Thưa Cha, TỘI SIMONIA (SIMONY) LÀ TỘI GÌ?
LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn trả lời:
Sách Tông Đồ Công Vụ kể chuyện một người phù thủy tên là Simon từng làm nhiều trò ảo thuật để mê hoặc
dân chúng về “quyền năng vĩ đại” của mình. Anh này cũng đến nghe các Tông Đồ
giảng và được chịu phép rửa tội. Thấy các Tông Đồ đặt tay ban ơn Chúa Thánh
Thần cho các tín hữu, anh rất thích thú nên đã ngỏ ý biếu tiền cho
các Tông Đồ để xin đặc quyền ban ơn ấy, nhưng đã bị Thánh Phêrô quở trách
nặng nề như sau: “tiền bạc của anh sẽ tiêu tan
luôn với anh, vì anh tưởng có thể lấy tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa sao?”
( cf.Acts 8: 9-24). Nghe thế, anh phù thủy kia sợ hãi và van xin Phêrô và Gioan
xin Chúa cho anh khỏi bị án phạt đó. Từ câu chuyện này, Giáo Hội đã dùng
tên anh phù thủy Simon này để chỉ một loại tội gọi là “Tội
mại thánh = simonia = simony) mà Giáo Luật đã minh nhiên ngăn cấm qua những
điều khoản sau đây:
c.149, triệt 3: “Sự chỉ định chức vụ nhờ
việc mại thánh đương nhiên vô giá tri.”
c.848: “Khi ban các Bí Tích, thừa tác viên
không được đòi thêm cái gì khác ngoài số tiền thù lao mà nhà chức trách có thẩm
quyền đã ấn định; và phải cẩn thận đừng để những người nghèo không được lãnh
nhận Bí Tích vì lý do túng thiếu.”
c.947: “Trong vấn đề bổng lễ, phải xa tránh
hoàn toàn mọi hình thức buôn bán hay thương mại.”
Sách Giáo Lý Công Giáo (SGLCG) cũng đề cập đến tội này và
ngăn cấm như sau :
c.2121: “Tội buôn thần bán thánh
(simony) là mua hoặc bán các thực tại thiêng liêng. Pháp sư Simon muốn mua
quyền lực linh thiêng ông ta thấy tác động nơi các Tông đồ, nhưng Phêrô đã trả
lời ông: “tiền bạc của ngươi hãy hủy hoại đi với ngươi, vì ngươi đã tưởng lấy
tiền bạc mà mua được hồng ân của Thiên Chúa” (Cv 8, 20). Thánh Phêrô đã
hành động đúng như lời Chúa Giêsu dạy: “các ngươi
đã nhận được nhưng không thì cũng hãy ban tặng nhưng không” (Mt
10,8).
Không thể chiếm lấy các lợi ích thiêng liêng làm của riêng mình và
tùy ý sử dụng như kiểu một người sở hữu chủ hoặc một ông chủ, bởi vì các ơn ích
thiêng liêng này bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể nhận được từ
nơi Thiên Chúa, cách nhưng không.
c.2122: “Ngoài những khoản dâng cúng do thẩm quyền
ấn định, thừa tác viên không được đòi hỏi gì cho việc ban các bí tích, và phải
lo liệu để những người nghèo túng không mất ơn nhận lãnh các bí tích vì cảnh
nghèo khó của họ. Thẩm quyền ấn định ‘các khoản dâng cúng’ này dựa trên nguyên
tắc dân Kitô giáo phải cấp dưỡng cho các thừa tác viên của Giáo Hội “người thợ đáng được
của nuôi thân” (Mt 10,10).
Dựạ trên những điều Giáo Hội dạy và ngăn cấm trên đây liên quan
đến “tội mại thánh” chúng ta cần hiểu rõ những áp dụng cụ thể để tránh
gương xấu về loại tội này trong thực hành.
I- Lý Do Giáo Hội cho phép Giáo sĩ nhận
bổng lễ (missarum = mass stipends)
Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng mặc dù việc phục vụ của giáo
sĩ là bổn phận thiêng liêng chính yếu của Sứ vụ và Ơn gọi, nhưng về mặt tự
nhiên giáo sĩ cũng là người như mọi người, nên phải có những nhu cầu
thiết yếu và chính đáng về ăn, ở, thuốc men, quần áo, phương tiên di
chuyển (đặc biệt là nhu cầu xe cộ cho các giáo sĩ làm mục vụ ở Âu Mỹ, Úc
và Canada). Và để thỏa mãn những nhu cầu tối cần này, thì giáo sĩ phải
được chăm sóc xứng đáng để an tâm chu toàn trách nhiệm thiêng liêng của mình.
Vì thế, ở khắp nơi trong Giáo Hội – trừ Việt nam cho đến nay – giáo sĩ (Giám
mục, linh mục) được trả lương tối thiểu (ngân quỹ của Địa phận hay giáo xứ) để
giúp chi phí cho những nhu cầu thiết yếu về ăn, ở,
thuốc men và phương tiện di chuyển.
Khoản tiền lương tối thiểu này nhiều ít khác nhau từ địa phận
này sang địa phận khác, và từ quốc gia này đến quốc gia kia. (Riêng ở
Đức, chánh phủ trả lương cho các giáo sĩ của mọi Giáo Hội như trả lương cho
công chức). Ngoài tiền lương tối thiểu trên, Giáo Hội còn cho phép giáo
sĩ được nhận thêm bổng lễ (missarum) cử hành theo ý của giáo dân xin. (Ở Mỹ, các
linh mục phải khai và đóng thuế lợi tức cuối năm về tiền lương và những
bổng lễ, tiền dâng cúng nhận được, nếu có, trong các dịp rửa tội, chứng hôn và
cử hành nghi thức an táng).
Giáo Hội chăm lo và cho phép nhận bổng lễ dựa vào lời
Chúa dạy sau đây:
- “....Hãy ở lại nhà ấy và người ta
cho ăn uống thức gì thì anh em dùng thức đó vì thợ đáng được trả công”
(Lk 10,7).
- “Đi đường, đừng mang bao bì, đừng mặc
hai áo, đừng đi giầy hay cầm gậy, vì thợ thì đáng được nuôi ăn” ( Mt
10,10).
- “Anh em không biết rằng người lo
cho các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng
được chia phần của bàn thờ sao? Cũng vậy Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin
Mừng phải sống nhờ Tin Mừng” (1Cr 9: 13-14).
- “Những kỳ mục thi hành chức vụ chủ tọa
cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người vất vả
phục vụ lời Chúa và giảng dạy. Quả vậy, Kinh Thánh có nói: Đừng bịt mõm con bò
đang đạp luá, và làm thợ thì đáng được trả công” ( 1 Tim 5 :
17-18).
Trên đây là tất cả nền tảng Kinh Thánh cho việc chăm lo cho đời
sống vật chất của giáo sĩ trong đó có sự cho phép nhận tiền dâng cúng
trong các dịch vụ thánh được trao ban trong Giáo Hội, cụ thể như sau:
1- Bổng Lể (Missarum = mass stipends): các linh
mục dâng Thánh lễ cầu nguyện theo ý chỉ (Intentio Missae = mass intentions) của
người xin thì được hưởng một bổng lễ theo mức qui định của Tòa Giám Mục sở tại.
Ở Mỹ, nói chung, thì mức bỗng lễ này là 5 dollars (có nơi qui định 10 đôla) cho
đến nay.chắc chắn không có nơi nào
Giáo Quyền cho phép nhận 20, 30 dollars cho một ý lễ. Qui định này áp dụng
chung cho mọi giáo xứ, cộng đoàn tín hữu trong Địa phận, chứ không chỉ
riêng cho linh mục Mỹ ở các giáo xứ Mỹ. Các linh mục ViệtNam làm việc trong các
giáo xứ hay cộng đoàn ViệtNam cũng phải theo chung qui định này, nghĩa là không
ai được phép tự ý miễn trừ cho mình để có thể lấy bổng lễ gấp đôi,
gấp ba tùy tiện.
Tóm lại, linh mục không được phép tự ý đòi hỏi người xin lễ trả
cao hơn mức qui định trên của giáo quyền địa phuơng, vì như vậy là trái
với khoản Giáo luật số 848. Xin nhấn mạnh: linh mục
không đượcc phép đòi bỗng lễ cao hơn mức Giáo quyền địa phương qui định và cho
phép; thí dụ đòi 20, 50 hay 100dollars để
dâng một Thánh Lễ hoặc chê ít tiền để từ chối dâng Lễ giáo dân xin.
Tuy nhiên, nếu vì hảo tâm người xin Lễ tự ý dâng cúng số tiền cao hơn
mức qui định thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi gì. Người xin Lễ cần
hiểu rõ điều này để đừng tự ý đưa nhiều tiền xin một Thánh Lễ rồi lại nghĩ tại
linh mục muốn đòi như vậy. Thực ra không phải tất cả các linh mục đều đòi
hỏi như thế trừ người nào có ý vi phạm giáo luật vì tham tiền cách trái
phép mà thôi.
Mỗi Thánh Lễ, linh mục chỉ được hưởng một bổng lễ mà thôi, và nếu có
nhiều người xin Lễ thì linh mục không được phép gom tất cả ý lễ lại để
hưởng trọn mọi bổng lễ trong một Thánh lễ. Nếu vì nhu cầu mục vụ phải gom chung
trong một thánh lễ ngày Chúa nhật thì sau đó linh mục phải làm bù lại cho
đủ các ý lễ với bổng lễ riêng như Giáo Luật số 948 qui định: “Phải áp dụng từng Thánh lễ cho mỗi ý chỉ vì đó mà bổng lễ đã
được dâng và nhận, cho dù bổng lễ đã nhận là bé nhỏ”.
Mặt khác, tuy Giáo luật cho phép linh mục nhận bổng lễ
cho mỗi Thánh Lễ, nhưng nếu giáo dân nghèo túng không có khả năng dâng cúng thì
linh mục cũng được khuyên nhủ phải dâng lễ cầu theo ý người xin dù không có bổng lễ. (cf.can.945, triệt 2), nghĩa là
không bó buộc phải có bổng lễ mới dâng Thánh Lễ, vì Thánh Lễ là vô giá
(invaluable) không thể mua được bằng tiền bạc hay của cải vật chất nào.
2- Ban Bí tích, chủ sự lễ cưới, đám tang, làm phép nhà,
xe cộ, tầu bè, nơi buôn bán v.v.
Không có khoản Giáo luật nào cho phép thừa tác viên có chức thánh
(Giám mục, linh mục, phó tế) đòi tiền dâng cúng để ban một bí tích như Rửa tội,
Xưng tội, Thêm sức, Xức dầu bệnh nhân, truyền Chức Thánh, hay chứng
hôn hoặc cử hành nghi thức an táng. Việc dâng cúng, nếu có, là hoàn
toàn do người lãnh nhận bí tích hay dịch vụ thánh tự nguyện (volunteer) dâng
cho chứ không bị buộc phải làm như vậy.Linh mục có bổn phận phải nói rõ
điều này cho giáo dân hiểu để những người không có tiền nhiễu bỏ ra xin
lễ khỏi phải mạc cảm hay bất mãn vì nghèo túng nên bị thua thiệt.
Nếu thừa tác viên đòi tiền cho bất cứ dịch vụ thánh nào thì đã hành
động ngược với điều Giáo Hội cho phép và biến thừa tác vụ (ministry) của mình
thành hoạt động thương mại trần tục, và hiển nhiên mắc tội “mại thánh =
simonia”.
Ngay cả khi được yêu cầu làm những dịch vụ thánh
khác như làm phép nhà, cơ sở buôn bán, xe, tầu v.v. Giáo sĩ cũng không được
phép đòi trả công nơi người xin và chỉ được phép nhận tiền hay tặng vật
dâng cúng, nếu có, hoàn toàn do lòng hảo tâm của người thụ hưởng tự ý
dành cho mà thôi. Đây là điểm độc đáo khác biệt giữa Giáo Hội Công
Giáo và nhiều giáo phái ngoài Công Giáo. Thí dụ, các linh mục Công Giáo
không được phép đòi các đôi tân hôn hay tang chủ phải trả thù lao cho việc
chứng hôn hay cử hành nghi thức an táng ở nhà quàn hay nghĩa trang, trong khi
các dịch vụ này đòi hỏi phải được trả thù lao ở các giáo phái khác. Có thừa tác
viên (ministers) của giáo phái kia đã đòi phải trả 200 đollars cho mỗi
nghi thức an táng họ cử hành (tiết lộ của nhân viên nhà quàn Mỹ ở
Houston).
Riêng về việc thu lệ phí của các giáo xứ trong việc chuẩn bị và cử
hành các bí tích rửa tội, thêm sức và hôn phối, cần phân biệt mục đích như
sau:
Thông thường, nhiều giáo xứ ở Mỹ có thu lệ phí (10, 15, hay
20 đôla) của mỗi gia đình có con em rửa tội. Lệ phí này giúp trả phí tổn
mua nến và áo trắng để phát cho các trẻ được rửa tội. Nhưng nếu vì nghèo
túng, ai không thể đóng được lệ phí này thì giáo xứ cũng không được
phép từ chối cho lãnh bí tích, vì bí tích không bao giờ được ban vì tiền bạc
cả. Mặt khác, việc dạy giáo lý cho cha mẹ có con em xin rửa tội là trách nhiệm
mục vụ của cha xứ hay linh mục đặc trách. Không hề có luật nào cho phép đòi
tiền trong dịch vụ này. Nếu người thụ hưởng tự ý dâng cúng tiền đãi ngộ
thì linh mục được phép nhận. Nhưng nếu đòi phải trả tiền mới cho học và cho
lãnh bí tích thì đây lại là hành vi mại thánh và rõ ràng muốn gắn tiền
bạc vào điều kiện để lãnh nhận bí tích.
Việc dạy giáo lý và chứng hôn cũng thế. Nếu làm vì tiền thì chắc chắn
là sai trái. Tuy nhiên, cần phân biệt tiền đòi ở đây khác với lệ phí giáo
xứ thu để tập dượt (rehearsal) cho đôi tân hôn và cho sử dụng nhà thờ để
cử hành bí tích hôn phối hoặc lệ phí phải trả cho ca đoàn hát lễ cưới.
II- Tội Mại thánh = Simonia = Simony
Việc nhận bổng lễ theo ý và trong khuôn khổ cho phép của Giáo
Hội hoàn toàn khác với chủ ý đòi bổng lể để cử hành Thánh lễ hay ban các
Bí tích và làm các dịch vụ thánh khác. Do đó, trước hết trong nội bộ Giáo Hội,
nếu ai để tiền bạc chi phối trong việc tiến cử người vào các chức vụ lãnh đạo
Gíáo phận, Dòng tu, trong việc tuyển chọn và truyền chức thánh, trong
việc nhận và cho khấn Dòng… thì chắc chắn đã phạm tội simonia, làm gương xấu
cho người khác, và làm ô nhục cho Giáo Hội. Những ai đã và đang còn
âm thầm làm việc bất chính này thì hãy chuẩn bị để trả lời trước Chúa công
thẳng về tội “buôn thần bán thánh” của mình. Trong thực hành,
người xin và người làm các dịch vụ thánh như xin Lễ, ban Bí
tích, làm phép người hay đồ vật, cầu nguyện cho ai với mục đích lấy tiền thì đó
là tội mại thánh đáng bị lên án trong Giáo Hội.
Phải nói ngay ở đây là tiền bạc hay tặng phẩm vật chất chỉ có
giá trị giúp đỡ cho giáo sĩ có chức thánh thi hành nhiệm vụ thánh trong tinh
thần “người phục vụ Bàn Thánh thì được hưởng
lộc bàn thờ” (1 Cr 9:13) như Thánh Phao lô dạy mà thôi, chứ hoàn toàn
không hề có giá trị cứu rỗi hay lợi ích thiêng liêng nào cho ai, nhất là cho
các linh hồn nơi luyện tội. Việc cầu nguyện hay xin Lễ cầu cho các linh
hồn là việc bác ái thiêng liêng cao quí rất đáng khuyến khích trong Giáo
Hội, nhưng đừng ai hiểu lầm rằng hễ bỏ ra nhiều tiền, xin nhiều lễ thì linh hồn
mau được cứu rỗi. Tiền bạc chắn chắn không thể mua ơn Cứu độ và Nước Thiên
Đàng, vì nếu có như vậy, thì người ta khỏi cần sống Đạo cho hẳn hoi, cứ việc ăn
chơi thỏa thích rồi tiết kiệm nhiều tiền để khi chết nhờ người khác
xin Lễ cho là xong.
Ngược lại, chúng ta phải hiểu rằng Ơn Cứu Độ được ban trước hết do
lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và cậy nhờ công nghiệp cứu
chuộc của Chúa Kitô cộng thêm phần đóng góp của cá nhân vào Ơn Cứu
Độ này khi còn sống trên đời. Nhưng nếu không có lòng thương xót và công nghiệp
của Chúa Cứu Thế Giêsu thì không ai được cứu rỗi, cho dù người ta có bao
nhiêu tiền của và xin bao nhiêu Thánh lễ, nhờ muôn ngàn người cầu nguyện
cho.
Ngược lại, nếu chỉ dựa vào công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô
thôi và không cộng tác chút nào vào công nghiệp này bằng nỗ lực cải thiện đời
sống theo tinh thần Phúc Âm và thực hành những giới răn căn bản thì Chúa không
thể cứu ai được, nói chi đến việc nhờ người khác xin Lễ cầu nguyện thay cho
mình. Đây là căn bản tín lý và thần học về việc
cứu rỗi (salvation).
Nhân đây, tôi phải nói đến một việc rất sai trái đã và đang
được làm ở một vài nơi liên quan đến việc xin Lễ cầu cho các linh hồn. Đó là
việc một vài nhà Dòng, Tu Hội địa phương đã đưa sáng kiến xin “Lễ đời đời” cho các linh hồn và nhận tiền hội
viên vào “Hội đời đời” hay mua “hậu” cho những người còn sống. Tôi quả quyết việc làm
này hoàn toàn sai thần học và tín lý Công giáo và mang tính mại thánh rất
trầm trọng.
Thật vậy, trước hết, làm sao ta biết một linh hồn bị phạt
đời đời mà còn cầu nguyện cho họ? Theo giáo lý của Giáo Hội thì một người
chết khi đang mắc tội trọng (mortal sin) không kịp ăn năn
thống hối và được tha thứ qua Bí Tích Hòa Giải thì phải chịu
án phạt đời đời trong nơi gọi là hỏa ngục (hell) (cf GLCG, số.
1033-35). Mặt khác theo tín điều các Thánh thông công, thì chỉ có sự hiệp
thông ( communion) giữa các tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành trên
trần thế, với các linh hồn thánh trong nơi luyện tội và các Thánh trên
Thiên đàng.(cf. SGLCG, n. 962). Tuyệt đối không có sự hiệp thông nào với những
người bị án phạt đời đời (eternity) trong hỏa ngục.
Vậy xin và làm Lễ đời đời để cầu nguyện cho ai? Các linh hồn thánh (holy
souls) chỉ ở trong Luyện tội (Purgatory) có thời hạn chứ không ở đó vĩnh viễn
đời đời, nên không có lý do gì để “cầu đời đời cho các linh hồn nơi
chốn thanh luyện cuối cùng này”.
Sau hết, làm sao người nhận tiền Lễ đời đời có thể sống
mãi trên trần gian này để thi hành lời hứa cầu nguyện đời đời cho các
linh hồn ấy? Như vậy, ý niệm cầu nguyện đời đời là hoàn toàn không
có căn bản thần học và nền tảng tín lý nào.
Việc gia nhập “Hội Ðời Ðời” hay “Mua Hậu” cho người còn sống cũng là
chuyện dối trá, không có căn bản giáo lý, tín lý nào. Giáo Hội chỉ khuyến khích
việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện tội mà thôi, chứ không dạy mua “bảo hiểm đời sau” cho bất cứ ai còn sống
cũng như cầu cho những người trong hỏa ngục vì “họ đã
bị xa lìa khỏi Thiên Chúa đời đời” rồi (cf. SGLCG,
n.1035).
Đối với những người còn sống trên trần thế, thì chỉ có giới răn của
Chúa và giáo lý của Giáo Hội dạy phải biết sống sao cho phù hợp với những
đòi hỏi của Tin Mừng Cứu Độ là mến Chúa, yêu người và cộng tác với Ơn thánh để
được cứu rỗi, chứ không hề có giáo lý, tín lý, giáo luật nào đòi hỏi
hay khuyên nên “khoán trắng” việc
rỗi linh hồn của mình cho người khác cầu nguyện thay cho qua cái gọi là “Hội Đời Đời” hay “Mua
Hậu” do ai chủ xướng với mục đích buôn thần bán thánh. Tôi quả quyết
việc làm này là hoàn toàn sai trái và có tính chất mại thánh nghiêm trọng để
lưu ý những ai vì không biết nên đã tham gia vào việc dối trá này, nhất
là nhắc cho những ai chủ xướng hãy chấm dứt ngay dịch vụ mại thánh nghiêm
trọng này, vì nó hoàn toàn đi ngược lại với đức tin và giáo lý Công Giáo tinh
tuyền.
Cũng trong phạm trù “mại thánh”, không có giáo lý, giáo luật nào cho
phép giáo sĩ từ chối ban Bí tích cho ai vì lý do không ghi tên nhập
giáo xứ và đóng góp tiền hỗ trợ giáo xứ. Càng không có giáo lý,
giáo luật nào cho phép từ chối cử hành nghi thức an táng nếu người chết
hay tang gia không phải là giáo dân có ghi tên nhập giáo xứ và đã
sử dụng phong bì dâng cúng tiền (collections envelope) cho nhà thờ. Đây là điểm
khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Công giáo và nhiều giáo phái Tin lành. Cụ
thể, giáo phái Baptist khai trừ những thành viên nào đã ghi tên gia
nhập mà không đóng tiền dâng cúng đều đặn. Dĩ nhiên, họ sẽ không còn trách
nhiệm gì đối với các thành viên đã bị khai trừ ra khỏi Cộng đoàn của
họ.
Ngược lại, Cha xứ Công giáo không có quyền đe dọa ai không
vào giáo xứ, không dùng phong bì dâng cúng tiền, thì không được
lãnh nhận bí tích và không được hưởng nghi thức an táng khi chết. Việc
ghi tên nhập giáo xứ (registration for membership) chỉ có mục đích mục vụ
(pastoral care) mà thôi chứ không phải là điều kiện để lãnh bí tích hay
được cử hành nghi thức an táng theo giáo luật. Xin nhớ kỹ điều này.
Cũng xin nói rõ thêm là việc xin Lễ cầu nguyện cho các linh hồn
được khuyến khích trước hết để nói lên sự hiệp thông giữa các linh hồn
nơi luyện tội (Purgatory) và các tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành, cũng
như với các thánh nam nữ trên Trời, như Tín điều các thánh thông công dạy. Ngoài ra, xin lễ cầu cho kẻ chết cũng nói lên lòng bác
ái thiêng liêng giữa người còn sống và kẻ đã qua đời và chắc chắn việc
bác ái này có ích lợi cho các linh hồn nơi luyện
tội.
Nhưng tuyệt đối không
có vấn đề phải xin lể với bổng lễ to, phải được rao tên trước Cộng đoàn
hay phải kéo nhiều chuông, bật nhiều đèn thì sẽ được hưởng ơn ích thiêng liêng
nhiều hơn là một thánh lễ làm âm thầm, không bỗng lễ, không rao, không
chuông, đèn nến. Nói khác đi, xin một Thánh lễ với bổng lễ 5
dollars hay 50,000 dollars để cầu cho ai, hay cho việc gì thì chỉ
có giá trị về mặt trợ giúp vật chất cho Thừa tác viên cử hành chứ không có giá
trị thiêng liêng nào cho người thụ hưởng lợi ích của Thánh lễ đó. Ơn thánh Chúa
ban cho người thụ hưởng nhờ lời cầu nguyện của Giáo Hội là nhưng không
(gratuitous) nghĩa là không lệ thuộc vào bổng lễ ít nhiều của người xin.
Như vậy, đừng ai bao
giờ nghĩ rằng xin lể hay xin cầu nguyện với bổng lễ to thì có hiệu lực thiêng
liêng nhiều hơn bổng lễ nhỏ hay không có bổng lễ. Nếu xin với ý này thì
đó là “muốn dùng tiền của để mua ơn thánh”, để mua Nước Trời và như vậy
là mắc tội “mại thánh” về phía người xin. Ngược lại, về phía người
làm (thừa tác viên) nếu gián tiếp hay trực tiếp gây cho giáo dân ngộ nhận rằng
xin lễ xin cầu nguyện với bổng lễ to sẽ được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn bổng
lễ nhỏ thì cũng phạm tội mại thánh cách chắc chắn. Việc có rao tên, có kéo
chuông, và đốt nhiều đèn nến không có giá trị thiêng liêng nào trước mặt Chúa
mà chỉ có tác dụng phô trương trước mặt người đời mà thôi.
Cũng xin nói rõ là
theo Lễ Qui phụng vụ của Giáo Hội, thì có ba bậc cử hành sau đây:
1- Lễ
Trọng (solemnity): dành cho những dịp đặc biệt như Lễ Chúa Giáng
Sinh, Lễ Phục Sinh, Lễ Chúa Ba Ngôi,…Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hồn Xác lên
Trời, Lễ Thánh Giuse 19/3, Lể Kính hai Thánh Phêrô-Phaolô, Thánh Gioan
Tẩy Giả (24/6),…Lễ Trọng có 3 bài đọc, có Kinh Tiền Tụng (Preface) riêng và
phải đọc kinh Sáng Danh (Gloria), Kinh Tin Kinh (Creed).
2- Lễ
Kính (Feast): dành để kính các Thánh quanh năm và một số dịp đặc
biệt như kỷ niệm cung hiến Thánh Đường v. v.…Lễ kính chỉ có bài đọc một
và bài Phúc âm, đọc Kinh Sáng danh, nhưng không đọc kinh Tin kính.
3- Lễ
nhớ (memorial): trong mọi dịp ngoài hai trường hợp nói trên. Lể nhớ
không phải đọc kinh Sáng Danh và kinh Tin Kính, và chỉ có 2 bài đọc.
Sự phân chia này chỉ
nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng hay đặc biệt của mỗi dịp cử hành chứ không nói lên
giá trị khác biệt về phụng tự (cult, worship) vì mọi Thánh Lễ đều là Hy Tế của
chính Chúa Giêsu và là hành động tạ ơn, ngợi khen Thiên Chúa Cha mà Giáo Hội
nhờ Chúa Giêsu dâng lên Ngài qua việc cử hành Thánh Lể. Do đó, mọi Thánh Lễ đều
có giá trị tuyệt đối và không thể đo lường được bằng tiền bạc.
Ngoài ba trường hợp
đặc biệt nêu trên, mọi lễ cầu nguyện theo ý người xin đều có chung một bậc là
lễ nhớ, chứ không hề có bậc nhất, bậc nhì, bậc ba
với giá tiền khác nhau như đã có sự lạm dụng ở nhiều nơi từ xưa đến nay. Việc
tự ý phân chia bậc trong lễ cầu cho các linh hồn, kèm thêm nhửng thủ tục như
rao tên người xin lể, kéo chuông trước sau Lễ, đốt thêm đèn nến trong nhà thờ
chỉ là hình thức bề ngoài không có giá trị thiêng liêng nào. Tệ hại hơn nữa là
nếu tạo ra những hình thức này để lấy thêm tiền và gây nhộ nhận về giá trị
thiêng liêng thì đó chắc chắn là việc làm có nội dung mại thánh cần phải
tránh.
Tóm lại, Thừa tác viên
không bao giờ được phép cử hành thánh lễ hay ban một bí tích nào để lấy tiền
cả. Giáo dân cũng không được dùng tiền của để mua ơn thánh. Do đó phải lên án
và xa tránh mọi việc “buôn thần bán thánh” tức tội simonia trong việc cử
hành các Bí Tích và mọi dịch vụ thánh khác trong Giáo Hội.
Việc dâng cúng
tiền bạc hay tặng vật của giáo dân cho các giáo sĩ thi hành quyền thánh (sacra
potestas) phải là hành động tự nguyện (voluntary) do lòng biết ơn và hảo tâm
chứ không phải là việc bắt buộc, một sự đổi chác có tính thương mại. Ai làm
với mục đích này thì rõ rệt đã mắc tội mại thánh (simonia).
Là Dân Chúa trong Giáo
Hội, và với thiện chí xây dựng cho Giáo Hội ngày thêm tinh tuyền, thánh thiện,
để phúc âm hóa hữu hiệu người khác, chúng ta cần lưu ý điều này để tránh
gương xấu có hại cho uy tín của Giáo Hội, của hàng giáo sĩ thừa tác đang xả
thân phục vụ cho giáo dân ở trong nước cũng như hải ngoại. Chắc
chắn đây chỉ là gương xấu rất hạn chế chứ không phổ biến trong Giáo Hội
vì đại đa số giáo sĩ ở khắp mọi nơi đều ý thức rõ gương xấu này và không hề
dung túng hay lạm dụng trong khi thi hành sứ vụ thánh của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét