2,6) “Đức Chúa đã lấy thánh danh là niềm hãnh diện của Giacop mà thề: Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi của chúng”(8,7).

b. Suy niệm

Rất nhiều người xưng mình là người tin Chúa nhưng Chúa là ai? Có khi nào tự uốn nắn hình ảnh Thiên Chúa theo sở thích của mình để biện hộ cho lối sống bất chính của mình? Đã từng có một triết gia phê phán rằng: không phải Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, mà chính con người đã dựng nên Thiên Chúa theo hình ảnh họ”(Feuerbach). Dù không đồng ý với nhận định này, ta cũng không thể phủ nhận một phần chân lý hàm chứa trong đó khi nhìn vào thực tế. Vì thế, phải luôn quay về với Thánh Kinh để khám phán dung nhan đích thực của Thiên Chúa, và thờ phượng Thiên Chúa như Ngài là chứ không như ta mong muốn. Cách cụ thể, dựa trên giáo huấn của tiên tri A-mốt, nếu Thiên Chúa đứng về phía người nghèo, tôi có thể nhân danh Chúa mà làm những việc gây thiệt hại cho người nghèo? Có quyền khinh bỉ người nghèo?

3. Nền phụng tự đích thực (5,21-27)

a. Thế nào là phụng tự mà Thiên Chúa muốn?

Phụng tự là hành vi căn bản của niềm tin tôn giáo. Nhưng đâu là phụng tự đích thực? Phải chăng chỉ là những nghi lễ bên ngoài? Lời kết án của A-mốt cho thấy điều gì? Nền phụng tự Chúa mong muốn là phụng tự phải đi đôi với lẽ phải và công lý: “Hãy dẹp bỏ tiếng hát om sòm của ngươi, ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa. Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn”(5,23-24).

    b. Suy niệm

So sánh với nhiều nơi trên thế giới, trong các nghi thức phụng tự người Công giáo Việt Nam tham dự rất đông. Tỷ lệ người Công giáo Việt Nam tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật có lẽ vào hàng cao nhất thế giới. Nhưng liệu có nguy cơ tách ly giữa phụng tự và đời sống không? Có những cử hành nghi lễ thật rầm rộ, đồng thời đời sống thiếu yêu thương, bác ái và công bằng? Những câu hỏi này nêu lên không nhằm xét đoán ai nhưng cho chính mình. Hiến chế Mục vụ Vui Mừng và Hy Vọng dạy: “Sự phân ly giữa các Kitô hữu tuyên xưng với cuộc sống thường nhật của họ phải được kể vào số những sai lầm trầm trọng nhất trong thời đại chúng ta. Trong Cựu Ước, các tiên tri đã mạnh mẽ tố cáo gương xấu này, và trong Tân Ước chính Chúa Giêsu Kitô còn ngăm đe nhiều hơn nữa bằng những hình phạt nặng nề. Do đó không được tạo ra sự đối nghịch giả tạo giữa sinh hoạt nghề nghiệp xã hội và đời sống tôn giáo. Đối với người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế là xao lãng bổn phận đối với tha nhân và hơn nữa đối với Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa“(số 43).

 

 

CUỐN SÁCH 38

SÁCH Ô-VA-ĐI-A (Ôv)

 

         Sách Ô-va-đi-a có lẽ được viết trong khoảng sau 500 và trước cuộc chinh phạt Ê-đôm vào năm 300. Tác phẩm của ông là một bài kêu gọi báo thù; thật ra điều này cho thấy ông tin vào sự công bằng của Thiên Chúa.

Nội dung của sách là những lời tiên tri chống lại dân Ê-đôm của một vị ngôn sứ có tên Ô-va-đi-a (trong tiếng Do-thái nghĩa là đầy tớ của Đức Chúa). Vị ngôn sứ này không được xác định rõ lai lịch theo bất kỳ nhân vật lịch sử nào trong Cựu Ước bởi có tới 10 nhân vật mang tên này. Truyền thống Do thái Giáo và Chính Thống Giáo cho rằng đó là ông Ô-va-đi-a, quản đốc hoàng cung của vua A-kháp (1V 18,3) mà Thánh Kinh Công Giáo Tiếng Việt dịch là Ô-vát-gia-hu. Giáo Hội Công Giáo cho rằng không có căn cứ để xác định chính xác ông là nhân vật nào. Sách Ô-va-đi-a gốm có 1 chương: Lời tựa - Bản án cho Ê-đôm - Tận diệt Ê-đôm - Tội lỗi của Ê-đôm - Vào ngày của ĐỨC CHÚA, Ít-ra-en báo thù Ê-đôm - Ít-ra-en mới.

 

CUỐN SÁCH 39

SÁCH GIÔ-NA (Gn)

 

1. Bối cảnh

Sách Giô-na được biên soạn tại Palestina khoảng thế kỷ V trước Công nguyên, khi người Do thái vẫn đang ở trong thời kỳ hồi phục sau cuộc hồi hương từ Ba-by-lon. Trong suốt thế kỷ VIII và IX trước đó, nhiều thế lực ngoại bang đã tác động trên lịch sử Ít-ra-en. Năm 722, đế quốc Át-sua đã chiếm vương quốc Ít-ra-en, đưa những thanh phần ưu tú của dân lưu đày, và đưa những nhóm dân khác đến đây định cư. Còn tại vương quốc Giuđa, quyền lực của Át-sua phải nhường lại cho Ba-by-lon, và dân Ít-ra-en lại chịu sự thống trị của một đế quốc khác. Năm 587 vua Na-bu-cô-đô-no-xô và quân đội của ông phá hủy thành Giêrusalem và lưu đày dân cư sang Ba-by-lon. 50 năm sau tức là năm 538, vua Ky-rô của Ba Tư đánh bại Ba-by-lon, ra sắc lệnh cho người Do thái hồi hương và xây lại Đền thờ. Có sự đấu tranh giữa những người hồi hương và những người vẫn ở lại từ trước, thêm vào đó là sự nghèo khổ và lao động vất vả để tái thiết đất nước. Tất cả những điều đó làm nên bối cảnh trong đó sách Giô-na được biên soạn. Sách Giô-na gốm có 4 chương:

Chương

Chương

1. Ông Giô-na cưỡng lại sứ mạng ĐỨC CHÚA giao

3. Thành Ni-ni-vê sám hối và được tha thứ

2. Ông Giô-na được cứu thoát

4. Ông Giô-na bực mình. ĐỨC CHÚA trả lời.

2. Nội dung

 a. Tổng quát

- Cuộc gặp gỡ giữa Giô-na và Đức Chúa (1,1-16).

- Lời nguyện của Giô-na (2,1-11).

- Giô-na ở Ni-ni-vê (3,1-10).

- Thiên Chúa trả lời Giô-na (4,1-11).

   b. Ý nghĩa

Những người Do thái hồi hương xác tín rằng sở dĩ họ phải chịu đau khổ là vì họ đã bất trung với Thiên Chúa. Do đó họ chủ trương phải tuân giữ lề luật thật khắt khe, và phải xa tránh bất cứ điều gì có thể làm họ xa rời Chúa, cụ thể là theo những tập tục ngoại giáo và kết hôn với người ngoại giáo (x. Er 9,1-13; 10,10-15; Nkm 13,23-30).

Sách Giô-na được viết ra để chống lại thái độ loại trừ này, thái độ cho rằng phải xa lánh mọi người thì mới có thể trung thành với Chúa. Trong câu chuyện, Chúa gọi Giô-na đi nói tiên tri không phải cho dân Người mà là cho dân Ni-ni-vê, thủ đô đáng ghét của Át-sua. Và Giô-na đã tìm mọi cách để trốn tránh tiếng gọi của Chúa, vì ông biết rằng Chúa là Đấng nhân từ, và ông sợ rằng nếu ông rao giảng và dân Ni-ni-vê ăn năn sám hối thì Chúa sẽ tha thứ cho họ. Ông thích một Thiên Chúa trừng phạt dân Ni-ni-vê hơn là một Thiên Chúa tha thứ. Câu chuyện của Giô-na trình bày một chân lý làm dân Do thái sửng sốt, đó là cả các dân tộc khác cũng được Thiên Chúa yêu thương.

3. Ơn gọi của Giô-na (1,1-16)

 a. Chúa gọi Giô-na

Trong Thánh Kinh, những trình thuật ơn gọi thường có những yếu tố sau: (1) Gặp gỡ, (2) Thiên Chúa ngỏ lời, (3) sai đi, (4) người được sai thoái thác, (5) Chúa trấn an với lời hứa ‘Ta ở với ngươi’ (6) hứa ban một dấu chỉ. Trình thuật ơn gọi Giô-na cũng theo thứ tự đó nhưng có vài điểm đặc biệt: Lời Chúa đến với ông (1,1) và sai ông đi giảng cho dân Ni-ni-vê (1,2). Giô-na không những chống lại mệnh lệnh này mà còn tìm cách chạy trốn (1,3). Chúa đã không chỉ trấn an Giô-na nhưng còn theo sát ông và dùng quyền năng của Người lôi ông trở về với sứ mạng tiên tri (1,4 – 2,10). Rồi trình thuật bắt đầu lại: “Lời Chúa đến với Giô-na lần thứ hai” -(3,1).

  b. Rao giảng cho dân Ni-ni-vê

Ni-ni-vê là thủ đô của Át-sua, một đế quốc hùng mạnh ở vùng Mesopotamia vào thế kỷ VIII trước Công nguyên. Át-sua đã đánh bại Ít-ra-en vào năm 722 và bắt họ đem đi lưu đày, vì thế dân Ít-ra-en căm ghét Át-sua. Giô-na không muốn đi Ni-ni-vê không phải vì muốn trốn tránh tiếng gọi của Chúa cho bằng vì căm ghét Át-sua, không muốn đem Lời Chúa đến cho dân đó.

   c. Thiên Chúa hành động

Giô-na mô tả Thiên Chúa là Đấng “làm ra biển khơi và đất liền”(1,9), Đấng chế ngự biển khơi và mọi loài trong đó. Hình ảnh được làm nổi bật ở đây là sự toàn năng của Đấng Tạo hoá, Đấng đã trao phó sứ mạng cho Giô-na và thúc đẩy ông chu toàn sứ mạng. Điều buồn cười là nếu Giô-na biết Chúa toàn năng như thế, tại sao ông lại nghĩ ông có thể chạy trốn khỏi bàn tay Chúa? Và mỗi người chúng ta cũng nghĩ rằng mình có thể chạy trốn được Chúa? (hãy đọc Thánh vịnh 139).

4. Thiên Chúa trả lời cho Giô-na (3,1-10)

  a. Tại sao Giô-na chạy trốn?

Vì ông biết rằng Chúa là Đấng “từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, và hối tiếc vì đã giáng họa”(4,2). Ông nổi giận vì biết rằng Chúa không phải là vị thẩm phán thích trừng phạt tội ác nhưng là vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót và hối hận vì đã thịnh nộ.

  b. Thiên Chúa giáo huấn Giô-na

Thiên Chúa không trừng phạt Giô-na vì tội chạy trốn và đào ngũ và vì ông thiếu lòng thương xót, nhưng Chúa tìm cách giáo huấn ông bằng hành động cụ thể (x. 4,4-10)... và kết luận: “Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương Ninivê sao?”(4,11). Giô-na và mỗi người chúng ta tin Chúa như Chúa là hay chúng ta bắt Chúa phải hành xử theo tính toán nhỏ nhen và chật hẹp của mình.

 

CUỐN SÁCH 40

SÁCH MI-KHA (Mk)

 

1. Bối cảnh

         Ngôn sứ Mi-kha là người sống đồng thời với ngôn sứ I-sai-a. Hai con người này có những nét trái ngược nhau: Mi-kha là một người ở đồng quê, còn I-sai-a là người thượng lưu và có văn hóa. Tuy thế họ đều nói về nhưng biến cố giống nhau và cùng có một tinh thần như nhau. Ngôn sứ Mi-kha là người Mô-re-sét, một làng quê nằm ở ven đồng bằng nơi quân đội Át-sua và Ai Cập thường qua lại. Ông biết rõ những khổ đau và tàn phá của chiến tranh, cũng như sự bóc lột các nông dân. Một ngày kia Thiên Chúa đã gọi ông, ban cho ông sức mạnh và can đảm để ông ra đi tố cáo tội của Ít-ra-en. Ông nói nhân danh một vị Thiên Chúa chẳng được ai yêu mến, và ông tố cáo sự bất công đang hoành hành khắp nơi. Cũng giống như ngôn sứ I-sai-a, sau khi kết án xã hội ông đang sống, ông loan báo sự thịnh vượng mà Đức Chúa dành cho Giêrusalem trong tương lai. Sách Mi-kha gồm có 7 chương:

Chương

Chương

1. ÍT-RA-EN BỊ KIỆN, ĐE DOẠ VÀ TRỪNG PHẠT - Án xử Sa-ma-ri - Bài ai ca khóc các thành miền đất thấp

5. Các nước bị đập tan ở Xi-on (tiêp

2. Chống những kẻ trục lợi - Lời hứa tái thiết

6. ÍT-RA-EN LẠI BỊ KIỆN CÁO, KHIỂN TRÁCH VÀ ĐE DOẠ - ĐỨC CHÚA kiện cáo dân Người - Chống sự gian giảo của dân thành - Gương Sa-ma-ri

3. Chống các thủ lãnh áp bức dân - Chống các ngôn sứ hám lợi - Báo cho nhà chức trách về cảnh điêu tàn của Xi-on

7.  Bất công ở khắp nơi - Xi-on bị kẻ thù sỉ nhục - Lời sấm tiên báo ngày hồi phục - Xin Thiên Chúa thứ tha

4. CÁC LỜI HỨA VỚI XI-ON - Triều đại tương lai của ĐỨC CHÚA ở Xi-on  - Đàn chiên tản mác được tập hợp ở Xi-on - Xi-on bị bao vây, lưu đày và được giải thoát - Các nước bị đập tan ở Xi-on

 

 

 

2. Lời tiên tri

Phần ngươi, hỡi Belem Ép-ra-tha...” Ép-ra-tha là tên của một địa điểm ở phía bắc Giêrusalem, gần Ra-ma là nơi bà Ra-khen qua đời (x.1Sm 10,2; Gr 31,15). Đây cũng là tên một bộ tộc là dòng dõi của Ép-ra-tha, vợ thứ hai của Ca-lép (x.1Sb 2,18-19, 50-55 nhắc đến Bết Ga-đe và Be-lem). “Nguồn gốc của Người có từ thuở trước, từ thuở xa xưa”(5,1): bản văn Hípri dùng từ “nguồn gốc” ở số nhiều, có ý nhắc đến lịch sử ba trăm năm của triều đại Đavít. Nhưng người Kitô hữu quy chiếu bản văn này về Chúa Kitô, và đọc bản văn này như nói về nguồn gốc vĩnh cửu của Ngôi Hai Thiên Chúa. “... cho đến thời một phụ nữ sinh con”(5,2): Giống như I-sai-a (7,14), Mi-kha làm nổi bật khuôn mặt người mẹ của vị vua tương lai. Trong Cựu Ước, hoàng hậu chiếm vị trí quan trọng tại triều đình (x.1V. 1,11-37). Bản văn không nói gì đến người cha của vị vua tương lai. Các Kitô hữu đầu tiên đã coi đây như lời ám chỉ về việc thụ thai đồng trinh của Mẹ Maria. “Chính Người sẽ đem lại hoà bình”(5,4): Truyền thống Kitô giáo nối kết câu này với phần trên nói đến vị vua tương lai (x. Bài đọc I, Chúa nhật IV Mùa Vọng, năm C).

3. Lời tiên tri và phụng vụ Công giáo

Vào Chúa nhật IV Mùa Vọng năm C, Hội Thánh đọc Mk 5,1-4a cùng với bài Tin Mừng Lc 1,39-45. Sự chọn lựa này làm nổi bật những điểm chính yếu: (1) Mi-kha đã nói tiên tri về việc giáng sinh của Chúa Giêsu, (2) Hài nhi trong lòng Mẹ Maria là Thiên Chúa “nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa”, (3) Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Các bài Thánh Kinh trong Chúa Nhật IV Mùa Vọng có mục đích giúp ta chuẩn bị tâm hồn cử hành lễ Giáng Sinh. Trong thực tế, người Công giáo ngày nay cử hành lễ Giáng Sinh thế nào? Có còn đầy đủ ý thức đức tin không hay chỉ còn là dịp vui chơi và mua sắm?

4. Đức Chúa kiện cáo dân người (6,1-8)

  a. Đọc bản văn

Mi-kha dùng từ “vụ kiện” nên bản văn cũng được trình bày như diễn tiến một vụ kiện ở toà án:

- Triệu tập phiên toà (6,1-2): cả vũ trụ trở thành toà án, chứng nhân là “các núi và nền tảng vững bền của cõi đất,” còn nguyên cáo là chính Đức Chúa.

- 6,3-4: những câu hỏi liên tiếp được đặt ra, không những nhắc lại những việc tốt lành Thiên Chúa đã làm cho Dân Người, mà còn diễn tả nỗi đau đớn của Thiên Chúa khi chứng kiến sự vô đạo của dân.

- 6,5: nhắc đến câu chuyện vua Ba-lác triệu Bi-lơ-am đến để nguyền rủa Ít-ra-en nhưng thay cho lời nguyền rủa, Bi-lơ-am lại chúc phúc (x.Ds 22-24). Sít-tim là giai đoạn cuối trong hành trình từ Ai Cập đến phía đông sông Gio-đan. Ghin-gan là thánh điện nổi tiếng gần Giê-ri-khô (Am 4,4). Như thế câu này nhắc lại toàn bộ lịch sử Ít-ra-en từ khi ra khỏi Ai Cập đến khi vào Đất Hứa. Tất cả để làm nổi bật những việc tốt lành Chúa đã làm.

- 6,7-8: Dân tìm biện hộ cho mình bằng những nghi thức tế tự: lễ toàn thiêu, dâng bê một tuổi, dâng ngàn dê đực, dâng vạn suối dầu, dâng cả con trai đầu lòng... tưởng rằng có thể làm nguôi cơn giận của Đức Chúa trước tội ác của họ. Thế nhưng điều Thiên Chúa muốn là “thực thi công bằng, quý yêu nhân nghĩa, và khiêm tốn bước đi với Chúa”.

 b. Liên kết với cử hành phụng vụ

Mi-kha 6,1-2 đã gợi hứng cho thánh thi Improperia (Những lời trách cứ) được hát trong Nghi thức Thứ Sáu Tuần Thánh, trong khi cộng đoàn hôn kính Thánh Giá Chúa Giêsu. Bạn hãy sống lại bầu khí của Thứ Sáu Tuần Thánh, đặt mình đối diện với Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, và lắng nghe lại những lời này: “Dân Ta ơi, Ta đã làm gì cho ngươi? Ta đã làm chi khiến ngươi phiền lòng? Hãy trả lời Ta đi?” Chúa đã làm gì cho bạn, và bạn đã làm gì cho Chúa?

 

CUỐN SÁCH 41

SÁCH NA-KHUM (Nk)

1. Bối cảnh

         Ngôn sứ Na-khum tuyên sấm vào lúc sức mạnh của Át-sua sụp đổ, sau khi Át-náp-pa, vị vua cuối cùng của ho băng hà vào năm 626. Năm 612, người Mê-đi và Ba-by-lon liên minh với nhau đến tấn công và phá hủy thành Ni-ni-vê, thủ đô người Át-sua. Tuy thế, trước thời điểm đó, người Át-sua đã mất quyền kiểm soát các dân mà họ đã bắt làm nô lệ, những kẻ vô vùng câm phẫn họ. Người Do thái ở trong số đó. Các bài thơ của Ngôn sứ Na-khum cho ta thấy nỗi lòng của một người yêu nước tin tưởng rằng Đức Chúa điều khiển lịch sử của các dân tộc (Dẫn nhập Sách Ngôn sứ Na-khum, Cựu Ước và Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Na-khum gồm có 3 chương:

Chương

1. Thánh vịnh - Cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA - Lời sấm về Giu-đa và Ni-ni-vê.

2. Tấn công - Bản án cho con sư tử Át-sua.

3. Bản án cho Ni-ni-vê đàng điếm - Bài học Nô A-môn - Ni-ni-vê chuẩn bị, nhưng vô ích - Điếu văn.

2. Thiên Chúa không dung tha sự bất công (Nk 3,1-7)

Chủ đề thần học của sách Na-khum là Thiên Chúa sẽ không dung tha mãi mãi cho sự bất công. Chủ đề này xuất hiện rõ nét trong lời sấm về Ninivê (thủ đô của Át-sua) sụp đổ. Lời sấm này cảnh báo rằng đế quốc Át-sua ở bất cứ thời đại nào và nơi chốn nào, kể cả tên bạo chúa đang ngự trị trong lòng người, sẽ đều bị Thiên Chúa trừng phạt. Theo luật của Át-sua, người nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình sẽ bị tước lột quần áo và thành phương tiện thoả mãn cho bất cứ ai. Na-khum dùng những sự kiện này để mô tả về án phạt cho Ni-ni-vê (3,5-6). Ở đây cũng có thể liên tưởng đến sách Khải Huyền, chương 17, nói về sự trừng phạt Ba-by-lon. “Ai còn cảm thương nó?” (3,7). Tên của Na-khum có nghĩa là “người được an ủi,” còn ở đây Nakhum đảo ngược ý nghĩa “Ai còn cảm thương nó” để mô tả án phạt giáng xuống trên Ni-ni-vê.

Halleluia! Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu độ, Đấng vinh hiển uy quyền... Người đã xét xử con điếm khét tiếng từng dùng chuyện gian dâm mà làm cho mặt đất ra hư hỏng, và Người đã bắt nó phải đền nợ máu các tôi tớ của Người mà chính tay nó đã giết... Halleluia! Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng Chúa lời tôn vinh, vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền”(Kh 19,1-2.6-8).

 

CUỐN SÁCH 42

SÁCH KHA-BA-CÚC (Kb)

 

1. Bối cảnh

         Trong Thánh Kinh, ngôn sứ Kha-ba-cúc là người đầu tiên dám cật vấn Thiên Chúa. Suốt nhiều thế kỷ, đức tin vẫn tuyên xưng công lý của Thiên Chúa. Tuy nhiên, công lý ấy không bao giờ cũng rõ ràng và nhiều người phải im lặng giấu đi mối ngờ vực của mình. Ngôn sứ Kha-ba-cúc là người đầu tiên đạt ra câu hỏi: Tại sao Đức Chúa cho phép bất công chiến thắng? Khi Người trừng phạt kẻ áp bức, tại sao Người lại thay thế kẻ ấy bằng một người khác tệ hơn? Câu trả lời có 2 vế:

- Đức Chúa giữ bí mật về cách thức Người điều hành thế giới, Người chỉ đòi hỏi chúng ta một điều đó là luôn trung thành:  Người công chính thì được sống, nhờ lòng thành tín của mình (Kb 2,4).

- Vị ngôn sứ chiêm ngắm vinh quang của Thiên Chúa, Đấng rồi ra sẽ thực thi công lý.

         Ngôn sứ Ha-ba-cúc tuyên sấm từ năm 605-600, khi vua Na-cô-đô-nô-xo vừa tiêu diệt đế quốc Át-sua hung hãn, chính ông đang trở nên đầy quyền lực và đang áp bức Ít-ra-en (Dẫn nhập Sách Ngôn sứ Kha-ba-cúc, Cựu Ước và Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Kha-ba-cúc gồm có 3 chương:

Chương

1. CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA NGÔN SỨ VÀ THIÊN CHÚA - Lời phàn nàn thứ nhất của ngôn sứ: Sự công chính suy thoái - Sấm ngôn đầu tiên: Dân Can-đê, một tai hoạ ĐỨC CHÚA gửi đến - Lời phàn nàn thứ hai của ngôn sứ: Kẻ áp bức đòi tiền hối lộ.

2. Sấm ngôn thứ hai: Người công chính sẽ được sống nhờ lòng thành tín - NHỮNG LỜI CHÚC DỮ CHO KẺ ÁP BỨC.

3. CẦU XIN ĐỨC CHÚA CAN THIỆP.

2. Cuộc đối thoại giữa Tiên tri Kha-ba-cúc (1,2 – 2,5a)

Cuộc đối thoại gồm hai phần, trong mỗi phần vị tiên tri đặt câu hỏi với Chúa và than khóc (1,2-4; 1,12-17), sau đó là lời đáp trả của Thiên Chúa. Vị tiên tri đặt ra những câu hỏi thật đau đớn, cũng là những câu hỏi của người tín hữu khi lâm vào tình trạng khổ đau: “Tại sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau?” “Tại sao Ngài cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình?”(1,3.13).

Câu trả lời của Thiên Chúa được đúc kết trong 2,4: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính, nhờ đức tin, sẽ được sống.” “Đức tin” ở đây là sự thành tín (Xh 34,5-8). Đây cũng là từ chìa khoá trong thần học của thánh Phaolô về sự công chính hoá bởi đức tin: “Trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mạc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống”(Rm 1,17). Thư Do thái nối kết đức tin với sự kiên nhẫn: “Người công chính của Ta nhờ đức tin sẽ được sống, nhưng nếu người ấy bỏ cuộc thì Ta không hài lòng về người ấy”(Dt 10,38).

 

CUỐN SÁCH 43

SÁCH XÔ-PHÔ-NI-A (Xp)

 

1. Bối cảnh

         Ngôn sứ I-sai-a đã kết thúc sứ vụ khoảng năm 690, và sau đó những người Giuđa trung nghĩa đã bị bắt bớ dưới triều đình vua Mơ-na-se. Suốt thời gian này, người ta không được nghe Lời của Thiên Chúa. Khoảng năm 630, lời rao giảng của ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã phá vỡ sự im lăng ấy, nhưng không gây được tiếng vang bao nhiêu trong một dân đa bị ảnh hưởng ngoại giáo (Dẫn nhập Sách Ngôn sứ Xô-phô-ni-a, Cựu Ước và Tân Ước, Giờ Kinh Phụng Vụ). Sách Xô-phô-ni-a gồm có 3 chương:

Chương

1. NGÀY CỦA ĐỨC CHÚA TẠI GIU-ĐA - Lời mở đầu liên quan đến vũ trụ - Hạch tội thờ các thần ngoại bang - Hạch tội những kẻ buôn bán ở Giê-ru-sa-lem - Hạch tội những kẻ không tin - Ngày của ĐỨC CHÚA.

2. Kết luận: Kêu gọi trở lại - Kẻ thù ở phương Tây: quân Phi-li-tinh.

3. HẠCH TỘI GIÊ-RU-SA-LEM - Hạch tội các nhà lãnh đạo quốc gia - Bài học của các nước - Các dân tộc trở lại - Thiểu số Ít-ra-en còn sót lại - Thánh vịnh mời gọi Xi-on vui mừng.

 

 2. Sống trong hy vọng (Xp 3,9-20)

   a. Số Sót

Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ, chúng sẽ tìm nương ẩn nơi Danh Đức Chúa”(3,12). Từ anawim trong tiếng Hipri nói đến những người nghèo hèn nhưng còn hàm chứa ý nghĩa thần học về sự khiêm tốn, nghèo khó, thấp hèn. Đó là những người không cậy dựa vào thế lực người đời nhưng hoàn toàn cậy dựa nơi Thiên Chúa. Thánh Mátthêu đặt vào môi miệng Chúa Giêsu lời mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 21,29). 

  b. Thánh thi ngợi khen (3,14-18a)

Đối chiếu thánh thi này với trình thuật Truyền tin cho Đức Mẹ (Lc 1,26-38) sẽ thấy nhiều điểm tương đồng:

- Reo vui lên (câu 14).

- Đừng sợ (câu 16).

- Thiên Chúa ở giữa ngươi (câu 17).

- Vị Cứu tinh hùng mạnh (câu 17).

Việc đối chiếu này giúp ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của trình thuật Truyền Tin cũng như ý nghĩa của kinh Kính Mừng và chuỗi Mân Côi. Mẹ Maria đang mang Chúa Giêsu trong lòng dạ, Mẹ được giới thiệu như là Giêrusalem mới và là mẫu mực cho những người nghèo của Thiên Chúa, những người đặt trọn niềm tín thác và cậy trông nơi Thiên Chúa.

 

CUỐN SÁCH 44

SÁCH KHÁC-GAI (Kg)

 

1. Tổng quát

Ngôn sứ Khác-gai là vị đầu tiên trong các ngôn sứ sau thời lưu đày. Tên gọi “Khác-gai” có nghĩa là lễ hội. Tên gọi này có thể chỉ về ngày sinh của vị tiên tri là một lễ hội. Tên gọi này cũng có thể nói về nhiệm vụ của ông là tái thiết Đền thờ để phục vụ các cử hành tôn giáo, những lễ hội. Tiên tri Khác-gai bắt đầu công bố các sấm ngôn bắt đầu từ năm 520 trước Công nguyên. Đối tượng ông nhắm đến là những người Do thái từ lưu đày trở về lần II dưới sự lãnh đạo của Dơ-rúp-ba-ven và Giơ-hô-xa-đắc (khoảng năm 522). Sách Khác-gia gốm có 2 chương:

Chương

1. Tái thiết Đền Thờ.

2. Hạch hỏi các tư tế - Lời hứa cho được mùa - Lời hứa cho Dơ-rúp-ba-ven.

Sách tiên tri Khác-gai có thể được phân chia như sau:

Phần I: Tái thiết Đền thờ (1,1-15a).

1,1 -11: Lời sấm thứ nhất: Cổ võ việc xây lại Đền thờ.

1,12-15a: Lời sấm thứ hai: Đáp ứng của dân và lời bảo đảm của Chúa.

Phần II: Vinh quang tương lai của Đền thờ (1,15b– 2,23).

1,15b – 2,9: Lời sấm thứ ba: Lời hứa của Chúa.

2,10-19: Lời sấm thứ tư : Những quyết định và phúc lành tương lai.

2,20-23: Lời sấm thứ năm: Tương lai của Dơ-rúp-ba-ven

 

CUỐN SÁCH 45

SÁCH DA-CA-RI-A (Dcr)

1.  Tổng quát

Sách Da-ca-ri-a không cho biết tên tác giả. Mặc dù những phát hiện tại Qumran cho thấy không có sự phân chia giữa Da-ca-ria-a chương 1-8 và chương 9-14 (tức là Da-ca-ria-a I & II), các học giả ngày nay vẫn cho rằng đây là hai phần tách biệt dựa vào những khác biệt về nội dung, văn phong, và từ vựng. Về nội dung, Da-ca-ria-a I quan tâm đến việc tái thiết đền thờ, các khuôn mặt lịch sử, và các lời sấm được xác định về thời gian; còn Da-ca-ria-a II lại quan tâm đến án xử của Thiên Chúa và những lời hứa mang tính cánh chung. Về văn phong, Da-ca-ria-a I là tuyển tập chín thị kiến và những lời giải thích được viết như thơ; còn Da-ca-ria-a II là một chuỗi những lời sấm quy chiếu về các tiên tri thời trước. Về từ vựng, Da-ca-ria-a I bắt đầu bằng công thức truyền thống của các tiên tri, còn Da-ca-ria-a lại bắt đầu hai phần lớn trong sách bằng câu “Lời sấm: Lời của Đức Chúa…”(9,1; 12,1).

Chúng ta cũng không có được những chi tiết xác định thời gian tác phẩm được biên soạn. Tuy nhiên các học giả dựa vào một số điểm để xác định thời gian biên soạn: (1) việc sử dụng các lời tiên tri trước và trong thời lưu đày (I-sai-a, Hô-sê, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Giô-en); (2) một vài ám chỉ đến những biến cố xảy ra sau năm 333 trước Công nguyên (x. chương 9); (3) văn phong và nội dung mang tính cánh chung, đặc biệt chương 14, gợi ý về thời kỳ sau khi mới từ lưu đày trở về. Dựa vào những chi tiết trên, các học giả cho rằng sách Da-ca-ria-a II đã được biên soạn sau cuộc chinh phục của Alexander đại đế (năm 333 trước CN) và trước năm 200 trước Công nguyên.

Phần mở đầu của sách giới thiệu “Tiên tri Da-ca-ri-a, con ông Berekia, ông này là con ông Iddo”. Tên gọi Da-ca-ri-a có nghĩa là “Thiên Chúa đã nhớ đến”. Ông Iddo, ông nội của Da-ca-ri-a là một trong các tư tế đã từ cảnh lưu đày Babylon trở về, do đó nhiều người nhấn mạnh đến nguồn gốc tư tế của tiên tri Da-ca-ri-a. Dựa vào những chỉ dẫn về thời gian trong sách, người ta chia sách Da-ca-ri-a thành hai phần: phần thứ nhất (chương 1-8) và phần thứ hai (chương 9-14). Hai phần này trình bày hai giai đoạn khác nhau trong lịch sử tôn giáo và chính trị của Ít-ra-en. Sách Da-ca-ri-a gồm có 14 chương:

Chương

Chương

1. Khuyên nhủ sám hối - Thị kiến thứ nhất: các kỵ mã

8. Viễn ảnh ơn cứu độ thời Đấng Mê-si-a - Trả lời về vấn đề ăn chay

2. Thị kiến thứ hai: sừng và thợ rèn - Thị kiến thứ ba: người đo - Hai lời kêu gọi dân lưu đày

9. Đất mới - Đấng Mê-si-a - Tái thiết Ít-ra-en

3. Thị kiến thứ bốn: mặc y phục cho ông Giê-su-a - "Chồi non" xuất hiện

10. Trung thành với ĐỨC CHÚA - Ít-ra-en được giải phóng và được trở về

4. Thị kiến thứ năm: chân đèn và những cây ô-liu - Ba lời nói liên quan đến ông Dơ-rúp-ba-ven

11. Hai người mục tử

5. Thị kiến thứ sáu: cuốn sách bay

12. Giê-ru-sa-lem được giải thoát và được đổi mới

6. Thị kiến thứ tám: chiến xa - Đội triều thiên cho ông Giê-su-a

13. Nhân cách hoá lưỡi gươm: dân mới

7. Thắc mắc về việc ăn chay - Trở về với quá khứ của dân tộc

14. Cuộc chiến thời cánh chung. Vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem.

2. Sách Da-ca-ri-a I gồm những phần chính như sau:

Phần I: Dẫn vào sách Da-ca-ri-a I (1,1-6).

Phần II: Những thị kiến (8 thị kiến và lời đáp trả của Chúa) (1,7 – 6,15).

Phần III: Những lời sấm về chay tịnh và tương lai (7,1- 8,23).`

  a. Da-ca-ri-a I (chương 1-8) - Đọc Da-ca-ri-a 2,10-17

Đoạn này gồm hai phần. Phần thứ nhất (2,10-13) là những mệnh lệnh cho dân lưu đày và lời cảnh cáo cho các dân đã cai trị họ. Dân lưu đày được khuyến cáo hãy trốn khỏi đất “phương Bắc” trước khi Chúa phân tán dân Ba-by-lon đi bốn phương trời (câu 10). Ba-by-lon ở đây không chỉ một miền đất về mặt địa lý nhưng ám chỉ tất cả những kẻ áp bức Israel. Hình phạt giáng xuống trên chúng là “chúng trở thành chiến lợi phẩm cho những kẻ đã làm tôi chúng”(câu 13). Tại sao Thiên Chúa lại phản ứng mạnh mẽ như thế? Vì “kẻ nào động đến các ngươi là động đến con ngươi mắt Ta”(câu 12). Hình ảnh này diễn tả tấm lòng thương yêu đặc biệt Chúa dành cho dân lưu đày và cho thấy họ có tầm quan trọng như thế nào đối với Chúa. Thiên Chúa luôn luôn dành tình thương đặc biệt cho những người cô thân cô thế, những kẻ bị áp bức. Dựa trên chân lý này, Hội Thánh nhấn mạnh đến tình thương ưu tiên cho người nghèo.

Phần thứ hai (câu 14-17) trình bày một mạc khải mới bằng ngôn ngữ truyền thống: “Hỡi con gái Sion, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi, sấm ngôn của Đức Chúa”(x.Xp 3,14-15). Trong Chúa nhật III Mùa Vọng (năm C), Hội Thánh diễn tả tâm tình này trong bài đọc I để nói lên niềm vui vì ngày giáng sinh của Đấng Mêsia đã gần đến: “Phần tôi, tôi làm phép Rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép Rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa”(bài Tin Mừng CN III Vọng, năm C).

3. Da-ca-ri-a II (chương 9-14)

Da-ca-ri-a II được chia thành hai phần chính:

- Phần I: Án xử của Thiên Chúa (9,1 11,17).

- Phần II: Phục hưng (12,1 – 14,21).

  a. Chân dung Đấng Mêsia

Từ Mêsia trong tiếng Do thái được dịch sang tiếng Hi Lạp là Christos (tiếng Việt là Kitô), có nghĩa là Đấng-được-xức-dầu. Sách Da-ca-ri-a II trình bày dung mạo Đấng Mêsia đích thực và chân dung này sẽ được thể hiện trọn vẹn nơi Chúa Giêsu.

Đấng Mêsia là Đức Vua nhưng không phải vị vua theo quan niệm quen thuộc của người đời. Người là vị vua khiêm tốn, khó nghèo: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ”(9,9). Chính vị vua khiêm tốn và nghèo khó đó sẽ “công bố hoà bình cho muôn dân, thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất”(9,10). Thế nhưng Đấng Mêsia lại bị dân Chúa ruồng bỏ và giết hại như hình ảnh Người Tôi tớ trong sách I-sai-a, để rồi họ khám phá ra chính Người là nguồn Ơn Cứu độ: “Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng…. Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế”(12,10 – 13,1).

 b. Sách Da-ca-ri-a trong cử hành phụng vụ

Trong Phụng vụ Mùa Vọng, vào Chúa nhật Hồng giữa mùa Tím, Hội Thánh mượn lời của Da-ca-ri-a II mà hát lên niềm vui của mình: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi” (9,9). Lễ Giáng sinh đang đến gần, Chúa Kitô sắp được sinh ra, lấp đầy những khát vọng sâu xa nhất của lòng người.

Trong Phụng vụ Mùa Chay, vào ngày Lễ Lá, khi tưởng niệm việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem và được mọi người tung hô chào đón, Hội Thánh lại lấy lời của Da-ca-ri-a II mà nhắc nhớ: “Đức Vua khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ”(9,10). Quả là một hình ảnh khiêm tốn, và hình ảnh ấy là luồng ánh sáng soi chiếu suốt hành trình Tuần Thánh, ở đó chúng ta chiêm ngắm Vua Giêsu hấp hối trong vườn Dầu, bị bắt bớ và đánh đập dã man, bị kết án và vác thập giá lên đồi Canvê, cuối cùng bị đóng đinh vào thập giá, một hình khổ chỉ dành cho quân trộm cướp và phản loạn vào thời đó. Nhưng chính Vua Giêsu đó là Đấng mà người ta phải ngước nhìn và than khóc (12,10). Cũng từ cạnh sườn vua Giêsu ấy, một dòng nước và máu sẽ chảy ra, dòng nước thanh tẩy mọi tội lỗi và ô uế, dòng nước ban tràn đầy ân sủng. Thánh Gioan đã ghi lại thật vắn tắt nhưng cũng thật phong phú ý nghĩa: “Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin… Có lời Kinh Thánh chép rằng: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu”(Ga 19,34-37).

 

 

 

 

 

 

CUỐN SÁCH 46

SÁCH MA-LA-KHI (Ml)

1. Bối cảnh

Tiên tri Ma-la-khi hoạt động vào khoảng năm 450 trước Công nguyên. Khi đó, Đền thờ đã được tái thiết và các sinh hoạt tôn giáo đang được khôi phục. Tuy nhiên có những dấu hiệu tiêu cực trong đời sống đạo của dân chúng. Một số người hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa, cho rằng Chúa không đem lại sự thịnh vượng mà các tiên tri loan báo; một số khác tuy vẫn giữ những nghi thức tế tự nhưng chỉ là hình thức bên ngoài. Trong bối cảnh đó, tác giả sách Ma-la-khi nhấn mạnh đến tinh thần của giao ước Thiên Chúa đã ký kết với Môsê. Sự trung thành với giao ước phải phát xuất tự tấm lòng và đặt nền trên sự kính trọng yêu thương chứ không phải trên việc tuân giữ các lề luật cách hình thức. Sách Ma-la-khi gồm có 3 chương:

Chương

1. Tình thương của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en - Cáo tội các tư tế.

2. Hôn nhân hỗn hợp và ly dị - Ngày của ĐỨC CHÚA.

3. Nộp thuế thập phân cho Đền Thờ - Người công chính khải hoàn trong ngày ĐỨC CHÚA.

2. Giáo huấn

Tiên tri Ma-la-khi trình bày Thiên Chúa như một vị vua vĩ đại và toàn năng, “Từ Đông sang Tây, Danh Ta thật cao cả giữa chư dân”(1,11), nhưng cũng là Đấng chan chứa tình yêu đối với dân: “Ta đã yêu thương các ngươi. Thế mà các ngươi nói: Ngài yêu thương chúng con ở chỗ nào?”(1,2). Có lẽ vì thế mà một số người quan niệm rằng, “Phụng thờ Thiên Chúa thật là viển vông, tuân giữ các lệnh truyền của Đức Chúa và bước đi ủ rũ trước nhan Người, nào có lợi chi?”(3,14). Hoặc vẫn làm việc thờ phượng nhưng chỉ là hình thức bên ngoài đến nỗi Thiên Chúa trách mắng dân vì cung cách thờ phượng của họ: “Khi các ngươi tiến dâng một con vật mù để làm lễ tế, đó chẳng phải là xấu sao? Và khi các ngươi dâng một con vật què hay bệnh tật, đó chẳng phải là xấu sao? Hãy dâng con vật ấy cho tổng đốc của ngươi, liệu nó có bằng lòng với ngươi chăng?”(1,8).

Giáo huấn của tiên tri Ma-la-khi vẫn rất cần thiết cho đời sống đức tin của ta ngày nay. Trong đời sống thờ phượng, lễ vật tiến dâng là cách biểu hiện lòng tôn kính của ta đối với Thiên Chúa, vì thế lễ dâng phải là những lễ vật có giá trị. Chúa Giêsu giúp ta hiểu giá trị ở đây không chỉ là giá trị vật chất nhưng là chiều sâu tâm hồn của người hiến dâng. Ngoài ra tiên tri Ma-la-khi nhấn mạnh đến việc nộp thuế cho Đền thờ. Đây cũng không chỉ là chuyện đóng góp của cải vật chất nhưng là phương thế giúp ta ý thức mình thuộc về một cộng đồng hiệp nhất, và có trách nhiệm góp phần xây dựng cộng đồng. Vì thế cùng với việc dâng lễ tế là đời sống tốt lành theo ý Thiên Chúa và lề luật của Người, “Hãy trở lại với Ta và Ta sẽ quay lại với các ngươi”(3,7).

 

 

Mục lục

Lời nói đầu. 3

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI ĐỌC CỰU ƯỚC.. 4

SÁCH SÁNG THẾ (St) 7

SÁCH XUẤT HÀNH (Xh) 20

SÁCH LÊ-VI (Lv) 28

SÁCH DÂN SỐ (Ds) 32

SÁCH ĐỆ NHỊ LUẬT (Đnl) 38

SÁCH GIÔ-SUÊ (Gs) 43

SÁCH THỦ LÃNH (Tl) 46

SÁCH RÚT (R) 48

SÁCH SA-MU-EL I (1Sm) 50

SÁCH SA-MU-EN II (2Sm) 54

SÁCH CÁC VUA I (1V) 59

SÁCH CÁC VUA II (2V) 63

SỬ BIÊN NIÊN I & II (1Sb & 2Sb) 67

SÁCH ÉT-RA VÀ NƠ-KHE-MI-A (Er & Nkm) 71

SÁCH TÔ-BI-A (Tb) 75

SÁCH GIU-ĐI-THA (Gđt) 77

SÁCH ÉT-TE (Et) 79

MA-CA-BÊ I (2Mcb) 81

MA-CA-BÊ II (2Mcb) 85

SÁCH GIÓP (G) 88

SÁCH THÁNH VỊNH (Tv) 94

SÁCH CHÂM NGÔN (Cn) 99

SÁCH GIẢNG VIÊN (Gv) 102

SÁCH DIỄM CA (Dc) 104

SÁCH KHÔN NGOAN (Kn) 105

SÁCH HUẤN CA. 111

SÁCH I-SAI-A ĐỆ NHẤT (Is) 116

I-SAI-A ĐỆ NHỊ ( Is 40-55 = 16 chương) 123

I-SAI-A ĐỆ TAM ( Is 56-66 = 10 chương) 127

SÁCH GIÊ-RÊ-MI-A (Gr) 129

SÁCH AI-CA (Ac) 137

SÁCH BA-RÚC (Br) 138

SÁCH Ê-DÊ-KI-EN (Ed) 139

ĐA-NI-EN (Đn) 147

SÁCH HÔ-SÊ (Hs) 151

SÁCH GIÔ-EN (Ge) 155

SÁCH A-MỐT (Am) 156

SÁCH Ô-VA-ĐI-A (Ôv) 158

SÁCH GIÔ-NA (Gn) 159

SÁCH MI-KHA (Mk) 161

SÁCH NA-KHUM (Nk) 163

SÁCH KHA-BA-CÚC (Kb) 164

SÁCH XÔ-PHÔ-NI-A (Xp) 165

SÁCH KHÁC-GAI (Kg) 166

SÁCH DA-CA-RI-A (Dcr) 167

SÁCH MA-LA-KHI (Ml) 170

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét