TUẦN I
1. Từ lúc nhỏ con đã được giáo dục: tin có Chúa, tham dự
Thánh Lễ, chịu các Bí tích, giữ các giới răn... và sự thật là con đã làm rất
tốt nhưng theo bản năng, con thấy nó khô khan quá, xin Cha giúp cho!
Thứ
nhất thế nào là bản năng? Hành động bản năng là làm theo thói quen, quán tính
(dành cho động vật cấp thấp – chẳng hạn, gõ kẻn cho cá ăn). Còn con người là
động vật cấp cáo vì có thân xác, có trí khôn, có tâm (linh hồn), đó là hình ảnh
của Thiên Chúa. Cho nên, Đavít từng nói: "Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì
con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? Chúa
cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,ban vinh quang danh dự làm mũ
triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự
dưới chân: Nào chiên bò đủ loại, nào thú vật ngoài đồng, nào chim trời cá biển,
mọi loài ngang dọc khắp trùng dương" (Tv 8,-9).
Chính
Thiên Chúa đã mặc khải về phẩm giá con người. Phẩm giá cao quý ấy được bộc lộ
trọn vẹn nơi Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người, và đã tự đồng hóa mình với
những người nghèo khổ, hèn mọn nhất. Chính vì thế, con người trở thành con của
Thiên Chúa, và người Kitô hữu phải biết trân trọng con người, những con người
cụ thể ta gặp trong cuộc sống, dù là trẻ thơ hay già cả, giàu có hay nghèo hèn,
mạnh khỏe hay yếu đau, bạn hay thù… vì tất cả đều là hình ảnh của Thiên Chúa,
và Đức Giêsu đang hiện diện trong họ (Mt 25,40).
Chúa tạo dựng
con người có xác và hồn cho nên người Kitô hữu ý thức bản chất và vận mạng cao
cả của mình, để biết ngẩng đầu lên và hướng lòng đến những sự trên trời. Phát
triển kinh tế và những tiện nghi vật chất là điều cần thiết và hữu ích, nhưng
chúng ta cũng dễ bị cám dỗ để quên mất rằng “Nhân linh ư vạn vật” và “mang
trong lòng những khát vọng vô biên, được mời gọi tới một cuộc sống cao cả hơn”
(MV 10) chứ không phải chỉ là vật chất, chết là hết. Vì thế, phải hướng đến
việc phát triển con người toàn diện, chứ không chỉ về thân xác và vật chất mà
thôi (tức bản năng).
2. Theo con đạo nào cũng tốt, hay “Đạo nào cũng như Đạo nào, dạy ăn
ngay ở lành”. Thưa Cha như thế có đúng không?
Thứ
nhất, “Chúng ta không thể phủ nhận việc các Tôn giáo, trong tư cách của mình,
có thể thực thi một chức năng cứu độ nào đó, nghĩa là các Tôn giáo có thể giúp
con người đạt đến cứu cánh tối hậu của mình, mặc dù còn mập mờ thiếu sót”
(Uỷ Ban Quốc Tế Thần Học, Kitô Giáo và Các Tôn Giáo, số 16-19). Chỉ trong Mầu
Nhiệm Chúa Kitô Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, Người là ‘Đường, là Sự Thật và
là Sự Sống’ (Ga 14,6), là mạc khải trọn vẹn về chân lý thần linh đã được ban
cho con người: ‘không ai biết rõ Người Con, trừ Chúa Cha; cũng không ai biết rõ
Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho’ (Mt 11,27);
‘không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng
ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết’ (Ga 1,18). Thật
vậy, tất cả mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi
con người, được sáng tỏ nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, đồng thời
là Đấng Cứu Độ duy nhất đã hoàn thành công trình cứu độ trần gian và bây giờ
không còn chờ đợi Đấng nào khác. “Ngoài
Người ra không ai đem ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này, không có một danh nào
khác đã ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ Danh đó mà được cứu độ” (Cv
4,12).
Thứ hai, Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc độc nhất đã thiết lập
Giáo Hội như mầu nhiệm cứu rỗi. Chính Người ở trong Giáo Hội và Giáo Hội ở
trong Người (Ga 15,1tt). Vì mối liên kết không thể phân ly giữa Chúa Kitô là
Đầu, Giáo Hội là thân thể của Người, cho nên, Mầu Nhiệm cứu rỗi của Đức Kitô
cũng thuộc Giáo Hội, tất cả những gì của Chúa Kitô, thì Giáo Hội cũng có như
vậy. Chính vì sự kết hiệp với tính độc nhất và phổ quát ơn cứu độ của Chúa
Kitô, Giáo Hội có sự hiện diện đầy đủ của Chúa Kitô, tức cũng có đầy đủ phương
tiện cứu rỗi. Chúa Kitô, Ngài vẫn tiếp tục hiện diện, và công trình cứu độ vẫn
luôn được thực hiện ở trong Giáo Hội bằng những phương thế của Giáo Hội (Cl
1,24-27). Người không bao giờ bỏ Giáo Hội của Người, nhưng ở cùng với Giáo Hội
mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20), cùng một trật hướng dẫn Giáo Hội nhờ Thần
Khí của Người (Ga 16,13). Sau khi Chúa Kitô phục sinh, Ngài trao phó cho Phêrô
và các Tông đồ khác phải phổ biến và quản trị Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô
(Mt 28,18tt). Giáo Hội này không phải là cái gì đó vô hình, nhưng được cấu tạo
bởi những con người và tổ chức như một xã hội trong thế giới, tồn tại trong
Giáo Hội Công Giáo, được quản trị bởi Thánh Phêrô và các Giám Mục hiệp thông
với người.
Giáo Hội lữ hành trần gian này cần thiết cho sự cứu rỗi của mỗi
người, vì chỉ mình Chúa Kitô là Đấng trung gian; con đường cứu độ duy nhất và phổ
quát. Người hiện diện giữa chúng ta hôm nay đây trong thân thể Người là Giáo
Hội; chính Người đã nói: “Ai tin và chịu Phép Rửa, sẽ được cứu độ” (Mc 16,16),
đồng thời ra lệnh cho Giáo Hội Người rằng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân
trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 20,19).
Tóm lại, Giáo Hội là Bí Tích phổ quát của ơn cứu rỗi,
vì chưng luôn gắn liền một cách mầu nhiệm với Chúa Kitô, Đấng cứu độ trần gian,
là Đầu thân thể mình. Cho nên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Giáo
Hội có một quan hệ cần thiết đối với sự cứu rỗi loài người. “Chân lý đức tin này không giảm nhẹ lòng
kính trọng chân thành của Giáo Hội đối với các Tôn giáo trên thế giới, nhưng
đồng thời cũng tuyên bố quyết liệt rằng không thể chấp nhận não trạng trung lập
“Đạo nào cũng tốt"; “phải tuyệt đối tránh mọi hình thức giảm thiểu hay đồng ý hời
hợt về đức tin chân thật” (Tuyên Ngôn Dominus Jesus của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin,
2000, số 9-10). Bên cạnh đó, Giáo Hội Công Giáo “không hề phủ nhận những gì là
chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những
huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điểm khác với chủ trương mà
Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng chân lý, chân lý chiếu soi
cho hết mọi người. Tuy nhiên, Giáo Hội rao giảng và có bổn phận kiên trì rao
giảng Chúa Kitô, Đấng là ‘Đường, Sự Thật và là Sự Sống’ (Ga 14,6), nơi Người,
con người tìm thấy sự sống Tôn giáo sung mãn và nhờ Người, Thiên Chúa giao hoà
mọi sự với mình”.
Toàn thể nhân loài muôn sắc tộc ngày
càng trở nên hiểu biết, thân thiện và cảm thông với nhau hơn nhờ giao thông,
thông tin liên lạc hiện đại tân tiến và dễ dàng. Do đó, các dân tộc tiếp xúc,
giao lưu văn hoá với nhau ngày càng sâu rộng và thắm thiết. Khi các văn hoá,
các Tôn giáo xích lại gần nhau hơn nhờ mối giây yêu thương và tôn trọng nhau,
người ta thường có não trạng “Đạo nào cũng tốt” hay “Đạo nào cũng như Đạo nào”.
Tuy nhiên, chúng ta phải luôn xác quyết
rằng chỉ có một Tôn giáo hay một Đạo duy nhất chân thật, chỉ có một Nhiệm Cục
Cứu Rỗi duy nhất và phổ quát do Thiên Chúa ban tặng cho loài người trong Đức
Giêsu Kitô và nhờ Thánh Thần của Người. Tôn giáo này tồn tại trong Giáo Hội
Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội mà Chúa Kitô Giêsu đã uỷ thác nhiệm vụ
truyền bá cho mọi người. Vậy, tất cả mọi người đều có nhiệm vụ tìm kiếm chân
lý, nhất là những chân lý có liên quan tới Thiên Chúa và Giáo Hội Người, và khi
đã nhận biết rồi, họ phải tin theo và tuân giữ, và đương nhiên họ sẽ được cứu
độ (1Tm 2,4).
3. Trong
cuộc sống chúng ta thường nghĩ rằng khi gặp sung sướng, hạnh phúc đó là hồng ân của
Chúa, còn khi ta thất bại, đau khổ đó là lúc Chúa thử thách chúng ta. Con có phải tuyệt đối tin vào điều đó không! Con
thấy đó như là một sự ngụy biện vì nếu như vậy thì cần gì đến Chúa, vì lẽ
thương thành công là nhờ vào công sức của chính mình và thất bại chỉ đơn giản
là do mình chưa chuẩn bị tốt hơn thôi. Đã bao lần con cố gắng gạt phắt đi những
suy nghĩ đó nhưng nó cứ mãi luẩn quẩn trong đầu con. Xin cha gỡ rối cho!
- Theo bản tính tự nhiên của con người, khi sức khỏe,
công việc, hay mọi biến cố xảy ra tốt đẹp, thành công, bình an và hạnh phúc như
ý muốn, chúng ta không cảm thấy cần cậy đến sự giúp đỡ và sức mạnh của Chúa. Vì
chưng, chúng ta nghĩ rằng đó là do tài năng, trí khôn và sức lực của mình. Thật
là một sai lầm! Vì thân xác, tài trí và sức lực của ta ở đâu chẳng phải là
Thiên Chúa ban cho ta. Chính Vua Đa-vít nói: "Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân
con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!
Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con
được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. Con mới
là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi
trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự" (Tv 139,
13,16). Và "Ngắm tầng trời tay Chúa
sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bày, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ
đến, phàm nhân là chi là Chúa phải bận tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém
thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công
trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân" (Tv 8,4-6).
Cho nên, Sách Huấn Ca dạy: "Hãy tin vào Chúa, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho
ngay thẳng và trông cậy vào Người. Hỡi ai kính sợ Đức Chúa, hãy trông đợi lòng
lân tuất của Người, đừng lìa xa Người kẻo ngã. Hỡi ai kính sợ Đức Chúa, hãy tin
vào Người, và các bạn sẽ không mất phần thưởng đâu. Hỡi ai kính sợ Đức Chúa,
hãy đợi trông ơn lành, niềm vui không cùng và lòng thương xót" (Hc
2,6-9). Như thế, Thiên Chúa yêu chúng ta bằng một tình yêu bền vững và bất
diệt. Ngài có rất nhiều điều để ban cho chúng ta và Ngài ao ước được giúp đỡ
chúng ta bằng bất cứ cách nào. Ngài muốn dành thời gian cho chúng ta. Ngài mong
mỏi chúng ta sống cậy vào Ngài để Ngài dạy chúng ta biết luôn sẵn lòng nhận lấy
sức mạnh của Ngài, sức mạnh mà chính bản thân chúng ta chẳng bao giờ có được.
Đặc biệt, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Vì
chưng, chính chúng ta không thấy điều chúng ta đang thiếu, nhưng Thiên Chúa
thấy tất cả, Ngài sẵn sàng ban cho, nhưng làm sao Ngài có thể ban nếu chúng ta cứ phớt lờ Ngài hoặc gạt Ngài ra bên
ngoài cuộc đời của ta?
Người ta thường nói: “đời là bể
khổ”. Điều đó cho thấy kiếp người không tránh khỏi đau khổ, đời người là một
hành trình đau khổ triền miên. Nhưng chúng ta không tránh khổ mà phải can đảm
chấp nhận nó và đi xuyên qua nó để “hóa giải” đau khổ thành niềm vui và hạnh
phúc vô biên nhờ cậy dựa vào Chúa. Chính Chúa Giêsu cũng không tránh khổ; Ngài
cỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta tung hô và chào đón bằng những cành
lá thiên tuế. Đó chính là lúc Ngài khởi đầu hành trình đau khổ (Mt 21,1-11).
Ngài là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ Khiêm-Nhường, “
hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”
(Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình
nhục nhã nhất. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn
ngàn danh hiệu” (Pl 2:9). Danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời
dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10). "Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải
mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:11).
Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy
cậy trông vững vàng vào Thiên Chúa và hãy can trường chịu những khó khăn, đau khổ
vì ơn Chúa luôn đủ cho chúng mình (2Cr 12,9-10). Nếu chúng ta không gặp những
phiền muộn hay đau khổ, chúng ta cảm tạ Ngài vì nhờ Ngài mà chúng ta có mọi sự
an lành. Trái lại, nếu gặp đau khổ, chúng ta càng hãnh hiện vì Ngài cho phép
chúng xảy ra với mục đích lôi kéo chúng ta đến gần Ngài hơn. Ngài đặt chúng ta
đối diện với những khó khăn và thử thách, không phải để hành hạ hay trừng phạt
chúng ta nhưng để tăng thêm sức mạnh và lòng cậy trông cho chúng ta. Cho nên,
Thánh Phaolô xác tín rằng: “gian truân tạo nên chịu đựng; chịu đựng tạo ra
sự trung kiên; và trung kiên tạo ra sự trông cậy” (Rm 5,3-4).
Vậy, sức mạnh của đức
tin là lệ thuộc và trông cậy vào Chúa. Nó sẽ giúp chúng ta kiên vững trước
trước những khó khăn và thử thách, đồng thời giúp cuộc sống của chúng ta sẽ
triển nở, hạnh phúc viên mãn bởi vì chúng ta ngày càng tiến đến gần Ngài và trở
nên giống Ngài hơn. Lòng tin cần thiết cho ơn cứu độ (Mt 10,32-33), thì lòng
cậy là vũ khí bảo vệ ta trong cuộc chiến để được ơn cứu độ (1Tx 5,8).
Đời sống Kitô hữu tự bản chất hướng về tương lai,
hướng về thiên đàng và hướng về sự sống viên mãn của Thiên Chúa. Cho nên, chúng
ta luôn luôn phát triển và kiện toàn đức tin nhờ lòng cậy trông. Đời sống đức
tin của chúng ta phải luôn sống động, linh hoạt và triển nở chứ không là quà
tặng quí báu Thiên Chúa ban đem chôn cất, giữ kín. Chúng ta là những người đang
lữ hành, hành trình đức tin của chúng ta còn lắm gian nan, nên cần phải cậy
trông vào Thiên Chúa và sẵn sàng phó mình cho một mình Ngài mà thôi. Vậy, chúng
ta phải ra công nỗ lực thực hiện mọi điều Chúa Giêsu dạy ngay từ bây giờ, vì
chỉ có Ngài là Đường, Sự Thật và Sự Sống không ai đến được với Chúa Cha mà
không qua Ngài (Ga 14,6).
4. Thưa Cha, cha mẹ đã rửa tội nhưng
không giữ và sống đạo, sinh con gái cũng rửa tội khi còn nhỏ lên lên không giữ
đạo đến khi lấy chồng không có đạo, sinh con. Đùng một cái, ông ngoại nó muốn
rửa tội cho cháu có được không?
·
Thứ
nhất, theo giáo luật số điều 868:
(1) Ðể một nhi đồng được rửa tội cách hợp pháp, cần thiết phải:
1. có
sự đồng ý của cha mẹ, ít là của một trong hai, hoặc của người thế quyền cha mẹ
theo luật;
2. có
hy vọng vững chắc rằng em bé sẽ được giáo dục trong đạo công giáo. Nếu hoàn
toàn không có hy vọng, thì phải hoãn việc rửa tội dựa theo các quy định của
luật địa phương, sau khi đã cho cha mẹ biết lý do.
(2)
Trong cơn nguy tử, một nhi đồng con của cha mẹ công giáo, và thậm chí không
công giáo, có thể được rửa tội cách hợp pháp, cho dù trái ý cha mẹ.
Như vậy, đứa trẻ kia có được cha mẹ nó
đồng ý hay không? Nếu không thì khó mà ban bí tích cho em vì sau này đức tin
của em sẽ sống ra sao vì cha mẹ, hay người thay thế quyền cha mẹ không sống đạo
như nói ở triệt 2.
·
Thứ hai, Bí tích
Rửa tội làm cho con người trở nên một với Đức Ki-tô; được làm con Thiên Chúa;
mang hình ảnh Người, được sáp nhập vào Hội thánh và trong gia đình Ba Ngôi
Thiên Chúa.
Một
trong những bản chất Giáo hội kêu gọi mọi tín hữu, luôn biết sống hiệp nhất nên
một với nhau trong Đức Giê-su Ki-tô, đó là dấu chỉ điều răn yêu thương mà Đức
Giê-su đã dạy. Sự hiệp nhất được biểu lộ qua Bí tích Rửa tội: “Bí tích Rửa tội làm cho chúng ta thành chi
thể trong Thân thể Đức Ki-tô, bởi thế mọi tín hữu là thân thể của nhau, trong
cùng một đức tin, một Phép rửa, chỉ có một Thiên Chúa ngự trong con người”
(Ep 4,2-6. 25).
Bí tích Rửa tội tháp nhập chúng ta vào Hội thánh, là
Dân Thiên Chúa của Giao ước mới … Tất cả đều đã chịu Phép rửa cùng một Thần Khí
để trở nên một Thân thể (1Cr 12, 13). Đức Ki-tô là Đầu, còn chúng ta là chi thể
của Người: “quả thế, bất cứ ai trong anh
em được Thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô ” (Gl 3, 27).
Khi
Rửa tội, mọi tín hữu được thông phần sứ vụ với Đức Ki-tô, và con người với nhau
mọi nơi; mọi lúc. Sự kết hiệp này ràng buộc cùng chiều kích đức tin. Điều cốt
yếu hiệp nhất là sự tuyên tín của Giáo hội: Duy nhất – Thánh thiện – Công
giáo – Tông truyền, nó hướng tất cả nên một không chia lìa.
Nhờ Bí tích Rửa tội, ta được tháp nhập vào
Giáo hội, nghĩa là: có bổn phận; trách nhiệm và quyền lợi được tham dự vào sứ
vụ của Giáo hội, chu toàn những gì Giáo hội trao ban và ủy thác. Bí tích Rửa
tội làm cho ta trở thành ki-tô hữu mới và được chia sẻ sự sống với Đức Ki-tô,
được cứu thoát khỏi cái chết để vào trong Hội thánh (1Pr 3,20.21).
Giáo hội tuyên tín đặc tính Duy nhất của mình, từ nền
tảng đó mà mọi thành phần Hội thánh trở nên một. Đây là sự vượt qua ranh giới
của mọi giai cấp; chủng tộc; mọi quốc gia; mọi tầng lớp văn hóa … Khi đã trở
nên một trong Giáo hội, ta không thuộc về mình, mà thuộc về Đức Ki-tô Phục
sinh, và con người có trách nhiệm; quyền lợi của Hội thánh. Thánh Phao-lô nhắn
nhủ: một khi được tháp nhập vào Hội thánh,
người tín hữu được mời gọi ăn ở khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại, hãy lấy tình
bác ái mà cư xử với nhau, hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem
lại, để cùng trao nhau tình yêu thương như Đức Giê-su đã thi hành.
Nhờ Phép rửa tội, ta bước vào Hội thánh, trở nên thành
phần của Giáo hội, vì vậy, mọi tín hữu mang hai chiều kích vừa là thực tại xã
hội; vừa là thực tại siêu nhiên trong Thân thể Đức Ki-tô. Đây là mối dây liên
kết mật thiết giữa Hội thánh và người thụ tẩy. Phép rửa còn đưa ta vào Hội
thánh qua việc hiệp thông với Đức Ki-tô - Ba ngôi; với mọi người. Phép rửa còn
là dấu chỉ thuộc về Hội thánh. Mỗi người có thể tham dự hoạt động của Đức Ki-tô
đều là thành phần của Hội thánh, đều thông phần dâng lễ tế của Đức Ki-tô, và
được sáp nhập vào Hội thánh, đây chính là Hội thánh Công giáo mà Phép rửa hướng
ta nên một, cũng như Giáo hội tuyên tín sự “Duy nhất” của mình.
Khi lãnh nhận Phép rửa, không những ta được tháp nhập
vào Hội thánh, là Thân thể Đức Ki-tô, mà còn trở nên: “những viên đá sống động để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây
dựng hàng tư tế thánh của Người” (1Pr 2,5).
5.
Con
đi lễ và thấy các bài giảng của các cha luân nhắc tới hai từ " luân
lý". Thật lòng con vẫn chưa hiểu khái niệm. Xin cha có thể giải thích?
Văn
hóa Phương Tây phân biệt luân lí qua hai từ: “morality” và “ethics”. Thứ nhất, “morality”
(đạo đức, đạo lý, đạo nghĩa), đó là một thứ luân lí mà dân chúng nên học hỏi
hoặc được giáo dục hoặc chịu ảnh hưởng của các tập quán đạo lí của xã hội, ví
dụ "Tiên học lễ hậu học văn"; cũng như của gia đình, chẳng hạn đi
thưa về trình, tôn ti trật tự. Dân chúng phải tuân hành để sống và thể hiện
tinh thần của luân lí đó, qua nhân cách của mỗi người trong cộng đồng.
Thứ
hai, “ethics” (đạo đức học) thông thường được hiểu là một môn học đạo đức, được nghiên cứu viết ra và được dùng giảng dạy
trong các lớp học đạo đức ở nhà trường, như là một môn học kiến thức để học trò
hiểu và biết cách thức phân tích, nhận định về đạo đức. Tuy nhiên, người học
trò KHÔNG BỊ RÀNG BUỘC PHẢI CHỌN cho mình một thái độ luân lí nào trong đó.
Tức, môn luân lí này không nhất thiết bắt buộc người học phải áp dụng và tuân
giữ trong đời sống của mình.
Còn
ở Việt Nam thông thường người ta hiểu luân lí như là những nguyên tắc sống hiền
hòa, nhân ái, kính trên nhường dưới, hiếu thảo cha mẹ, thuận hòa anh chị em,
không trộm cắp, không gian dối, không giết người, v.v…, và thường được cha mẹ và
thầy cô giáo khuyên lơn, dạy dỗ, hoặc được nhắc nhở qua ca dao tục ngữ, ví dụ
"ở hiền gặp lành"; "chị ngã em nâng"… cũng như qua những
tập tục lễ nghi, hội hè. Đặc biệt ở Việt Nam, ngoài ảnh hưởng của Ngũ giới Phật
giáo và Mười điều răn Đức Chúa Trời, (không tham lam, không giết người, không
trộm cướp, không loạn luân, v.v…, ) người Việt chúng ta còn chịu ảnh hưởng khá
sâu đậm của những điều luân lí chứa đựng trong Ngũ thường “nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín” của Khổng giáo. Còn Luân lý
Kitô giáo là luân lý của sự hoàn thiện Tin Mừng và sự hiểu biết của con người
(Tám Mối Phúc Thật).
6. Trong các bài chia sẻ tin mừng con
thấy có ba từ" thánh giá" "khổ giá" và "thập giá",
xin cha cho con biết: -khái niệm 3 từ trên, 3 từ đó co mối liên hệ gì, khi nào
thì ta dùng một trong 3 từ trên? (Trích tài liệu của Cha Huỳnh Trụ)
Thứ
nhất ta hiểu từng chữ:
- Thập Tiếng hán chữ十 (thập), nghĩa là dt. (1) Tên số một cộng chín: thập
nhân (mười người); tt. (2) Số nhiều: thập mục sở thị (ai ai cũng
thấy); pht. (3) Rất; hết mức: thập phân, thập nhị phân (ngoại hạng);
(4) Hoàn toàn: thập toàn thập mỹ.
- Tự: chữ Hán, nghĩa là: dt.
(1) Chữ, ký hiệu ghi ngôn ngữ: văn tự; tự điển; (2) Biệt danh (tự
là tên được đặt khi đủ 20 tuổi làm lễ đội mũ và công khai gia nhập xã hội người
lớn): Đức Khổng Tử có “tự” là “Trọng Ni”; (3) Họ Tự ; đt.
(4) Người con gái đã hứa hôn.
- Giá: nghĩa là: dt.
(1) Khung để treo: y giá (khung áo); (2) Gác (để đặt đồ
vật): thư giá (kệ sách); (3) Cấu trúc của vật: cốt giá;
(4) Giàn: Đậu giá (giàn đậu); đt. (5) Bắt
cóc: cường hành giá tẩu (Dùng sức mạnh bắt đi); (6) Xây dựng
cầu, bắc cầu: giá kiều; (7) Đánh lộn: đả giá; (8) Chống
lại: giá bất trú (đấu không lại; không chịu nổi); (9) Tranh
cãi: khuyến giá (can đôi bên); (10) Làm điệu, ra vẻ ta
đây: bài giá tử; (11) Loại từ (lượng từ): Cỗ, chiếc: Nhất
giá phi cơ (một chiếc máy bay).
- Thánh: Có những nghĩa sau đây: dt. (1) Người tu
dưỡng nhân cách tới cõi cùng cực; (2) Phàm cái gì mà tới tột bực đều gọi là
thánh; (3) Lời nói tôn kính nhất; (4) Người hiểu thấu mọi việc; sáng suốt, cái
gì cũng biết rõ; (5) Họ Thánh; (6) Tôn xưng ông vua; (7) Người học thức hoặc
đạo đức thâm cao; (8) Nhân vật được tôn thờ hoặc thần linh; (9) Đấng tạo ra
trời, đất, chúa tể của muôn loài, theo một số tôn giáo; tt. (10)
Cái gì thuộc về nhà vua thời phong kiến; (11) Chữ trong Kitô giáo dùng để gọi
Chúa Giêsu và những gì thuộc về Chúa (Ví dụ: tượng thánh, chén thánh, nước
thánh, toà thánh...).
- Khổ: Nghĩa là: dt. (1) Trà; (2) Đắng [một trong ngũ vị:
điềm (ngọt), toan (chua), khổ (đắng), lạt (cay), hàm (mặn)]; (3)
Khó chịu đựng: Đồng cam cộng khổ; đt.
(4) Lao lực; (5) Ghét; (6) Cảm thấy không đủ: Xuân tiêu khổ đoản nhật
cao khởi (Đêm xuân chưa thấy gì thì mặt trời đã mọc lên); tt.
(7) Gian lao; (8) Vị đắng; (9) U sầu; (10) Buồn sầu; (11) Làm cho người ta
buồn; pt. (12) Cố gắng: Mai đầu khổ đọc (cắm đầu
cố gắng học).
- Ác: nghĩa là: dt. (1) Việc xấu: Vô ác bất
tác (không việc xấu nào mà không làm); (2) Người chuyên làm việc
xấu: Thừa thiên tru ác (thừa lệnh trời giết người ác); (3)
Bệnh tật; (4) Vấy bẩn; (5) Cứt (phân); (6) Tà khí; (7) Kém hèn; tt.
(8) Hung dữ; (9) Không lương thiện; (10) Xấu xa; (11) thô thiển; pt.
(12) Rất.
Thứ hai, chúng ta hiểu các từ ghép
- Thập tự
giá
Thập là
mười; tự là chữ; giá: là đồ dùng để treo cái gì lên. Như vậy, thập tự giá là
cái giá có hình chữ thập. Chữ “thập” là chữ thập của chữ Hán, gồm hai nét ngang
và dọc: 十, chỉ số 10. Số mười
thường viết là 10. Đây là điểm quan trọng
cho thấy muốn hiểu tiếng Việt không thể không biết chữ Hán. Đối với những ai
không muốn dùng chữ Hán, có lẽ phải nói là “giá dấu cộng” (+) chứ không thể
nói “thập tự giá”.
Thập tự giá là
một dụng cụ hành hình tàn nhẫn thời xưa, thịnh hành nhất tại Persia, Damascus,
Giuđa, Israel, Carthage, Roma. Thông thường dùng để xử tử những người phản
nghịch, dị giáo, nô lệ và những người không có quyền công dân của đế quốc Roma.
Thập tự giá tiếng Anh là cross, bắt nguồn từ chữ Latinh crux. Trong Tân Ước dùng
chữ Hylạp là stauros, chữ này có 2 nghĩa: khúc cây bình thường và cây thập tự
giá đóng đinh Chúa Giêsu. Một số giáo phái Tin Lành, như “chứng nhân Yehowa”,
thì chỉ dịch là khúc cây và họ từ chối nhìn nhận thập tự giá của Chúa Giêsu.
Trong tiếng Anh cổ xưa cũng dùng chữ rood (thập tự giá) hay rod (cây). Sách
bách khoa Berry
kể ra đến 385 loại thập tự giá.
Trong văn học phương Tây, coi thập tự giá như tượng trưng cho sự đau
khổ, nhưng đối với Kitô hữu, đó là thể hiện ơn cứu rỗi của Chúa Kitô.
- Thập
giá
Thập là mười; giá là khuôn treo. Thập giá: là mười cái khuôn
treo hay mười chiếc, không có nghĩa là cái giá hình chữ
thập. Thập tự giá nói tắt thành “thập giá” thì không đúng cho
lắm, cũng như chúng ta không thể rút ngắn thuật từ “chữ thập đỏ” thành “thập
đỏ”, hay “hồng thập tự” thành “hồng thập”. Thuật từ “thập giá” thay cho thuật
từ “thập tự giá” đã có từ lâu và sử dụng quá phổ biển, nên đã trở thành thuật
ngữ chuyên biệt của Kitô giáo, đạo Cao Đài thì chỉ dùng thuật từ “thập tự giá”.
Đối với Kitô hữu, ai ai cũng chấp nhận “thập giá” đồng nghĩa với “thập tự giá”,
cho nên khi ban đầu dùng sai rồi, nay kể như là đúng, mà cũng không ai thắc
mắc, được kể như một thuật từ chuyên dùng. Đây là một trong những trường hợp
ngoại lệ. Nói như vậy không có nghĩa là tất cả các thuật từ dùng sai rồi, đã
phổ biển, thì đương nhiên trở thành thuật từ đúng, đổi trắng thay đen được.
Cũng vậy, thuật từ “tạo vật” nghĩa là Đấng “Tạo Hoá”, không thể vì không hiểu
mà trở thành “thụ tạo” được. Về phương diện nghiên cứu, không nên chỉ theo cảm
tính, mà phải theo lý trí.
- Thánh
giá
“Thánh”
nghĩa là thuộc về Chúa, dâng hiến cho Chúa; giá: đồ dùng hay khuôn để treo lên.
Thánh giá nghĩa là khuôn được thánh hiến. Thuật từ Thánh giá không nói đến
“giá” có hình dáng gì, mà chỉ nói đến cái giá được thánh hiến mà thôi.
Chúng ta biết Chúa Kitô đã bị đóng đinh vào cây giá (Lc 24,39; Ga 20,
25). Nhưng không biết cây giá đó có hình chữ T hay có phần trồi lên trên thanh
ngang như hình chữ “thập” (十), truyền thống Giáo Hội
thì thường là hình chữ thập, tuy nhiên
cũng có lưu truyền loại hình chữ T (gọi là crux commissa hay là thánh giá của
Thánh Antôn).
Đây cũng là một trường hợp thuật từ thánh giá được sử
dụng quá phổ biến mà trở thành một thuật từ riêng biệt của Kitô giáo. Nếu chúng ta muốn dùng thuật từ thánh giá để chỉ cái
giá có hình chữ thập theo truyền thống Công giáo, thì thuật từ thập tự
thánh giá mới đúng hơn. Bằng không thì thuật từ thánh giá cũng rất
hay, vì không cần tranh luận cái giá đóng đinh Chúa có hình dáng gì.
- Khổ giá
Nghĩa là cái giá đau khổ, gây đau khổ cho Chúa Giêsu. Chính vì Chúa
Giêsu chịu đóng đinh trên cái giá đó, nên trở thành khổ giá. Chúa Giêsu đã đem
lại cho đau khổ và sự chết một ý nghĩa lớn lao nhờ chia sẻ sâu xa thân phận bi
đát của con người. Đau khổ và sự chết của Đức Giêsu trở thành cần thiết cho một
mùa màng lớn lao tức là ơn cứu rỗi muôn dân. Để cho rõ nghĩa hơn, nên nói “thâp tự khổ giá”, nhưng chúng
ta cũng quen dùng khổ giá để chỉ thập tự khổ giá.
-Thập ác
Thập là
mười, ác là việc xấu, thập ác là mười việc xấu hay mười tội ác.
Cuối cùng, chúng ta để ý đến sự khác biệt của
thập giá và thánh giá
- Thập giá
Trước khi
Chúa Giêsu chịu khổ hình trên cây thập tự thì cây thập tự chỉ được gọi là cây
THẬP TỰ GIÁ, là một cái giá hành hình có kiểu dáng chữ thập, là một cực hình
của thế giới phương Tây. Biểu tượng của
cây thập tự giá đối với những người không có niềm tin vào Đức
Giêsu Kitô là một biểu tượng của sự chết, là sự ô nhục, điên rồ và ngu xuẩn (1
Cor. 1:23).
Thập tự giá cũng là biểu tượng của việc
hy sinh hãm mình của Kitô hữu: “Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá
hằng ngày mà theo !” (Lc. 9:23).
- Thánh
giá
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết, lên trời vinh hiển thì cây
THẬP TỰ GIÁ trở thành một báu vật của nhân loại và được gọi là THÁNH GIÁ bởi vì
cây thập giá ấy đã được diễm phúc làm nơi cho Thánh Tử Giêsu
yên nghỉ. Đối với những người có niềm tin vào Đức Giêsu Kitô thì cây thập
giá biến thành cây THÁNH GIÁ và là biểu tượng của niềm tin. Khi dâng
thánh lễ, trên bàn thờ phải có cây thánh giá.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét